Dưới góc độ khác, với tính cách là tổ chức đại biểu chủ quyền quốc gia, nhà nước có chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Giữa các chức năng của nhà nước có sự tác động qua lại nhau. Việc thực hiện chức năng xã hội là phương thức và điều kiện để thực hiện chức năng thống trị chính trị của giai cấp.

Đối với nước ta trong điều kiện thực hiện kinh tế thị trường định hướng XHCN cần thực hiện những nguyên tắc cơ bản sau:

>> Luật sư tư vấn luật đầu tư nước ngoài trực tuyến gọi:1900.0191

1. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng

Đảng Cộng sản là hạt nhân lãnh đạo trong hệ thống chính trị của xã hội XHCN. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là điều kiện đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân và sức mạnh của Nhà nước. Thông qua nhà nước XHCN Đảng Cộng sản thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với các quá trình phát triển của xã hội. Thực chất của sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là lãnh đạo chính trị mang tính định hướng.

Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước bao gồm nhiều mặt. Trước hết, Đảng vạch ra đường lối chính trị, nguyên tắc tổ chức và phương hướng hoạt động cho Nhà nước, Đảng lãnh đạo bằng giáo dục, thuyết phục; bằng tổ chức, hướng dẫn kiểm tra, giám sát cơ quan nhà nước thực hiện đường lối của Đảng. Bằng việc thông qua chương trình, kế hoạch hoạt động, bằng pháp luật và các chế độ ban hành của Nhà nước mà biến đường lối chính trị của Đảng thành ý chí và hành động cách mạng của quần chúng. Cán bộ, đảng viên của Đảng thông qua sự lựa chọn và tín nhiệm của quần chúng mà đảm đương các chức vụ trong bộ máy nhà nước.

Đảng lãnh đạo thông qua vai trò tiền phong gương mẫu của đảng viên và các cơ quan của Đảng trong việc chấp hành đường lối của Đảng, pháp luật và chính sách của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân. Đảng cùng với Nhà nước tuyên truyền giáo dục, vận động, tổ chức nhân dân chấp hành đường lối của Đảng, chủ trương chính sách của Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng bao gồm cả giám sát, kiểm tra thực hiện đường lối, kịp thời tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện và phát triển đường lối chính sách cho phù hợp với thực tế cuộc sống. Để làm tròn vai trò lãnh đạo Nhà nước, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới cả nội dung và phương thức lãnh đạo cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Hiệu quả quản lý của Nhà nước là tiêu chuẩn để đánh giá sự lãnh đạo của Đảng.

Để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước, Đảng phải có đường lối đúng đắn, sáng tạo. Đường lối đó phải lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở lý luận phương pháp luận, vừa phải xuất phát từ đặc điểm kinh tế – xã hội của đất nước, bám sát thực tiễn sinh động của sự nghiệp đổi mới. Nó là kết quả không chỉ ở sự vững vàng về bản lĩnh chính trị mà còn là sự phát triển cao của năng lực trí tuệ và phương pháp tư duy khoa học. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trọng đại này, Đảng phải nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực trí tuệ, thực hiện tốt công tác chỉnh đốn Đảng làm cho Đảng không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu.

Đội ngũ cán bộ có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng nói chung và việc thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước nói riêng.

V.I.Lênin viết: “Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”(1). Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, cán bộ là người đem chính sách của Đảng, của chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng. Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng. Đội ngũ cán bộ chẳng những là lực lượng tham gia xây dựng phát triển và hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng mà còn là lực lượng có vai trò quyết định sự thành bại của đường lối chính sách. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, công tác cán bộ là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của Đảng. Đảng là người định hướng chính trị, là nơi đào tạo và tiến cử nhân tài, là người cung cấp cán bộ cho các cơ quan nhà nước. Đây vừa là nội dung vừa là phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước.

Cùng với việc hoạch định đường lối, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước là một trong những nội dung và là phương thức quan trọng trong sự lãnh đạo của Đảng.

Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở cửa, để thực hiện tốt chức năng xã hội của Nhà nước không thể không thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát. Văn kiện Đại hội X chỉ rõ: “Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát với nhận thức và yêu cầu mới; công tác kiểm tra, giám sát phải góp phần phát hiện và khắc phục được những khuyết điểm, thiếu sót khi mới manh nha; bên cạnh việc tiếp tục thực hiện kiểm tra tổ chức và cá nhân đảng viên có dấu hiệu vi phạm, phải tăng cường chủ động giám sát, kiểm tra về phẩm chất đạo đức và kết quả thực hiện nhiệm vụ của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, về nhận thức và chấp hành Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Coi trọng kiểm tra, phát hiện nhân tố tích cực”(2)

2. Bảo đảm ổn định chính trị

Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, song chính trị không đóng vai trò thụ động mà tác động trở lại đối với kinh tế. V.I.Lênin nhiều lần khẳng định chính trị chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế. Thắng lợi hay thất bại về chính trị trực tiếp đe dọa sự sống còn của một chế độ xã hội nhất định. Chính trị của một giai cấp cầm quyền có vai trò to lớn chỉ đạo, định hướng hoạt động kinh tế của toàn xã hội, bảo đảm những lợi ích cơ bản, lâu dài của giai cấp đó. V.I Lênin khẳng định, không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó không thể nào giữ vững được sự thống trị của mình và do đó cũng không thể nào hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất. Chính trị không chỉ tác động trở lại, mạnh mẽ đối với kinh tế mà còn chi phối mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội.

Quán triệt nguyên tắc thống nhất biện chứng giữa kinh tế và chính trị, cũng như vai trò của chính trị đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, Đảng ta khi chủ trương đồng thời đổi mới kinh tế và chính trị thì đối với lĩnh vực chính trị cần thận trọng, cân nhắc từng bước một sao cho đổi mới mà không dẫn đến, mất ổn định. Trong chiến lược 10 năm 2001- 2010, Đảng ta chỉ rõ, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.

Bảo đảm sự ổn định chính trị sở dĩ là nguyên tắc thực hiện thắng lợi chức năng xã hội của Nhà nước vì:

– Sự ổn định chính trị tạo ra tiền đề, điều kiện cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu khách quan để tận dụng về nguồn vốn, thành tựu khoa học công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý kinh tế và mở rộng thị trường để phát triển kinh tế xã hội. Nếu không có được sự ổn định về chính trị thì không thể tiến hành hội nhập thắng lợi.

– Sự ổn định chính trị vừa là kết quả vừa là nguyên nhân để tăng cường quốc phòng an ninh, bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Bởi vậy đấu tranh chống âm mưu “Diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ, ban hành và thực hiện các chủ trương chính sách đúng đắn để phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững ổn định chính trị là nhiệm vụ có ý nghĩa rất quan trọng trong thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước.

– Sự ổn định chính trị là điều kiện quan trọng để thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế.

Những năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ổn định chính trị, sự nghiệp đổi mới đất nước thu được những thành tựu to lớn đáng tự hào. Chính sự ổn định chính trị là một trong những tiền đề, điều kiện quan trọng cho những thành tựu của hơn 20 năm đổi mới đất nước. Sự nghiệp đổi mới đất nước đi vào chiều sâu, nhiều vấn đề mới mẻ và phức tạp nảy sinh. Thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước cũng đứng trước những yêu cầu mới cao hơn, càng đòi hỏi phải đảm bảo sự ổn định chính trị.

3. Giữ vững định hướng XHCN

Mục tiêu lý tưởng XHCN mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với quy luật tiến hóa của lịch sử xã hội, với xu thế của thời đại và nguyện vọng thiết tha của nhân dân trong suốt mấy chục năm qua. Độc lập dân tộc gắn với CNXH là quy luật của cách mạng XHCN là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng và nhân dân ta. Tuy nhiên trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều phức tạp, việc giữ vững định hướng XHCN rất khó khăn. Đó là cuộc đấu tranh quyết liệt và phức tạp giữa định hướng XHCN với các thế lực cản trở và những nguy cơ, thách thức. Cuộc đấu tranh đó diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, kinh tế, chính trị, tư tưởng văn hóa, đối ngoại, an ninh quốc phòng…

Giữ vững định hướng XHCN vừa là mục tiêu vừa là, điều kiện, động lực của sự nghiệp đổi mới. Không quan tâm đúng mức để gây ra sự chệch hướng dù bất cứ một lĩnh vực nào cũng làmtổn hại đến sự nghiệp đổi mới, thậm chí đe dọa đến phát triển của dân tộc. Trong hơn 20 năm đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp nhằm giữ vững định hướng XHCN. Tuy nhiên, Đảng cũngchỉ rõ, trong quá trình thực hiện đã phạm một số khuyết điểm, lệch lạc kéo dài, dẫn đến chệch hướng ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, ở mức độ này, mức độ khác. Nếu không được khắc phục có hiệu quả thì những khuyết điểm lệch lạc đó sẽ làm suy yếu Đảng, làm mục ruỗng bộ máy nhà nước, biến chất chế độ, đưa đất nước đi chệch con đường XHCN. Hiện nay đất nước ta đã gia nhập WTO, vận hội mới cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước đã mở. Tuy nhiên, những thách thức to lớn, nghiệt ngã đãxuất hiện đặt ra yêu cầu rất cao và có tính nguyên tắc của vấn đề giữ vững định hướng XHCN.

4. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam có những đặc trưng cơ bản là: Nhà nước của dân, do dân, vì dân, quyền lực Nhà nước thống nhất không phân chia nhưng có sự phân công, phối hợp giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là công cụ của các tầng lớp nhân dân Việt Nam dùng để cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội XHCN, công cụ để tiến hành sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, để thực hiện có hiệu quả chức năng xã hội của Nhà nước, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là một nguyên tắc cơ bản vì:

– Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, trong quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị thì kinh tế quyết định chính trị. V.I.ênin cho rằng, chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế. Với kinh tế thị trường thì nhà nước tương ứng với cơ sở kinh tế ấy phải là nhà nước pháp quyền. Chúng ta chủ trương thực hiện kinh tế thị trường định hướng XHCN (nhằm mục đích quá độ lên CNXH) thì nhà nước tương ứng với cơ sở kinh tế đó phải là Nhà nước pháp quyền XHCN. Trong nền kinh tế thị trường tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau (nhất là khác nhau về sở hữu tư liệu sản xuất) do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế khác nhau. Các chủ thể kinh tế này độc lập tự chủ về vốn, về sản xuất kinh doanh, về thị trường, công nghệ, lao động và tiêu thụ sản phẩm. Quyền tự chủ về kinh tế được thể hiện ở quyền thành lập doanh nghiệp, quyền tự do ký kết các hợp đồng kinh tế… Kinh tế thị trường đặt ra yêu cầu rất cao đối với tính tự chịu trách nhiệm, tính chủ động sáng tạo và nỗ lực cá nhân. Để khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng kinh tế – xã hội và tính chủ động sáng tạo của các chủ thể kinh tế, của mọi thành phần kinh tế cũng như mỗi con người, phải xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.

Trong những năm qua, bên cạnh những thành tựu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, góp phần quan trọng tạo nên những thành tựu to lớn đáng tự hào của sự nghiệp đổi mới đất nước, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cũng tồn tại nhiều yếu kém, bất cập, nổi lên là: Bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, quan liêu, hiệu lực không cao, cơ chế vận hành còn chồng chéo, pháp luật kỷ cương không nghiêm, một bộ phận không nhỏ cán bộ, viên chức nhà nước thoái hóa biến chất…

Để bảo đảm thực hiện có hiệu quả chức năng xã hộicủa nhà nước cần đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.

5. Bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân

Dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, dân chủ là khát vọng, là mục tiêu mà con người vươn tới, đồng thời là động lực to lớn thúc đẩy con người hành động. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định dân chủ có nghĩa dân là chủ và dân làm chủ. Một khi nhân dân là chủ, làm chủ mọi quyền lực xã hội sẽ khơi dậy được sức sáng tạo của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ đất nước. Để phát huy những thuận lợi các nguồn lực trong nước, tranh thủ những nguồn lực từ bên ngoài đòi hỏi phải thực hiện dân chủ.

Báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Dân chủ XHCN vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện môi quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân”(3). Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, để thực hiện có hiệu quả chức năng xã hội của Nhà nước tất yếu phải thực hiện và phát huy dân chủ XHCN.

Thực tế những năm đổi mới đất nước cho thấy ở đâu không thực hiện tốt dân chủ hay dân chủ hình thức thì ở đó có không ít cán bộ nhà nước độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, tham nhũng… làm cho người dân bất bình tạo nên những điểm nóng, kinh tế – xã hội của địa phương không phát triển.

___

(1) V.I.Lênin toàn tập, NXB Tiến bộ, M.1974, tập 4, tr.473.

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ X, NXBCTQG, H.2006, tr.302.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ IX, NXBCTQG, H.2001, tr.134.

SOURCE: TẠP CHÍ XÂY DỰNG ĐẢNG  – PGS. TS. LÊ BỈNH – Học viện Chính trị – Hành chính khu vực I

Trích dẫn từ:http://www.xaydungdang.org.vn/

(LUATMINHKHUE.VN: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm  hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)