1. Căn cứ khoa học nhân văn

Tính khoa học nhân văn thể hiện ở việc khi hoạch định thiết kế chính sách phải coi trọng yếu tố con người. Các chính sách xã hội phải con người vị trí trung tâm xuất phát, con người và phục vụ con người. Mục tiêu cuối cùng và cao nhất của mọi chính sách xã hội là vì con người vì sự tiến bộ xã hội. Nước ta là một nước của dân do dân vì dân vì thế các chính sách xã hội của nhà nước đều hướng tới mục đích là phục vụ nhân dân phục vụ sự phát triển của con người đảm bảo cho mọi công dân đều có cuộc sống ấm no an toàn cơ hội phát triển toàn diện hơn là mục tiêu phấn đấu của việc đổi mới hoàn thiện các chính sách xã hội ở Việt Nam.

2. Tính hệ thống trong hoạch định chính sách xã hội

Ở nước ta tất cả chính sách bao giờ cũng có quan hệ mật thiết với nhau cùng hướng tới mục tiêu chung là phát triển xã hội, phát triển con người. Các nhà hoạch định chính sách xã hội cần phải có cách nhìn tổng thể, đặt chính sách xã hội được thiết kế trong mối quan hệ với các chính sách khác. Ví dụ chính sách xóa đói giảm nghèo liên quan đến chính sách giáo dục và đào tạo, chăm sóc y tế, phòng chống tệ nạn xã hội, tín dụng… Việc hoạch định một chính sách xã hội cần bổ sung và các hệ thống chính sách hiện hành có thể tăng hiệu quả hiệu lực của cán bộ chính sách. Mặt khác nếu xây dựng chính sách xã hội mà thiếu tính hệ thống thì chính sách xã hội có thể mâu thuẫn với các chính sách hiện hành gây nên khó khăn cho công tác quản lý.

Chính sách xã hội thường bao gồm nhiều mục tiêu có thể lập thành cây mục tiêu, trong đó có một số mục tiêu trọng điểm. Các mục tiêu này phải được thiết kế trong mối tương quan với mục tiêu chính sách hiện có, không được mâu thuẫn với nhau và đều phải hướng vào mục tiêu xã hội tổng thể của đất nước. Ví dụ mục tiêu đảm bảo việc làm cho tất cả người lao động và mục tiêu trợ cấp xã hội đối với người thất nghiệp nhằm vào mục tiêu xã hội tong thể của quốc gia là đảm bảo mức sống cho các tầng lớp dân cư…

Tính hệ thống cho hoạch định chính sách xã hội còn đòi hỏi các nhà quản lý, hoạch định chính sách xã hội phải thấy được mối quan hệ và hỗ trợ lẫn nhau từ chính sách xã hội với các công cụ quản lý của Nhà nước, như công cụ pháp luật, kế hoạch, dự án xã hội… Chính sách xã hội được ban hành phải phù họp với quy định của hệ thống pháp luật hiện hành. Mặt khác các chính sách xã hội cần phải được thể chế hóa bằng luật, mang tính bắt buộc thực hiện.

3. Những căn cứ định hướng chính trị trong hoạch định chính sách xã hội

Đối với mỗi quốc gia, trong hoạch định chính trị xã hội cần phải dựa vào các căn cứ định hướng đường lối, chính sách của Đảng cầm quyền và phải căn cứ vào hệ thống pháp luật của nhà nước và phải tuân thủ quy định của pháp luật. Hệ thống luật pháp do nhà nước ban hành ở nước ta là sự thể chế hóa cương lĩnh chiến lược và các định hướng chính sách của Đảng. Vì vậy, rõ ràng là hoạch định chính sách xã hội phải căn cứ vào những quan điểm đường lối của Đảng và tuân thủ những quy phạm pháp luật được thể chế hóa từ đường lối chính trị đó.

Những chính sách quy định hiện hành cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách xã hội cần phải quy chuẩn xây dựng chính sách, đề ra các mục tiêu, xây dựng chương trình, dự án… để thực thi chính sách trong khuôn khổ pháp luật phù hợp với thể chế.

Pháp luật Việt Nam là một hệ thống pháp luật thống nhất, phản ánh ý chí nguyện vọng và lợi ích giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Hệ thống pháp luật ấy đã trải qua từng bước phát triển để vừa thích nghi với bối cảnh kinh tế – xã hội của thời đại và phù họp với định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã đề ra. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cho đến nay Nhà nước Việt Nam đã ban hành một số hệ thống lập pháp bao quát và điều chỉnh các quan hệ xã hội trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội những văn bản pháp luật này đã tạo ra những cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát triển các chính sách xã hội trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.

4. Điều kiện kinh tế hiện có trong mỗi quốc gia

Khi hoạch định một chính sách xã hội cần phải xem xét khả năng mức độ của nền kinh tế, mức độ tăng trưởng và phát triển của chính sách kinh tế. Bởi vì hoạch định chính sách xã hội cũng phải tính đến khả năng đáp ứng tài chính của nền kinh tế cũng như thu nhập và mức sống của dân cư người lao động khi tham gia và các chính sách xã hội.

Ở nước ta trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường với việc đổi mới hệ thống chính sách kinh tế đã và đang đem lại những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên cho đến nay nước ta vẫn làm nước có thu nhập rất thấp, trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh, khả năng cạnh tranh còn thấp, hạ tầng cơ sở xã hội còn lạc hậu… Trong môi trường đó của nền kinh tế, việc xác định các chính sách xã hội phải có sự phù hợp với những điều kiện kinh tế hiện có.

5. Tính lịch sử trong hoạch định chính sách xã hội

Các chính sách xã hội được hoạch định phù họp cho từng thời kỳ phát triển kinh tế – xã hội nhất định, nhằm thực hiện những mục tiêu xã hội nhất định trong từng thời kỳ lịch sử của một quốc gia. Đối với từng quốc gia các vấn đề xã hội luôn có sự vận động phát triển, nên khi có một chính sách xã hội không phù hợp hoặc khiếm khuyết lớn, Nhà nước cần có chính sách mới hoặc thực hiện điều chỉnh bổ sung các chính sách. Do đó, trong quá trình nghiên cứu hoạch định và thực thi chính sách xã hội cần phải có sự phân tích đánh giá đúng điều kiện lịch sử cụ thể để đưa ra những chính sách phù họp với từng thời kỳ, tránh hoạch định chính sách xã hội mang tính chủ quan duy ý chí.

6. Đặc trưng của việc xây dựng và đề xuất phương án chính sách

Xây dựng và đề xuất phương án chính sách có ba đặc trưng sau:
– Mục đích của việc xây dựng và đề xuất phương án chính sách là giải quyết vấn đề chính sách cụ thể. Sự tồn tại khách quan của vấn đề chính sách là tiền đề và cơ sở của việc xây dựng và đề xuất phương án chính sách. Tính chất, phạm vi và mức độ của vấn đề chính sách quyết định nội dung chủ yếu của phương án chính sách;
– Nội dung cơ bản của xây dựng phương án chính sách là thiết kế phương án và lựa chọn phương án. Việc thiết kế phương án chính sách chính là nhằm giải quyết vấn đề chính sách; đó là việc dựa trên các phương pháp định tính và định lượng để đề xuất ra các phương án chính sách khác nhau. Trên cơ sở các phương án chính sách đó, người thiết kế chính sách thông qua việc phân tích, so sánh và luận chứng một cách đầy đủ để lựa chọn một phương án chính sách có khả năng thực hiện được mục tiêu của chính sách một cách tốt nhất. Khi thiết kế phương án chính sách, cần quan tâm đến mục tiêu chính sách. Mục tiêu chính sách rõ ràng hay không sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng phương án chính sách cũng như ảnh hưởng đến việc thực thi. Việc đánh giá và xác định phương án chính sách ưu tiên cần quan tâm phân tích và luận chứng tính khả thi của phương án chính sách (tính khả thi về chính trị, kinh tế, kỹ thuật, hành chính, pháp luật…); đồng thời cần đánh giá sự ảnh hưởng của nhân tố tương lai đối với chính sách;
– Xây dựng và đề xuất phương án chính sách vừa là một hoạt động nghiên cứu, vừa là một hành vi chính trị. Xây dựng và đề xuất phương án chính sách là một quá trình hoạt động rất phức tạp. Một mặt, cần phát huy vai trò và sự tham gia của các nhà khoa học, tuân thủ các nguyên tắc, phương pháp khoa học để phân tích vấn đề chính sách, xác định mục tiêu chính sách, thiết kế phương án, đánh giá phương án và lựa chọn phương án phù hợp. Mặt khác, do chính sách liên quan đến việc điều chỉnh và phân phối lợi ích của những đối tượng liên quan trong xã hội, do đó cần coi trọng và đảm bảo sự tham gia của những đối tượng liên quan.

7. Những nguyên tắc cơ bản trong việc xây dựng và đề xuất phương án chính sách

– Nguyên tắc đầy đủ về thông tin: Thông tin là cơ sở và căn cứ của việc xây dựng và đề xuất phương án chính sách; do đó, người thiết kế chính sách cần thông qua nhiều phương thức khác nhau để có được thông tin toàn diện và chính xác;
– Nguyên tắc hệ thống: Khi xây dựng và đề xuất phương án chính sách, người thiết kế chính sách cần xuất phát từ quan điểm hệ thống để phân tích tổng hợp đối với phương án chính sách, cần giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích chỉnh thể và lợi ích bộ phận, giữa điều kiện bên trong và điều kiện bên ngoài, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, giữa mục tiêu chủ yếu và mục tiêu thứ yếu. Đặc biệt, nguyên tắc hệ thống còn yêu cầu, người thiết kế chính sách cần thấy được mối quan hệ và sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các chính sách, hạn chế tình trạng xung đột chính sách;
– Nguyên tắc dự báo khoa học: Có nghĩa là việc thiết kế và đề xuất phương án chính sách cần đặt nó trong xu thế vận động và nhu cầu của tương lai;
– Nguyên tắc khả thi: Có nghĩa là việc đề xuất và thiết kế phương án chính sách cần phân tích một cách toàn diện để xác định có khả thi hay không, nhất là với điều kiện và nguồn lực hiện tại, có thực hiện được hay không, hiệu quả có đảm bảo hay không;
– Nguyên tắc hợp pháp: Có nghĩa là việc thiết kế và đề xuất phương án chính sách cần phù hợp với pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế;
– Nguyên tắc dân chủ: Có nghĩa là, việc thiết kế và đề xuất bất cứ phương án chính sách nào cần phải xem liệu có lợi cho lợi ích công hay không, có phản ánh thật sự nhu cầu và lợi ích của người dân hay không. Nguyên tắc dân chủ còn yêu cầu việc thiết kế phương án chính sách cần công khai, minh bạch, cần đảm bảo sự tham gia của những đối tượng liên quan đối với quá trình này, nhất là phát huy vai trò và sự tham gia của các tổ chức tư vấn chính sách. Việc thực hiện tốt nguyên tắc dân chủ, nhất là đảm bảo tính công khai, minh bạch và sự tham gia của người dân có tác dụng quan trọng đối với việc thực hiện các nguyên tắc nói trên.