Khách hàng: Kính thưa Luật sư LVN Group, những điều khoản tự vệ ở các lĩnh vực khác với thương mại hàng hóa gồm những điều khoản nào? Luật sư hãy giúp em phân tích rõ hơn về vấn đề này ạ?

Em cảm ơn!

Trả lời:

 

1. Biện pháp tự vệ là gì?

Biện pháp tự vệ được hiểu là việc tạm thời hạn chế nhập khẩu đối với một hoặc một số loại hàng hoá khi việc nhập khẩu chúng tăng nhanh gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước. Biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng đối với hàng hoá, không áp dụng đối với dịch vụ, đầu tư hay sở hữu trí tuệ.

Mỗi nước nhập khẩu là thành viên WTO đều có quyền áp dụng biện pháp tự vệ, nhưng khi áp dụng thì họ phải bảo đảm tuân theo các quy định của WTO (về điều kiện, thủ tục, cách thức áp dụng biện pháp tự vệ). Doanh nghiệp cần chú ý đến công cụ này để có thể yêu cầu Chính phủ sử dụng nhằm bảo vệ lợi ích của mình trước hàng hoá nhập khẩu nước ngoài khi cần thiết

Các biện pháp tự vệ chính là các biện pháp mà căn cứ vào các điều khoản tự vệ hay miễn trách, cho phép một bên trong hiệp định thương mại tạm ngừng thực hiện nghĩa vụ đã được quy định trong hiệp định nhằm chống lại những diễn biến bất ngờ có hại cho nền kinh tế nước mình hoặc cho một ngành kinh tế và có những nguyên nhân góc rễ nêu trong hiệp định.

Trong hầu hết các trường hợp, những diễn biến xấu này là sự gia tăng hàng nhập do các biện pháp mở cửa hoặc tự do hóa theo hiệp định, với số lượng tới mức mà ngành hàng tương ứng trong nước bị để dọa thiệt hại nghiêm trọng. Các biện pháp tự vệ này có thể bao gồm việc tái áihyp dụng thuế quan hay các biện pháp hạn chế nhập khẩu khác.

Vấn đề xem ra có vẻ nghịch lý các biện pháp tự vệ theo định nghĩa trên có tính chất phương tiện nhằm thực hiện mức độ tự do ngày càng cao trong việc xâm nhập thị trường và tự do hóa thương mại. Nếu không có các biện pháp tự vệ này, những người đi đàm phán có thể do dự khi thỏa thuận những bước tiếp theo trong xóa bỏ thuế quan và hạn ngạch, dỡ bỏ những hàng rào phi thuế quan v.v… vì họ biết quá rõ rằng có những diễn biến mà khi xảy ra thì phạm vi và mức độ ảnh hưởng của chúng đối với nước họ khó có thể tiên liệu trước và chúng có thể gây những ảnh hưởng có hại cho nền kinh tế trong nước vì sự tự vệ bằng thuế quan và những hạn chế về số lượng(QRs) v.v… sẽ không còn tồn tại. Đây là nguyên nhân lý giải tại sao các hiệp định thương mại quốc tế lớn, bắt đầu từ Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT)/ Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và bao gồm hầu như toàn bộ các thỏa thuận ưu đãi, đều dự phòng một mạng lưới an toàn để chống nhũng biến cố như trên bằng cách đưa vào nội dung cơ hội áp dụng các biện pháp bảo vệ.

Tuy nhiên, không phải là bất kỳ biện pháp nào cũng được các điều kiện căn cứ vào đó mà các biện pháp tự vệ được áp dụng và các thủ tục phải được tuân theo thường được quy định rõ ràng. Theo Điều XIX, Hiệp định GATT được xem là khuôn mẫu chính cho điều khoản này.

Như vậy, định nghĩa trên không bao gồm các biện pháp chung, các tập quán kinh doanh không công bằng (như phá giá hay trợ giá) để bảo đảm an toàn và an ninh cho dân chúng, và để thi hành các ngoại lệ khác được quy định trong các hiệp định. Một vụ kiện đường biển là những biện pháp cán cân thanh toán được đưa ra thảo luận ngắn vào cuối chương này.

Khái niệm các biện pháp tự vệ có nguồn gốc trong lĩnh vực kinh doanh hàng hóa. Tuy nhiên, sự cần thiết thiết lập một mạng lưới an toàn trong trường hợp có những diễn biến không thể lường trước cũng xuất hiện trong các khu vực kinh tế khác (dịch vụ, di chuyển về người), nơi mà các biện pháp tự do hoá được áp dụng.

Ngoài việc mô tả rõ những điều kiện để áp dụng các biện pháp tự vệ, các quy tắc thủ tục đơn giản và minh bạch, trong trường hợp này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, về.nguyên tắc, các biện pháp tự vệ không được thực hiện trước khi cơ quan trung ương của hiệp định liên quan được thông báo và các cuộc tham vấn được tiến hành. Trường hợp ngoại lệ duy nhất cho hành động đơn phương không cần phải được phép trước là nếu không làm như thế thì thiệt hại không thể khôi phục, thì sẽ xảy ra.

 

2. Điều khoản về dịch vụ

Hiệp định Chung WTO về Thương mại Dịch vụ (GATS) cho phép thiết lập “Các Biện pháp Tự vệ Khẩn cấp” trên cơ sở không phân biệt đói xử (Điều X) bằng cách tổ chức các cuộc đàm phán đa phương để soạn thảo chúng.

Theo Điều 10 của Hiệp định có quy định về các biện pháp tự vệ khẩn cấp, theo đó:

– Sẽ có các cuộc đàm phán đa biên về các biện pháp tự vệ khẩn cấp được tiến hành dựa trên nguyên tắc không phân biệt đối xử. Kết quả của các cuộc đàm phán này sẽ có hiệu lực chậm nhất là ba năm, kể từ ngày Hiệp định thành lập WTO có hiệu lực.

– Trong thời gian trước khi các kết quả đàm phán nêu tại khoản 1 có hiệu lực, bất kỳ Thành viên nào có thể thông báo cho Hội đồng Thương mại Dịch vụ về ý định sửa đổi hoặc rút lại một cam kết cụ thể sau thời gian một năm, kể từ ngày cam kết đó có hiệu lực các quy định của khoản 1 điều XXI không áp dụng trong trường hợp này; với điều kiện Thành viên đó phải chứng minh với Hội đồng rằng việc sửa đổi hoặc rút lại cam kết không thể chờ đến khi hết thời hạn ba năm quy định tại khoản 1 Điều XXI.

– Các quy định của khoản 2 sẽ được ngừng áp dụng sau ba năm, kể từ ngày Hiệp định WTO có hiệu lực.

Dù rằng vấn đề này đã được bàn đến nhiều lần nhưng chưa một cuộc đàm phán nào được tổ chúc. Do đó trong bản Hiệp định này vẫn chưa có các biện pháp tự vệ hữu hiệu.

 

3. Điều khoản việc di chuyển về người

Việc di chuyển con người không nằm trong các FTA do các nước EFTA ký kết. Tuy nhiên, vấn đề này cần phải được đưa ra giải quyết trong những hiệp định gần đây nhất giữa các nước EFTA với EU, ví dụ trong Hiệp định EEA và trong hiệp định song phương giữa Thụy Sỹ và EU, vấn đề này vẫn chưa có hiệu lực.

Như một phản ứng đối với sự kiên quyết của EU về tự do hóa nhiều hơn về điều khoản tự vệ đã được đưa ra nhằm cho phép một thành viên áp dụng biện pháp đối phó khi có quá nhiều người đến nước này, thông thường là ngùng việc nhập cảnh. Trong EEA, ý tưởng này nấp sau thuật ngữ “những khó khăn về xã hội” trong điều khoản tự vệ thường xuyên và đã dẫn chiếu ở ưên. Trong bản dự thảo hiệp định song phương giữa Thụy Sỹ và EU thì một hệ thống nhiều nấc về việc tự do di chuyển người và lao động đã được soạn ra cho phép các thành viên can thiệp bằng các biện phâp tự vệ khi có những hậu quả không mong muốn dự thảo xảy ra đối với thị trường lao động trong nước.

 

4. Hiệp định thương mại tự do (FTA) là gì?

Hiện nay có nhiều cách hiểu về các Hiệp định thương mại tự do (FTA).

Hiệp định thương mại tự do (FTA) có thể mang nhiều tên gọi khác nhau. Ví dụ Hiệp định Đối tác Kinh tế (Economic Partnership Agreement), Hiệp định thương mại Khu vực (Regional Trade Agreement)… nhưng bản chất đều là các thỏa thuận hướng tới tự do hóa thương mại giữa các Thành viên…

Thành viên của các Hiệp định thương mại tự do (FTA) có thể là các quốc gia (ví dụ Việt Nam, Trung Quốc, Hoa Kỳ…) hoặc các khu vực thuế quan độc lập (ví dụ Liên minh châu Âu, Hong Kong Trung Quốc…). Vì vậy, thông thường khi nói tới Thành viên Hiệp định thương mại tự do (FTA), người ta hay dùng từ chung là “nền kinh tế”.

Các Hiệp định thương mại tự do (FTA) có thể là song phương (02 Thành viên) hoặc đa phương/khu vực (nhiều hơn 02 Thành viên).
Phạm vi “thương mại” trong các Hiệp định thương mại tự do (FTA) được hiểu theo nghĩa rộng, có thể bao gồm tất cả các hoạt động kinh doanh sinh lời, trong đó có thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và cả các vấn đề khác liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới thương mại (sở hữu trí tuệ, mua sắm công, lao động, môi trường…).

 

5. Nội dung của Hiệp định thương mại tự do (FTA)

Về phạm vi và các vấn đề được đề cập trong mỗi Hiệp định thương mại tự do (FTA) là khác nhau, phụ thuộc vào lựa chọn và thỏa thuận giữa các Thành viên Hiệp định thương mại tự do (FTA).

Tuy nhiên, với tính chất chung là hướng tới loại bỏ rào cản đối với phần lớn thương mại giữa các nền kinh tế thành viên, một Hiệp định thương mại tự do (FTA) thường bao gồm các nội dung chính sau đây:

Nhóm các cam kết liên quan tới tự do hàng hóa (thương mại hàng hóa)

Nhóm này bao gồm các cam kết liên quan tới việc dỡ bỏ các rào cản đối với thương mại hàng hóa giữa các Thành viên, cụ thể:

– Ưu đãi thuế quan (thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu): Thường là một Danh mục liệt kê các dòng thuế được loại bỏ và lộ trình loại bỏ thuế (loại bỏ ngay hay sau một số năm)

– Quy tắc xuất xứ: Bao gồm các cam kết về điều kiện xuất xứ để được hưởng ưu đãi thuế quan và thủ tục chứng nhận xuất xứ

– Loại bỏ hoặc cắt giảm các hàng rào phi thuế quan: Bao gồm các cam kết ràng buộc, hạn chế các biện pháp hạn chế/cấm xuất nhập khẩu, giấy phép xuất khẩu, hàng rào kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm, chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ…

Ngoài ra, một số Hiệp định thương mại tự do (FTA) giai đoạn sau này còn có thêm các cam kết về các vấn đề thúc đẩy, hỗ trợ cho thương mại hàng hóa, ví dụ:

– Hải quan và tạo thuận lợi thương mại: Bao gồm cam kết về quy trình, thủ tục, minh bạch thông tin… trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hóa

– Các nguyên tắc trong đối xử với hàng hóa nhập khẩu khi lưu thông trong thị trường nội địa

Nhóm các cam kết liên quan tới tự do dịch vụ (thương mại dịch vụ)

Không phải Hiệp định thương mại tự do (FTA) nào cũng có các cam kết về thương mại dịch vụ. Thông thường thì các Hiệp định thương mại tự do (FTA) được đàm phán ký kết ở giai đoạn sau này mới có các cam kết về vấn đề này, thường sẽ bao gồm:

– Mở cửa thị trường dịch vụ: Thường là một Danh mục các dịch vụ cam kết mở và các điều kiện mở cửa cụ thể

– Các nguyên tắc liên quan tới việc đối xử với nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài khi họ cung cấp dịch vụ vào Việt Nam hoặc cho tổ chức, cá nhân Việt Nam

Nhóm các cam kết liên quan tới các vấn đề khác

Các Hiệp định thương mại tự do (FTA) giai đoạn sau này thường có thêm các cam kết về một hoặc một số các lĩnh vực khác không phải thương mại hàng hóa, dịch vụ nhưng có vai trò quan trọng trong thương mại, đầu tư giữa các Thành viên như:

– Đầu tư (có thể là cam kết về đầu tư độc lập hoặc cam kết về đầu tư gắn với mở cửa thị trường dịch vụ)

– Sở hữu trí tuệ

– Cạnh tranh

– Minh bạch, chống tham nhũng

– Môi trường

– Lao động…

Số các lĩnh vực và mức độ chi tiết của các cam kết trong mỗi lĩnh vực là khác nhau giữa các FTA, tùy thuộc vào sự quan tâm của các Thành viên và bối cảnh đàm phán.

 

Trên đây là nội dung Luật LVN Group sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

Luật LVN Group (Sưu tầm và biên tập).