1. Khái niệm về vụ việc dân sự

Để tạo thuận lợi cho hoạt động xét xử của Tòa án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, cơ quan, tổ chức trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, v.v. trước khi có Bộ luật tô’ tụng dân sự năm 2004 Nhà nước ta đã ban hành nhiều vặn bản pháp luật về tố tụng, trong đó có Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (năm 1989) , Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (năm 1994) , Pháp lệnh thủ tục giải quyết các trạnh chấp lao động (năm 1996) , Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài (năm 1993) và Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài (năm 1995) . Các pháp lệnh này đã phát huy tôì đa tác dụng trong quá trình giải quyết các tranh chấp và yêu cầu của các bên.

Ở thời điểm các pháp lệnh này có hiệu lực chưa có khái niệm về việc dân sự và đương nhiên không có thủ tực cho loại việc này; cũng chưa có khái niệm về vụ việc dân sự. Lúc đó, chỉ có khái niệm vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, vụ án kinh tế, vụ án lao động và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động, các pháp lệnh này đã có quy định về trình tự, thủ tục giải quyết cho từng loại việc tương ứng. Các trình tự, thủ tục giải quyết vụ án được quy định trong ba pháp lệnh nêu trên vừa có những điểm chung giống nhau, nhưng trong mỗi pháp lệnh lại có những quy định đặc thù rất khác nhau.

Qua thực tiễn cho thấy, có những điểm quy định khác trong các Pháp lệnh nói trên là không hợp lý, không phù hợp với thực tiễn nên rất khó áp dụng. Chúng ta đều biết, bản chất các tranh chấp về kinh doanh, thương mại và tranh chấp về lao động có cùng sự bắt nguồn từ dân sự, trong một số trường hợp việc phần biệt thẩm quyền giữa dân sự và kinh doanh, thương mại, lao động là rất khó khăn nên rất hay nhầm lẫn. Hơn nữa, để đáp ứng sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế đòi hỏi luật nội dung cũng như luật tố tụng phải có sự tương thích của pháp luật trong nưdc với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết, hoặc gia nhập. Vì vậy, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã quy định một thủ tục chung về việc giải quyết các tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh thương mại, về dân sự, hôn nhân và gia đình, về lao động và đồng thời Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cũng quy định những điểm đặc thù cho mỗi loại việc một cách hợp lý.

Trong đó có phân chia ra hai loại thủ tục đó là trình tự, thủ tục khỏi kiện để Tòa án giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự) và trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa án giải quyết các yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là việc dân sự).

Như vậy, theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ việc dân sự được hiểu là các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các việc về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động.

2. Khái niệm về luật tố tụng dân sự

Luật tổ tụng dân sự Việt Nam là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gôm hệ thổng các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố tụng dân sự để bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự nhanh chóng, đúng đắn bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích của Nhà nước.

Quyền và lợi ích của các chủ thể là vấn đề quan trọng, là động lực để các chủ thể tham gia vào các quan hệ xã hội. Tuy ở những mức độ khác nhau nhưng pháp luật của các quốc gia trên thế giới đều công nhận và bảo hộ quyền, lợi ích chính đáng của các chủ thể. Quyền, lợi ích chính đáng của các chủ thể không trái pháp luật được Nhà nước bảo vệ được gọi là quyền, lợi ích hợp pháp.

Xã hội là hệ thống các quan hệ đa dạng và phức tạp. Khi tham gia vào các quan hệ xã hội các chủ thể phải thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Việc một chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật có thể sẽ xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác, dẫn đến tranh chấp. Để duy trì trật tự xã hội, Nhà nước thiết lập cơ chế pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Theo đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức hay chủ thể khác có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm có quyền sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để bảo vệ quyền, lợi ích đó như yêu cầu người có hành vi trái pháp luật chấm dứt hành vi trái pháp luật, yêu cầu toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.

Căn cứ vào Điều 2 Luật tổ chức toà án nhân dân (LTCTAND) năm 2014 thì toà án là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Toà án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lí, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình, toà án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đẩu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác. Do vậy, khi có chủ thể yêu cầu bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của họ trong trường hợp có vi phạm hoặc có tranh chấp thì toà án phải xem xét thụ lí giải quyết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Các vụ việc phát sinh từ quah hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và giầ đình, kinh doanh, thương mại và lao động do toà án giải quyết được gọi là vụ việc dân Sự. Trong đó, đốỉ với những việc có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên được gọi là vụ án dân sự; đối với những việc không có ữanh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên được gọi là việc dân sự.

3. Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự Việt Nam

Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự là quan hệ nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự) (Điều 1 Bộ luật dân sự – BLDS năm 2015). Với quy định này, luật dân sự nói chung và BLDS năm 2015 nói riêng đã mở rộng phạm vi điều chỉnh đến các quan hệ thuộc lĩnh vực luật tư và trở thành luật chung điều chỉnh các quan hệ tài sản. Trong trường hợp luật riêng không quy định trực tiếp để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực đó thì các quy định của BLDS năm 2015 sẽ điều chỉnh. Tuy nhiên, các quy định của luật riêng không được trái với những nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 3 BLDS năm 2015. Trường hợp lụật khác có liên quan không quy định hoặc có quy định nhưng vi phạm nguyên tác trên thì quy định của BLDS năm 2015 được áp dụng.

3.1. Quan hệ tài sản

Quan hệ tài sản là quan hệ giữa người với người thông qua một tài sản. Quan hệ tài sản bao giờ cũng gắn vởi một tài sản nhất định được thể hiện dưới dạng này hay dạng khác.

Tài sản (được khái quát chung ở Điều 105 BLDS năm 2015) bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Quan hệ tài sản tài sản không chỉ bó hẹp ở những vật vô tri mà còn hàm chứa nội dung xã hội là những quan hệ xã hội liên quan đến một tài sản.

Thứ nhất, quan hệ tài sản do luật dân sự điều chỉnh mang tính ý chí. Quán hệ tài sản phát sinh giữa các chủ thể là những quan hệ kinh tế cụ thể trong quá trình sản xuất, phân phối, lưu thông và tiêu thụ sản phẩm cũng như cung ứng dịch vụ trong xã hội. Quan hệ tài sản luôn gắn liền với quan hệ sản xuất và phù hợp với quan hệ sản xuất vốn là hạ tầng của xã hội.

Thử hai, quan hệ tài sản do luật dân sự điều chỉnh mang tính chất hàng hoá và tiền tệ. Định hướng chiến lược của nước ta hiện nay là phát triển nền kinh tể hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa (Điều 15 Hiến pháp năm 1992). Trong mô hình kinh tế này, các tài sản được thể hiện dưới dạng hàng hoá và được quy thành tiền. Sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ để bán, để trao đổi là đặc trưng của nền sản xuất này.

Thứ ba, quan hệ tài sản do luật dân sự điều chỉnh mang tính chất đền bù tương đương. Sự đền bù tương đương trong trao đổi là biểu hiện của quan hệ hàng hoá và tiền tệ, là đặc trưng của quan hệ dân sự theo nghĩa rộng. Nhưng không phải tất cả sự dịch chuyển tài sản, dịch vụ đều có sự đền bù tương đương như: cho, tặng, thừa kế, sử dụng các tác phẩm văn học nghệ thuật… Nhưng các quan hệ này không phải là quan hệ cơ bản và không phổ biến trong trao đổi; nó không chỉ đơn thuần là quan hệ pháp luật mà còn bị chi phổi bởi nhiều quan hệ xã hội khác (truyền thống, phong tục…).

3.2. Quan hệ nhân thân

Cùng với quan hệ tài sản, luật dân sự còn điều chỉnh các quan hệ nhân thân (Điều 1 BLDS năm 2015). Quan hệ nhân thân là quan hệ giữa người với người về một giá trị nhân thân của cá nhân hay các tổ chức. Việc xác định một giá trị nhân thân là quyền nhân thân phải được pháp luật thừa nhận như một quyền tuyệt đối của một cá nhân, tổ chức. Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với một chủ thể, về nguyên tắc không thể chuyển giao cho chủ thể khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Đó là một quyền dân sự tuyệt đối, mọi người đều có nghĩa vụ tôn trọng quyền nhân thân của người khác.

Các quyền nhân thân được nhiều ngành luật điều chỉnh. Luật hành chính quy định về trình tự, thủ tục để xác định các quyền nhân thân như: phong các danh hiệu cao quý của Nhà nước; tặng thưởng các loại huân, huy chương; công nhận các chức danh… Luật hình sự bảo vệ các giá trị nhân thân bằng cách quy định những hành vi nào khi xâm phạm đến những giá trị nhân thân nào được coi là tội phạm (như các tội: vu khống, làm nhục người khác, làm hàng giả…).

4. Nội dung cụ thể của luật dân sự hiện nay

Luật dân sự gồm các nguyên tắc cơ bản và có nhiều chế định khác nhau như: chế định tài sản và quyền sở hữu; chế định nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự, chế định nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi.về tài sản không có căn cứ pháp luật; chế định thực hiện công việc không có ủy quyền; chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; chế định thừa kế; chế định chuyển quyền sử dụng đất; chế định quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ. Mỗi chế định của luật dân sự đều có những nguyên tắc riêng trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản và có những quy phạm được tập hợp theo những tiêu chí riêng phù hợp với chế định đó.

5. Nhiệm vụ của luật Tố tụng dân sự Việt Nam

Theo quy định này thì luật tố tụng dân sự Việt Nam có những nhiệm vụ cơ bản sau đây:

Thứ nhất, thể chế hoá quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về cải cách hành chính, cải cách tư pháp. Để không ngừng nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ việc dân sự, đáp ứng được những yêu cầu mới của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong giai đoạn hiện nay luật tố tụng dân sự Việt Nam phải thể chế hoá được quan điểm, đường lối của Đảng trong Nghị quyết của Bộ chính trị số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Kết luận của Bộ chính trị số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 … Bên cạnh đó, luật tố tụng dân sự Việt Nam cũng phải thể chế hoá được quan điểm, đường lọi của Đảng ttong các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.

Thứ hai, quy định quy trình tố tụng dân sự thật sự khoa học làm cho các hoạt động giải quyết vụ việc dân sự, thi hành án dân sự và tham gia tố tụng dân sự của các chủ thể tố tụng có nhiều thuận lợi. Bên cạnh đó, cũng tạo ra được cơ chế kiểm sát, giám sát hoạt động tuân theo pháp luật ttong quá trình tố tụng dân sự có hiệu quả, bảo đảm các hoạt động tố tụng dân sự tiến hành được đúng đắn. Qua đó, bảo đảm việc giải quyết các vụ việc dân sự và thi hành án dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh, đúng pháp luật và bảo đảm được quyền bảo vệ cùa đương sự trong tố tụng dân sự.

Thứ ba, bảo đảm cho toà án xử lý được nghiêm minh các hành vi trái pháp luật; bảo đảm việc thi hành-được các bản án, quyết định dân sự của toà án. Trên cơ sở đó, ngăn chặn và khắc phục kịp thời hậu quả của các hành vi vi phạm pháp luật, góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ được lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chửc đồng thời giáo dục được mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.

Ngoài các nhiệm vụ cơ bản trên, luật tố tụng dân sự Việt Nam còn có nhiệm vụ bào đảm phát huy dân chủ tròng tổ tụng dân sự; tạo điều kiện cho mọi người đóng góp được nhiều sức lực và trí tuệ vào các công việc của Nhà nước và xã hội. Trong đó, có cả việc giải quyết các vụ việc dân sự và thi hành án dân sự.