Khoảng nửa tiếng sau thì khách hàng đó lại xin nhận tiền, nhưng tôi không có ý muốn trả. Sau một hồi cãi vã thì tôi đã bị mời lên phường công an để làm việc, rồi mời cả em gái và con tôi lên. Qua 24h nó đã thả chúng tôi ra. Và đợi ngày xét xử họ mời chúng tôi lên. Nhưng khoảng nữa tháng sau. Có 1 người công an nói cả 3 chúng tôi đều sẽ ở tù vì tội cấu kết chiếm đoạt tài sản từ 50 đến 200 triệu. Ở tù từ 2 đến 7 năm tù. Cho tôi hỏi. Điều đó có đúng không ? Bởi vì tôi chỉ nhặt được của rơi sau đó cũng đã trả lại công an?

Xin cảm ơn Luật sư của LVN Group! (người hỏi: Nguyễn Hoa, Thành phố Hà Nội).

 

Trả lời:

1. Quy định của pháp luật về phát hiện tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên

Về khía cạnh dân sự Khoản 1 Điều 230 Bộ luật Dân sự 2015quy định như sau:

1. Người phát hiện tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà biết được địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc trả lại tài sản cho người đó; nếu không biết địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại.

Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản phải thông báo cho người đã giao nộp về kết quả xác định chủ sở hữu.

Căn cứ theo quy định trên thì về mặt dân sự, khi bạn nhặt được vật bị đánh rơi bỏ quên, ở đây là ví tiền thì nếu trong ví có các giấy tờ xác định được chủ sở hữu của chiếc ví thì bạn cần trả lại cho chủ sở hữu. Nếu không có điều kiện để giao trả trực tiếp hoặc không xác định được chủ sở hữu thì bạn cần giao nộp cho cơ quan công an cấp xã nơi gần nhất để phía cơ quan xử lý theo quy định của pháp luật. 

 

2. Khi nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm giữ trái phép tài sản?

Về mặt hình sự, trong trường hợp bạn nhặt được ví tiền với giá trị lớn như vậy và không giao trả cho chủ sở hữu ngay cả khi chủ sở hữu đã tìm đến thì bạn sẽ bị khởi tố về tội chiếm giữ trái phép tài sản theo quy định tại Điều 176 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Điều 176. Tội chiếm giữ trái phép tài sản

1. Người nào cố tình không trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc không giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm tài sản trị giá từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc dưới 10.000.000 đồng nhưng tài sản là di vật, cổ vật bị giao nhầm hoặc do mình tìm được, bắt được, sau khi chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc cơ quan có trách nhiệm yêu cầu được nhận lại tài sản đó theo quy định của pháp luật, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

2. Phạm tội chiếm giữ tài sản trị giá 200.000.000 đồng trở lên hoặc bảo vật quốc gia, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Như vậy, sau khi giao trả lại tài sản thì mức phạt của bạn sẽ là phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 02 năm. Về việc em gái và con của bạn có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không thì phải dựa trên các căn cứ như: họ có đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hay không, có sự thống nhất về ý chí giữa 3 người khi phạm tội hay không, họ có biết rằng chiếc ví đấy là tài sản của người khác không,…

Trong trường hợp em gái và con của bạn không đủ các dấu hiệu của đồng phạm thì sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm giữ trái phép tài sản như đã nêu trên.

 

3. Thế nào là đồng phạm?

Căn cứ theo Khoản 1 Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 (BLHS 2015) quy định:

Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”.

Để hiểu rõ hơn về đồng phạm chúng ta cần hiểu tội phạm là gì?. Theo khoản 1 Điều 8 BLHS 2015 thì:

Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”.

Từ hai khái niệm trên, ta có thể hiểu đồng phạm là những người cùng tham gia vào việc thực hiện một tội phạm, mà khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, mỗi người tham gia không chỉ cố ý với hành vi phạm tội của mình mà còn biết và mong muốn sự tham gia của những người khác trong vụ án đó. Việc cố ý trong đồng phạm được thể hiện trên hai phương diện về lý trí và ý chí.

 

4. Dấu hiệu pháp lý của đồng phạm

Trước đây việc xem xét dấu hiệu pháp lý của đồng phạm bao gồm: Dấu hiệu khách quan và dấu hiệu chủ quan. Trong đó, dấu hiệu khách quan bao gồm cả dấu hiệu của chủ thể tội phạm. Tuy nhiên, hiện nay BLHS 2015 đã quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, do vậy, cần xem xét, nghiên cứu dấu hiệu này một cách độc lập, qua đó có góc nhìn toàn diện hơn khi xem xét trách nhiệm của cá nhân và pháp nhân trong vụ án đồng phạm.

Về dấu hiệu chủ thể:

Để có thể coi là đồng phạm, điều kiện đầu tiên về chủ thể thì phải có sự tham gia của ít nhất hai người trở lên vào việc thực hiện một tội phạm và những người này phải có đủ điều kiện là chủ thể của tội phạm. Nghĩa là những người này đạt đủ tuổi theo quy định tại Điều 12 BLHS 2015 và không thuộc trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định tại điều 21 BLHS 2015. Đây là dấu hiệu bắt buộc, nếu thiếu dấu hiệu về số lượng người tham gia thực hiện một tội phạm thì sẽ không phải là đồng phạm mà chỉ là trường hợp phạm tội đơn lẻ.

* Về dấu hiệu khách quan:

Những người đồng phạm phải cùng thực hiện một tội phạm. Hành vi của mỗi người là một khâu cần thiết cho hoạt động chung của tất cả những người đồng phạm. Mỗi người đồng phạm có thể đều thực hiện hành vi được quy định trong cấu thành tội phạm, nhưng cũng có thể họ chỉ thực hiện một phần trong chuỗi hành vi để tạo thành một hành vi phạm tội thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm.

Mỗi người đồng phạm có thể cùng tham gia thực hiện tội phạm bởi một loại hành vi, nhưng cũng có thể tham gia với những hành vi khác nhau. Hành vi của người này bổ trợ, bổ sung và là điều kiện cho hành vi của người khác, có ảnh hưởng tác động đến hành vi đó, làm cho nó có hiệu quả hơn.

Hành vi tham gia thực hiện một tội phạm có thể là: hành vi trực tiếp thực hiện, hành vi tổ chức, hành vi xúi giục, hành vi giúp sức thực hiện tội phạm. Nếu không có một trong bốn loại hành vi này thì không được coi là cùng thực hiện tội phạm, và vì thế cũng không phải là đồng phạm.  

Hành vi của mỗi người đồng phạm có mối quan hệ nhân quả đối với hậu quả chung của tội phạm, hậu quả chung của tội phạm là kết quả hoạt động chung của tất cả những người cùng tham gia thực hiện tội phạm đem lại. Hành vi của người thực hành là nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh hậu quả chung, còn hành vi của những người khác thông qua hành vi của người thực hành mà gây ra hậu quả.

* Về dấu hiệu chủ quan:

Những người đồng phạm đều cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Lỗi cố ý trong đồng phạm được thể hiện như sau:

– Về lý trí: Mỗi người đồng phạm đều nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và đều biết người khác cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng với mình. Luật hình sự không đòi hỏi là mỗi người phải biết được cụ thể về số lượng cụ thể và hành vi của những người đồng phạm khác mà chỉ cần họ nhận thức được có sự tham gia của người khác và hành vi của người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội, cùng phối hợp để thực hiện một tội phạm. Và trong đồng phạm, mỗi người đồng phạm đều thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và đều thấy trước hậu quả chung của tội phạm mà họ tham gia thực hiện.

– Về ý chí: Những người đồng phạm khi thực hiện hành vi đều mong muốn cùng thực hiện tội phạm và mong muốn hậu quả chung của tội phạm xảy ra.

Việc xác định hành vi, dấu hiệu chủ quan của pháp nhân thương mại sẽ căn cứ vào hành vi và dấu hiệu chủ quan của những con người cụ thể đại diện cho pháp nhân, nhân danh pháp nhân thực hiện các hành vi theo sự chỉ đạo, điều hành của pháp nhân, mang lại lợi ích cho pháp nhân và giải quyết theo nguyên tắc thông thường như trường hợp đồng phạp giữa cá nhân với cá nhân.

 

5. Vấn đề mục đích phạm tội và động cơ phạm tội trong đồng phạm

Trong đồng phạm thì mục đích phạm tội và động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc. Tuy nhiên, trong một số cấu thành tội phạm có quy định dấu hiệu mục đích phạm tội, động cơ phạm tội là dấu hiệu của tội phạm cụ thể thì để xác định có đồng phạm của tội phạm đó đòi hỏi phải xác định được tất cả những người đồng phạm đều có chung mục đích phạm tội, động cơ phạm tội đó, hoặc những người tham gia phạm tội không có cùng mục đích phạm tội, động cơ phạm tội nhưng đã biết và tiếp nhận mục đích, động cơ phạm tội của nhau.

Ví dụ: A có mục đích chống chính quyền nhân dân nên đã thuê B giết C là cán bộ. Trong trường hợp này, mặc dù B không có mục đích chống chính quyền nhân dân nhưng nếu biết mục đích phạm tội của A mà vẫn giết C thì hành vi của B được coi là đã tiếp nhận mục đích phạm tội chống chính quyền nhân dân nên B là đồng phạm với A về tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 113 BLHS 2015). Trong trường hợp B không biết được mục đích chống chính quyền nhân dân của A thì B không đồng phạm với A.

Trên đây là tư vấn của Luật LVN Group, Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ Luật sư tư vấn pháp luật Hình sự trực tuyến, gọi:  1900.0191 để được giải đáp. Rất mong nhận được sự hợp tác!