Phần thứ nhất
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
I. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT ÁN DÂN SỰ, THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Xuất phát từ bản chất của các quan hệ dân sự trong đời sống xã hội và quá trình Toà án giải quyết các tranh chấp dân sự phát sinh thì bản án, quyết định dân sự – kết quả giải quyết của Toà án nhân danh Nhà nước – là sự xác nhận quyền và nghĩa vụ dân sự của các đương sự có liên quan. Vì vậy, theo quy định của Điều 136 Hiến pháp năm 1992 (Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành), thì bản án, quyết định dân sự có hiệu lực của Toà án phải được đảm bảo thi hành theo những trình tự, thủ tục thi hành án dân sự.
Theo nguyên tắc hiến định nêu trên và yêu cầu khách quan trong hoạt động của Nhà nước, hoạt động thi hành án dân sự nhằm đảm bảo thực thi nghiêm chỉnh các bản án, quyết định dân sự. Tuy nhiên, việc xác định bản chất của thi hành án dân sự vẫn là vấn đề còn nhiều tranh luận cả từ góc độ lý luận và thực tiễn. Dựa trên những luận cứ khác nhau, có quan điểm cho rằng thi hành án dân sự là hoạt động tư pháp; hoạt động hành chính hay hoạt động mang tính chất hành chính – tư pháp. Xuất phát từ các quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở nước ta, nhiều ý kiến đồng tình với quan điểm cho rằng thi hành án dân sự là hoạt động đặc thù, vừa có tính chất của hoạt động hành chính, vừa có tính chất của hoạt động tư pháp. Điều này thể hiện ở một số điểm sau đây:
>> Luật sư tư vấn pháp luật dân sự trực tuyến (24/7) gọi số: 1900.0191
– Cơ sở của hoạt động thi hành án là các bản án, quyết định dân sự của Toà án; các cơ quan tham gia vào quá trình thi hành án chủ yếu là cơ quan tư pháp (theo nghĩa rộng);
– Thi hành án dân sự là giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, có mối quan hệ mật thiết, đan xen với các giai đoạn tố tụng trước đó (ví dụ: việc thi hành các quyết định khẩn cấp tạm thời của Toà án; trong quá trình thi hành án, Chánh án Toà án, Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền yêu cầu cơ quan thi hành án hoãn việc thi hành án, quyết định tạm đình chỉ thi hành án để xem xét lại bản án theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm…). Tuy nhiên, thi hành án lại có tính độc lập tương đối thể hiện ở chỗ hoạt động này được bắt đầu bằng quyết định của Thủ trưởng cơ quan thi hành dân sự đối với thi hành án dân sự. Những quyết định này mang tính bắt buộc chấp hành đối với tất cả các chủ thể có trách nhiệm và nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án. Các cơ quan, tổ chức, công dân, trong phạm vi trách nhiệm của mình có nghĩa vụ chấp hành và phối hợp thực hiện để thi hành án đạt hiệu quả. Tính chấp hành trong thi hành án phản ánh một đặc trưng chứng tỏ nó không đơn thuần là hoạt động tố tụng thuần tuý. Bên cạnh các chủ thể là Tòa án, Viện kiểm sát, chúng ta có thể thấy các chủ thể tham gia vào giai đoạn thi hành án đông đảo và đa dạng hơn so với các giai đoạn tố tụng trước đó, ví dụ UBND địa phương nơi người phải thi hành án cư trú; cơ quan, tổ chức nơi người phải thi hành án làm việc…
– Thi hành án và các giai đoạn tố tụng trước đó có mối quan hệ nhân quả với nhau. Trong lĩnh vực thi hành án hình sự, nếu ở giai đoạn điều tra, các cơ quan tiến hành tố tụng không kiên quyết áp dụng đầy đủ, kịp thời các biện pháp ngăn chặn như thu giữ, kê biên, phong tỏa tài sản… thì đến giai đoạn thi hành án, cơ quan thi hành án sẽ gặp rất nhiều khó khăn do đương sự cất giấu, tẩu tán tài sản dẫn đến tình trạng án tồn đọng không thể thi hành được. Hoặc nếu một bản án, quyết định được Tòa án tuyên một cách công bằng, thấu tình, đạt lý, rõ ràng, cụ thể, được dư luận ủng hộ, đồng tình thì việc thi hành án sẽ dễ dàng, nhanh chóng hơn nhiều. Ngược lại, nếu bản án, quyết định của Tòa án được tuyên không khách quan, toàn diện và công bằng, thiếu tính khả thi sẽ gây cản trở cho việc thi hành án, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan nhà nước. Đồng thời, việc thi hành án nhanh chóng, kịp thời sẽ có tác động tích cực trở lại đối với hoạt động xét xử, củng cố, tăng cường uy tín của cơ quan xét xử.
– Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân thì Viện Kiểm sát nhân dân không thực hiện chức năng kiểm sát chung như trước đây, có nghĩa là không thực hiện chức năng kiểm sát đối với hoạt động hành chính mà chỉ kiểm sát đối với hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, trong Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân hiện hành vẫn có một chương với nhiều điều quy định về kiểm sát thi hành án. Trong thực tiễn, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp đã ban hành nhiều kháng nghị đối với các quyết định về thi hành án. Tuy nhiên, tính chất của kháng nghị trong giai đoạn thi hành án có nhiều điểm không giống với kháng nghị trong giai đoạn xét xử… Điều này cho thấy rõ mối quan hệ mật thiết, đan xen giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với cơ quan thi hành án, giữa pháp luật tố tụng tư pháp với pháp luật về thi hành án, giữa quan hệ pháp luật tố tụng với quan hệ pháp luật về thi hành án.
– Quá trình thi hành án nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, do đó, các trình tự, thủ tục thi hành án cũng được quy định chặt chẽ bởi pháp luật giống như những thủ tục tố tụng trước đó vì đều liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Hơn nữa, yêu cầu đặt ra đối với những người tiến hành các trình tự, thủ tục thi hành án, kể cả Chấp hành viên trong thi hành án dân sự cũng không thấp hơn những người tiến hành tố tụng trước đó là phải độc lập và tuân theo pháp luật để bảo đảm duy trì sự thật trong bản án, quyết định của Tòa án và tiến tới đạt được sự thật trên thực tế; nếu không độc lập và chỉ tuân theo pháp luật thì giá trị sự thật mà bản án, quyết định của Tòa án đã xác định sẽ không còn nguyên nghĩa của nó, trừ trường hợp các đương sự có sự thỏa thuận tự nguyện khác trong quá trình thi hành án.
– Bản chất của thi hành án là dạng hoạt động chấp hành nhưng là chấp hành phán quyết của cơ quan xét xử với các cách thức và biện pháp khác nhau nhằm buộc người có nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án phải thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình. Mục đích cuối cùng của thi hành án là bảo đảm cho các quyết định của Tòa án được ghi trong bản án, quyết định được thực thi trên thực tế chứ không phải là ra văn bản áp dụng pháp luật hoặc quyết định có tính điều hành – nét đặc trưng của hoạt động hành chính. Mặt khác, tính chất chấp hành không chỉ là yêu cầu trong hoạt động thi hành án mà còn là yêu cầu bắt buộc trong các giai đoạn tố tụng trước đó với ý nghĩa cao nhất là chấp hành các quy định của pháp luật, bản thân pháp luật được Nhà nước ban hành có tính bắt buộc chung mà mọi người phải tôn trọng thực hiện.
II. SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM TRƯỚC KHI BAN HÀNH LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Quá trình phát triển pháp luật thi hành án dân sự ở nước ta từ năm 1945 có thể được khái quát qua các thời kỳ sau:
1. Thời kỳ từ tháng 8/1945 đến năm 1989
Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến trước khi có Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989, là giai đoạn mà tổ chức hoạt động thi hành án dân sự chưa được dựa trên một văn bản pháp luật chính thức có hiệu lực pháp lý cao do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, thậm chí có thời kỳ chỉ căn cứ vào Điều lệ tạm thời về công tác Chấp hành án ban hành kèm theo Công văn số 827/CV ngày 23/10/1979 của Tòa án nhân dân tối cao. Công tác thi hành án dân sự đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Toà án. Tuy nhiên, về vấn đề quản lý Nhà nước, hình thức tổ chức và pháp luật thi hành án dân sự có thể được chia thành các giai đoạn 1945 -1949, 1950 – 1980, 1981 – 1989.
Giai đoạn 1945 đến 1949: Trước cách mạng tháng Tám, ở nước ta đã tồn tại chế định Thừa phát lại. Căn cứ Luật tố tụng dân sự ban hành theo Nghị định ngày 16/3/1910 của Toàn quyền Đông Dương. Thừa phát lại là công lại do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm và quản lý, hành nghề trên cơ sở quy định của pháp luật, được hưởng thù lao của khách hàng theo biểu giá quy định và không có quyền từ chối thi hành nhiệm vụ khi được yêu cầu. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, Thừa phát lại chịu sự chỉ đạo trực tiếp của những công chức có trách nhiệm của Tòa án như: Chưởng lý, biện lý, thẩm phán, lục sự… Tổ chức Thừa phát lại chủ yếu tồn tại, hoạt động ở các thành phố lớn, còn ở các vùng nông thôn việc thi hành án do chính quyền cơ sở đảm nhiệm.
Thừa phát lại có các nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, tại phiên toà: Thừa phát lại có nhiệm vụ thông báo Toà khai mạc và bế mạc, gọi các đương sự, nhân chứng, thi hành lệnh giữ trật tự phiên toà;
Thứ hai, ngoài Toà án: Thừa phát lại tống đạt giấy tờ theo yêu cầu của Tòa án, thi hành án văn có hiệu lực pháp luật, triệu tập đương sự, lập các vi bằng theo quy định của pháp luật. Điều này cho thấy, một trong những nhiệm vụ chính của Thừa phát lại là thi hành án dân sự. Chế định thừa phát lại đã hình thành, tồn tại ở Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến năm 1950 và sau đó còn tiếp tục tồn tại dưới chế độ nguỵ quyền Sài gòn cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (1975).
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, hệ thống cơ quan Tư pháp mới được thiết lập trong cả nước. Trên cơ sở Sắc lệnh ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc cho giữ tạm thời các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung, Nam bộ cho đến khi ban hành những Bộ luật chung thống nhất cho toàn quốc, nếu những đạo luật ấy “không trái với các nguyên tắc độc lập của Nhà nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hoà”. Chế định thừa phát lại tiếp tục được duy trì. Tại Nghị định số 37 ngày 01/12/1945 về tổ chức Bộ Tư pháp, phòng giám đốc Hộ vụ được thành lập, trong đó có Ban công lại thực hiện nhiệm vụ quản lý tổ chức Thừa phát lại. Cũng theo tinh thần Sắc lệnh ngày 10/10/1945, những quy định về thủ tục thi hành án dân sự tiếp tục được áp dụng, đáp ứng yêu cầu của hoạt động tư pháp trong những năm đầu của chính quyền cách mạng. Tuy nhiên, tổ chức Thừa phát lại – hình thức tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự đầu tiên của chế độ mới, không còn mang ý nghĩa là công cụ của chính quyền thực dân phong kiến như trước đây, mà trở thành công cụ đắc lực trong việc thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án nhân dân.
Sắc lệnh số 13, ngày 20/11/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán đã đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho tổ chức thi hành án dân sự Việt Nam. Sắc lệnh quy định Ban Tư pháp xã có quyền “thi hành những mệnh lệnh của thẩm phán cấp trên” bao gồm các bản án, quyết định của Tòa án. Tại điều 3 của Sắc lệnh số 130 ngày 19/7/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã quy định: “Trong các xã, thị xã hoặc khu phố, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và thư ký đều chịu trách nhiệm thi hành những lệnh, mệnh lệnh hoặc án của các Tòa án. Bản án ấy sẽ tuỳ từng việc, chỉ định một nhân viên để giao cho việc thi hành lệnh, mệnh lệnh hoặc án”ở những nơi nào đã có Thừa phát lại riêng, thì đương sự có quyền nhờ thừa phát lại riêng thi hành mệnh lệnh”.
Như vậy, tổ chức thi hành án dân sự đã được hình thành ngay trong những năm đầu sau cách mạng tháng Tám thành công và tồn tại dưới hai hình thức là: Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã.
Tuy tồn tại hai lực lượng thi hành án, nhưng việc thi hành án dù do Thừa phát lại hay Ban Tư pháp xã tiến hành đều thể hiện quyền lực Nhà nước và được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Tại Điều thứ nhất của Sắc lệnh 130 quy định: “Các bản toàn sao hoặc trích sao bản án hoặc mệnh lệnh do các phòng lục sự phát cho các người đương sự để thi hành các án, hoặc mệnh lệnh của các Tòa án hộ đều phải có thể thức thi hành, ấn định như sau: “Vậy, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa truyền cho các thừa phát lại theo yêu cầu của đương sự thi hành bản án này, các ông chưởng lý và biện lý kiểm sát việc thi hành án, cai thị chỉ huy binh lực giúp đỡ mỗi khi đương sự chiếu luật yêu cầu”…
Về trình tự thi hành án, Thông tư số 24-BK ngày 26/4/1949 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc thi hành án Hình và Hộ đã quy định cụ thể những nguyên tắc chấp hành, thể thức chấp hành, cách thức thi hành các bản án và quyết định của Tòa án. Cụ thể là:
Về nguyên tắc chấp hành: theo dân sự, thương sự tố tụng, người đương sự được kiện, muốn chấp hành bản án của mình phải xin ở phòng lục sự một bản trích lục hoặc toàn sao bản án ấy. Nhưng việc chấp hành vẫn chịu quyền giám thị của chưởng lý và biện lý. Bản thân lục sự của Tòa án phải tự động gửi bản sao bản án cho người đương sự biết và thi hành.
Về thể thức thi hành: trong các bản trích lục hoặc bản sao được phòng lục sự cấp cho đương sự, bên dưới phải được lục sự ký: “thừa lệnh Tòa án”. Bên chữ ký của lục sự phải có chữ ký của thẩm phán công tố viên “duyệt”. Đó là những bản sao có thể thức chấp hành. Bản sao này chỉ được cấp có một lần. Nhưng trong trường hợp đặc biệt, ví dụ: đánh mất bản sao có thể thức chấp hành, ông Chánh án có thể ra mệnh lệnh cho phép phòng lục sự cấp một bản toàn sao khác có thể thức chấp hành. Vị chưởng lý và biện lý có nhiệm vụ kiểm soát những thể thức chấp hành này.
Về cách thức thi hành: pháp luật đặt ra những công lại riêng để thi hành các án hộ và thương mại, được gọi là các thừa phát lại. Tuy nhiên, thừa phát lại trước năm 1945 là lý trưởng, thì nay trong tổ chức tư pháp mới là tư pháp xã. Chức năng này của ban tư pháp xã đã được quy định chính thức trong Sắc lệnh số 13, ngày 24/01/1946 về tổ chức Tòa án và các ngạch Thẩm phán. Khi cần thiết, các vị chỉ huy binh lực sẽ can thiệp vào việc thi hành án.
Tuy nhiên, việc dân sự không có một cách thức thi hành duy nhất. Tuỳ theo bản chất, mỗi loại án hộ có một cách thức thi hành riêng. Các thẩm phán phải thấu triệt những thủ tục chấp hành và phải theo dõi công việc xem có đạt được kết quả không. Nếu cần, thẩm phán nên thân hành đến chứng kiến việc làm của các cơ quan thừa hành. Mỗi khi có trở lực trong việc chấp hành, ông biện lý có bổn phận can thiệp để tỏ rõ nhiệm vụ làm cho pháp luật được tôn trọng.
Thông tư số 24-BK ngày 26/4/1949 đã xác định trách nhiệm thi hành án của Thừa phát lại, Ban Tư pháp xã và nhấn mạnh vai trò của Uỷ ban xã, thị xã, khu phố và các cơ quan có liên quan trong việc hỗ trợ thi hành án. Rõ ràng Nhà nước không chỉ tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự trong giao lưu dân sự, thương sự và tố tụng mà còn đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự trong việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình bằng sự cưỡng chế của Nhà nước.
Có thể nói rằng, ngay từ những năm đầu của chính quyền cách mạng, dù phải đương đầu với biết bao khó khăn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền non trẻ trước sự tấn công của thù trong, giặc ngoài, Nhà nước ta vẫn không ngừng quan tâm xây dựng, kiện toàn tổ chức thi hành án dân sự. Bên cạnh đó đã từng bước hình thành pháp luật thi hành án dân sự, xác định cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự nhằm thể hiện bản chất của nền Tư pháp nhân dân, công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Tuy còn ở những bước đi ban đầu nhưng tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự đã có những đóng góp quan trọng vào việc hình thành và phát triển của nền Tư pháp mới thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước dân chủ nhân dân. Tuy vậy, ở giai đoạn này, tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự vẫn còn rất sơ khai, pháp luật thi hành án dân sự chưa đầy đủ và còn nhiều hạn chế, cần phải được tiếp tục củng cố, hoàn thiện trong giai đoạn tiếp theo.
Giai đoạn từ tháng 5 – 1950 đến năm 1980: Ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85/SL về “cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng“ tạo nên sự thay đổi có tính chất bước ngoặt trong tổ chức và hoạt động tư pháp nói chung và tổ chức hoạt động thi hành án dân sự nói riêng. Điều 19 của Sắc lệnh quy định: “Thẩm phán huyện dưới sự kiểm soát của biện lý có nhiệm vụ đem chấp hành các án hình về khoản bồi thường hay bồi hoàn và các án hộ, mà chính Tòa án huyện hay Tòa án trên đã tuyên”, việc phát mại bất động sản và phân phối tiền bán được cũng do thẩm phán huyện phụ trách. Trong trường hợp có nhiều bất động sản rải rác trong nhiều huyện khác nhau thì Biện lý sẽ chỉ định một thẩm phán huyện để việc phát mại vừa có lợi cho chủ nợ lẫn người mắc nợ. Theo quy định này, việc thi hành án dân sự do thừa phát lại và Ban tư pháp xã thực hiện trước đây được thay thế bằng thẩm phán huyện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chánh án. Sự kiện này đã làm thay đổi căn bản cơ chế, tổ chức hoạt động thi hành án dân sự. Thi hành án dân sự từ chỗ căn cứ vào yêu cầu của đương sự đã trở thành trách nhiệm của Nhà nước. Tòa án chủ động thi hành án dân sự mà không chờ yêu cầu của người được thi hành án.
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Quốc hội đã ban hành Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1960. Điều 24 của Luật này đã xác định: “Tại các tòa án nhân dân địa phương có nhân viên chấp hành án làm nhiệm vụ thi hành những bản án và quyết định dân sự, những khoản xử về bồi thường và tài sản trong các bản án, quyết định hình sự”. Vấn đề vị trí, chức năng, nhiệm vụ của nhân viên chấp hành án được xác định rõ trong Luật tổ chức tòa án nhân dân đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. Ngày 13/10/1972, Chánh án tòa án nhân dân tối cao đã ra Quyết định số 186/TC về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên. Tên gọi “Chấp hành viên” ra đời từ và đó tồn tại cho đến ngày nay. Theo quyết định 186/TC, Chấp hành viên (CHV) được đặt tại các tòa án nhân dân thành phố thuộc tỉnh, huyện, thị xã, khu phố và tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, với thẩm quyền cụ thể như sau:
– Chấp hành viên tại các tòa án nhân dân cấp huyện, thị xã thuộc tỉnh có nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định của Tòa án mình và của Tòa án cấp trên hoặc của Tòa án địa phương khác chuyển đến theo quy định của pháp luật.
– Chấp hành viên tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thi hành những bản án, quyết định có nhiều khó khăn như: Vụ án có liên quan đến bí mật quốc gia, đến công tác ngoại giao; vụ án có nhiều người phải thi hành án ở nhiều địa phương khác nhau; vụ án có nhiều tài sản gửi ở TAND tỉnh, thành phố (Thông tư số 187 – TC ngày 13/10/1972 của TANDTC hướng dẫn thực hiện Quyết định số 186/TC ngày 13/10/1972 về tổ chức nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên các TAND địa phương).
Nhà nước không tổ chức cơ quan thi hành án dân sự riêng mà chỉ đặt Chấp hành viên tại các TAND địa phương để thực hiện chuyên trách việc THADS. Chấp hành viên có nhiệm vụ thi hành những bản án, quyết định về dân sự, những khoản xử phạt tiền, tịch thu tài sản, bồi thường, hoàn trả lại tài sản trong các bản án, quyết định hình sự; giúp Chánh án TAND đôn đốc, kiểm tra công tác THA tại các TAND cấp dưới. Chấp hành viên thực thi nhiệm vụ dưới sự chỉ đạo của Chánh án TAND nơi mình công tác, không có quyền trực tiếp chỉ đạo công tác của Chấp hành viên TAND cấp dưới mà chỉ có trách nhiệm giúp Chánh án nắm tình hình, theo dõi kiểm tra, đôn đốc công tác THA của các Chấp hành viên tại các TAND cấp dưới, của Ban tư pháp xã, tổng kết rút kinh nghiệm về công tác THA tại địa phương.
Chánh án TAND địa phương có trách nhiệm quản lý, chỉ đạo Chấp hành viên của tòa án mình, đôn đốc, kiểm tra, hướng dẫn công tác THA của TAND cấp dưới; chỉ đạo công tác thống kê, sơ kết, tổng kết công tác THA, giải quyết khiếu nại về THA và xây dựng, bồi dưỡng, quản lý đội ngũ Chấp hành viên .
Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, Chấp hành viên có quyền định cho đương sự một thời hạn để tự nguyện THA, áp dụng biện pháp cưỡng chế mà pháp luật cho phép sau khi có sự thỏa thuận của Chánh án nơi Chấp hành viên công tác, yêu cầu lực lượng bảo vệ trật tự trị an giúp sức khi cần thiết, đề nghị TA có thẩm quyền cho hoãn, tạm đình chỉ THA. Đồng thời, Chấp hành viên phải có trách nhiệm thi hành đầy đủ và nhanh chóng các bản án, quyết định của tòa án (Điều 4,5 của Quyết định số 186/TC ngày 13/10/1972).
Ngoài ra, pháp luật cũng quy định trách nhiệm của Uỷ ban hành chính xã, phường cùng các cơ quan có liên quan trong việc hỗ trợ THA, VKSND các cấp kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc chấp hành bản án, quyết định của TAND (Điều 7 của Luật tổ chức VKSND). Thông tư số 443-TC ngày 04/7/1968 của TAND tối cao về việc đẩy mạnh công tác thi hành án đã xác định nhiệm vụ của chính quyền cấp xã là giáo dục, theo dõi, đôn đốc đương sự tự nguyện thi hành án, giúp tòa án điều tra nắm tình hình trong quá trình thi hành án.
Để đưa công tác thi hành án từng bước đi vào nề nếp, TAND tối cao đã ban hành Điều lệ tạm thời về công tác thi hành án (kèm theo công văn số 827/CV ngày 23/10/1979) quy định khá chi tiết, cụ thể về trình tự, thủ tục THA. Tại Điều 6 của bản Điều lệ nêu trên có quy định: “Khi bản án hoặc quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật hoặc theo pháp luật phải chấp hành khẩn cấp, TA đã xét xử bản án đó phải trích lục án cho CHV nơi phải chấp hành án và VKSND cùng cấp chậm nhất là trong ba ngày… Sau khi nhận được trích lục bản án, chậm nhất là ba ngày CHV phải tống đạt trích lục án cho những người phải chấp hành án, những người được chấp hành án và những người có quyền lợi liên quan; hướng dẫn cho họ cách tự nguyện chấp hành án và ấn định cho họ một thời gian để họ tự nguyện thi hành”.
Như vậy, nét đặc trưng trong nội dung quy định của Điều lệ tạm thời, cũng như các văn bản pháp luật trong thời kỳ này là khẳng định trách nhiệm chủ động của Nhà nước đối với việc thi hành các BA,QĐ của TA; nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong quá trình THA không được ghi nhận, điều này đã tạo ra tâm lý thụ động, ỷ lại, chỉ biết trông đợi vào Nhà nước của người được THA và người phải THA. Việc THA thể hiện tính chất “bao cấp” nặng nề, vừa làm tăng gánh nặng cho ngân sách nhà nước, vừa làm hạn chế hiệu quả công tác THA do không phát huy được tính chủ động và trách nhiệm của đương sự trong quá trình THA.
Giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1989: Với sự ra đời của Hiến pháp năm 1980, nhiều đạo luật về tổ chức của bộ máy Nhà nước cũng được ban hành nhằm kiện toàn bộ máy Nhà nước, phân định rõ chức năng của từng loại cơ quan, tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước bằng pháp luật. Điều 16 của Luật tổ chức TAND năm 1981 đã giao cho Bộ Tư pháp (mới được thành lập lại sau hơn 20 năm giải thể) đảm nhiệm công tác quản lý TAND địa phương về mặt tổ chức. Nghị định số 143 -HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp đã quy định: Bộ Tư pháp có chức năng quản lý TAND địa phương về mặt tổ chức, trong đó bao gồm cả việc quản lý công tác THADS. Theo Nghị định này Bộ Tư pháp có nhiệm vụ “trình Hội đồng Bộ trưởng ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các quy chế chấp hành án”. TAND tối cao đã bàn giao nhiệm vụ quản lý công tác THA trong phạm vi cả nước sang Bộ Tư pháp bắt đầu từ ngày 01/01/1982. Ngày 18/7/1982, Bộ Tư pháp và TAND tối cao đã ký thông tư liên ngành số 472 về “quản lý công tác THA trong thời kỳ trước mắt” quy định: ở địa phương tại các TAND tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương có Phòng THA nằm trong cơ cấu bộ máy và biên chế của TA để giúp Chánh án chỉ đạo công tác THA; ở các TA huyện,quận,thị xã,thành phố thuộc tỉnh có CHV hoặc cán bộ làm công tác THA dưới sự chỉ đạo của Chánh án. Việc quản lý, chỉ đạo và tổ chức thực thi nhiệm vụ của CHV vẫn do Chánh án TAND cùng cấp đảm nhiệm như đã quy định trong Quyết định số 186-TC ngày 13/10/1972. Biên chế của TAND địa phương do Bộ Tư pháp phân bổ. Căn cứ vào nhu cầu của công tác THA, Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xác định số lượng và bổ nhiệm CHV hoặc cử cán bộ làm công tác THA của TA mình và TA cấp dưới. Cơ chế quản lý công tác THA đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Tư pháp và TA từ Trung ương đến địa phương, đặc biệt là giữa các cơ quan Tư pháp và TA địa phương nơi công tác THA được trực tiếp thực hiện.
Trong việc quản lý và chỉ đạo công tác THA, Chánh án TAND huyện, quận báo cáo kết quả công tác THA với Sở Tư pháp và TAND tỉnh, thành phố. Chánh án TAND tỉnh, thành phố báo cáo công tác THA của địa phương mình với Bộ Tư pháp và TAND tối cao. Chánh án TAND và giám đốc Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thống nhất kế hoạch kiểm tra công tác THA ở huyện, quận, thị xã thuộc tỉnh.
Có thể thấy rằng, trong thời kỳ này tổ chức bộ máy cũng như nguyên tắc hoạt động của cơ quan THA chưa được chú trọng. Cơ chế quản lý và tổ chức THA chưa tạo được vị trí của CHV tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ đặt ra. Mặt khác, tổ chức và hoạt động THA là một giai đoạn khép kín trong TA và tuỳ thuộc vào sự chỉ đạo của Chánh án TAND địa phương. Vai trò của TAND tối cao (và tiếp đó là Bộ Tư pháp từ 1981 đến 1992) trong việc quản lý TA địa phương mới dừng lại ở vai trò quản lý chung, còn thực chất việc quản lý đội ngũ cán bộ TA, cũng như việc xây dựng đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động xét xử, THA do chính quyền địa phương đảm nhiệm. Nhiều năm liền mối quan tâm chú trọng của TA vẫn dành cho công tác xét xử, còn THA hầu như ít quan tâm. Điều này dẫn đến tình trạng án xét xử xong không được thi hành chiếm tỉ lệ ngày càng lớn trong lượng án phải thi hành hàng năm.
2. Thời kỳ từ năm 1990 đến trước khi có Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993
Pháp lệnh THADS ngày 28/8/1989, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1990, một hình thức văn bản pháp lý có hiệu lực cao, lần đầu tiên đã được ban hành, đặt cơ sở pháp lý cho việc tăng cường, hoàn thiện tổ chức và hoạt động THADS. Trên cơ sở đó, quy chế CHV đã được ban hành kèm theo nghị định số 68/HĐBT ngày 06/3/1990 của Hội đồng Bộ trưởng. Theo quy định của Pháp lệnh THADS năm 1989 và Quy chế CHV, thì chỉ có CHV là người được nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án quyết định của TA (trước đây việc THA, ngoài CHV còn có thể do cán bộ TA thực hiện). Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định số lượng biên chế CHV, cán bộ THA cho từng TA địa phương. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Chấp hành viên do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định theo đề nghị của Chánh án TAND địa phương. CHV được bổ nhiệm ở các TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và TAND quận, huyện.
Với Pháp lệnh THADS năm 1989, lần đầu tiên những quy định về THADS đã được pháp điển hoá. Việc tập trung thống nhất những quy định về THADS vào một hình thức văn bản pháp lý có hiệu lực cao đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật trong việc THADS, góp phần bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định về dân sự của TA, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tập thể và công dân, góp phần tăng cường pháp chế XHCN.
Pháp lệnh gồm 7 chương, 43 Điều. Chương một gồm 8 điều (từ Điều 1 đến Điều 8) nêu lên những quy định chung về THADS. Chương hai gồm 4 điều (từ Điều 9 đến Điều 12) là những quy định về CHV. Chương ba gồm 10 điều (từ điều 13 đến điều 22) quy định về thủ tục THA. Chương bốn gồm 15 điều (từ Điều 23 đến Điều 37) quy định biện pháp cưỡng chế. Chương năm gồm 2 điều (Điều 38, Điều 39) quy định việc khiếu nại tố cáo hành vi trái pháp luật của CHV và kháng cáo quyết định của Chánh án. Chương sáu gồm 2 điều (Điều 40, Điều 41) quy định việc xử lý vi phạm đối với người không chịu chấp hành BA,QĐ của TA. Chương bảy gồm 2 điều (Điều 42, Điều 43) là những điều khoản thi hành.
Điểm khác biệt quan trọng nhất so với việc THA trước khi có Pháp lệnh THADS thể hiện ở quy định: người được THA phải có đơn yêu cầu THA, thì TA có thẩm quyền mới tiến hành việc THA (Điều 14). Điểm mới quan trọng thứ hai là quy định về thời hiệu THA, có nghĩa là việc thi hành các BA,QĐ của TA cũng có thời hạn nhất định. Theo quy định tại Điều 16 của Pháp lệnh THADS, thì: Trong thời hạn 3 năm kể từ ngày BA,QĐ có hiệu lực pháp luật người được THA là công dân có quyền gửi đơn yêu cầu THA. Trong thời hạn đó, nếu người được THA không yêu cầu THA, thì BA,QĐ hết hiệu lực thi hành. Trong thời hạn 1 năm kể từ ngày BA,QĐ của TA có hiệu lực pháp luật, người được THA là tổ chức không yêu cầu THA, thì BA,QĐ hết hiệu lực thi hành (tài sản thu được sẽ nộp vào ngân sách Nhà nước).
Ngoài ra Pháp lệnh THADS năm 1989 còn quy định nhiều vấn đề mới liên quan đến quá trình THA, như việc hoãn THA (Điều 18), tạm đình chỉ THA (Điều 19), đình chỉ THA (Điều 20), trả lại đơn yêu cầu THA (Điều 21).
Với việc ban hành Pháp lệnh năm 1989, cơ chế THA đã có bước thay đổi cơ bản. Theo Pháp lệnh này, cơ chế kết hợp quyền tự định đoạt của đương sự với sự chủ động của CQTHA và CHV đã tạo ra sự phát triển mới trong công tác THADS. Quyền tự định đoạt của đương sự, một trong những nguyên tắc đặc trưng của tố tụng dân sự, trước đây mới chỉ được áp dụng trong giai đoạn xét xử, thì nay đã được vận dụng trong giai đoạn THADS. THADS là một giai đoạn độc lập tiếp theo giai đoạn xét xử, trong giai đoạn này người được thi hành vẫn có quyền tự định đoạt quyền lợi của mình, có quyền yêu cầu người phải THA thi hành những phán quyết của TA, nhưng cũng có quyền tự hòa giải, thỏa thuận với người phải THA về phương thức thi hành, thậm chí không yêu cầu người phải thi hành án thi hành một phần hoặc toàn bộ BA,QĐ của TA. Quyền tự định đoạt của đương sự đã trở thành một nguyên tắc quan trọng trong công tác THADS.
Tuy nhiên, Pháp lệnh năm 1989 vẫn có những quy định về quyền chủ động THA của CQTHA trong những trường hợp nhất định nhằm bảo vệ kịp thời lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và công dân (ví dụ: những BA,QĐ về trả lại tài sản, hoặc bồi thường thiệt hại tài sản XHCN, phạt tiền, tịch thu, án phí; những bản án,quyết định của TA chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay như bản án quyết định sơ thẩm về cấp dưỡng, trả công lao động, nhận người lao động trở lại làm việc hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ công dân…)
Lần đầu tiên, các nguyên tắc, trình tự, thủ tục THA; quyền, nghĩa vụ của các bên đương sự; các biện pháp cưỡng chế THA v.v.. đã được quy định một cách khá chặt chẽ, cụ thể, dưới hình thức văn bản pháp lý có hiệu lực cao là Pháp lệnh của Hội đồng Nhà nước (nay là Uỷ ban Thường vụ Quốc hội). Tiếp đó, hàng loạt văn bản pháp luật đã được ban hành nhằm cụ thể hoá, hướng dẫn thực hiện một số quy định của pháp lệnh, đảm bảo cho Pháp lệnh được thi hành nghiêm chỉnh như Thông tư liên ngành số 06-89/TTLN ngày 07/12/1989 của TAND tối cao, VKSND tối cao, Bộ Tư pháp; Thông tư liên ngành số 07- 89/TTLN ngày 10/12/1989 của TAND tối cao, Bộ Nội vụ hướng dẫn việc bảo vệ cưỡng chế THA v.v.. Đây là một bước phát triển mới trong quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật của Nhà nước ta nói chung và trong lĩnh vực THADS nói riêng, đặt cơ sở pháp lý cho việc tăng cường, hoàn thiện tổ chức và hoạt động THA. Cùng với sự đổi mới của cơ chế THA, đội ngũ cán bộ làm công tác THA cũng không ngừng được củng cố và tăng cường. Từ chỗ Thẩm phán vừa làm nhiệm vụ xét xử, vừa tổ chức thực hiện nhiệm vụ THA, đội ngũ cán bộ THA đã được chuyên môn hoá, có chức danh, tiêu chuẩn riêng và chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc thực hiện các phán quyết của TA.
Mặc dù cơ chế THA đã từng bước được hoàn thiện, đội ngũ cán bộ làm công tác này được củng cố, tăng cường một bước, nhưng sự chỉ đạo điều hành công tác THA vẫn chưa được thay đổi phù hợp. CQTHA, CHV thuộc TA, do TA trực tiếp chỉ đạo về nghiệp vụ và chịu trách nhiệm báo cáo cấp trên về kết quả của hoạt động THA. Mọi quyết định quan trọng trong thủ tục THA đều thuộc thẩm quyền của Chánh án. CHV với trách nhiệm là “Người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các BA,QĐ của TA”, thực ra chỉ là người thừa hành sự chỉ đạo của Chánh án, không có quyền năng thực sự để đảm bảo thực thi nhiệm vụ của mình. Mặt khác, Chánh án với tư cách là người chịu trách nhiệm về tổ chức và hoạt động xét xử phải đồng thời là người chỉ đạo việc thi hành các phán quyết của TA, dẫn đến tình trạng quá tải về công việc, có nơi, có lúc chưa giải quyết kịp thời các yêu cầu THA đặt ra. Hơn nữa, TA vừa là cơ quan xét xử duy nhất, vừa là cơ quan làm nhiệm vụ THA, dẫn đến tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, chưa thực sự đảm bảo tính khách quan, công bằng trong hoạt động THADS, khó lòng tránh khỏi sự băn khoăn, lo lắng trong nhân dân về hiệu quả công tác này.
3. Thời kỳ từ khi ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 đến trước khi có Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004
Đầu những năm 1990, công cuộc đổi mới nói chung và cải cách bộ máy Nhà nước nói riêng đã được tiến hành một cách khá tích cực, khẩn trương. Hiến pháp năm 1992 và các Luật về tổ chức bộ máy Nhà nước được Quốc hội khoá IX thông qua vào tháng 10/1992, đã đặt ra những nguyên tắc nền tảng cho quá trình cải cách Tư pháp, trong đó công tác THADS được đổi mới một cách cơ bản. Khác với Luật Tổ chức TAND năm 1981, Luật Tổ chức TAND năm 1992 không quy định thẩm quyền của TAND trong việc THA. Trong khi đó Luật Tổ chức Chính phủ năm 1992 lần đầu tiên đã xác định việc “quản lý công tác THA” là một trong những nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực pháp luật và hành chính tư pháp. Để thực hiện quy định của các đạo luật trên đây về công tác THA, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX ngày 6/10/1992 đã thông qua Nghị quyết về việc bàn giao công tác THA từ TAND các cấp sang các cơ quan của Chính phủ “chậm nhất vào tháng 6/1993”. Pháp lệnh THADS ban hành ngày 21/4/1993, có hiệu lực ngày 01/6/1993 thay thế Pháp lệnh THADS ban hành ngày 28/8/1989.
Điểm khác biệt căn bản nhất của Pháp lệnh THADS năm 1993 so với Pháp lệnh THADS năm 1989 chính là ở các quy định về tổ chức, cơ chế THA mới. Theo Pháp lệnh THADS năm 1989, TA có nhiệm vụ THADS, còn theo Pháp lệnh THADS năm 1993 thì nhiệm vụ THADS được chuyển cho một cơ quan Nhà nước mới thành lập và đi vào hoạt động từ ngày 01/7/1993, đó là hệ thống các CQTHADS. Việc ra các quyết định về THA trước đây thuộc thẩm quyền của Chánh án TA, thì nay thuộc thẩm quyền của Thủ trưởng CQTHA. Có thể nói, Pháp lệnh THADS ngày 21/4/1993 đã tạo ra bước ngoặt về tổ chức và hoạt động của công tác THADS ở nước ta, đưa công tác này sang một giai đoạn phát triển mới, đáp ứng yếu cầu của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Bắt đầu từ ngày 01/7/1993, tổ chức và hoạt động THADS chính thức tiến hành theo cơ chế mới. Các CQQLNN về công tác THADS, các CQTHADS được hình thành từ Trung ương đến các địa phương trong cả nước. So với trước đây, công tác THADS đã được đổi mới căn bản từ tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động.
Về CQQLNN về công tác THADS: Theo quy định của Pháp lệnh THADS năm 1993, việc THADS được Nhà nước giao cho CQTHADS thuộc Chính phủ đảm nhiệm. Trong việc tổ chức THADS, CQTHA và CHV hoạt động độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật, không một cơ quan, cá nhân nào được can thiệp vào quá trình thực thi nhiệm vụ THA. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức và hoạt động, CQTHA, CHV không thể thoát ly sự quản lý của Chính phủ, cơ quan được giao chức năng thống nhất quản lý Nhà nước về công tác THADS trong phạm vi cả nước.
Theo quy định tại Điều 10, Điều 11 của Pháp lệnh THADS năm 1993, các cơ quan giúp Chính phủ quản lý Nhà nước về công tác THADS bao gồm: Bộ Tư pháp;UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng phối hợp với Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý về công tác thi hành quyết định về tài sản trong các bản án hình sự của TA quân sự.
Trong phạm vi trách nhiệm của mình, Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ, giúp Chính phủ quản lý Nhà nước về công tác THADS và tổ chức việc THADS, có những nhiệm vụ,quyền hạn sau đây: Giúp Chính phủ chuẩn bị các dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác về công tác THADS; Chỉ đạo và kiểm tra thực hiện công tác THADS, trực tiếp quản lý hệ thống CQTHADS; quyết định việc thành lập, giải thể các CQTHADS; Thực hiện thanh tra Nhà nước về công tác THADS; Quản lý công tác đào tạo cán bộ và thực hiện chế độ, chính sách đối với CHV và cán bộ làm công tác THADS.
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thực hiện quản lý Nhà nước về công tác THADS ở địa phương theo quy định của Chính phủ.
Căn cứ nghị định số 30/CP ngày 02/6/1993 của Chính phủ, hệ thống cơ quan quản lý THADS đã nhanh chóng được hình thành ở cả ba cấp, bao gồm: Cục quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp; Phòng quản lý THA thuộc Bộ Quốc phòng; Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Phòng Tư pháp quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Ngày 20/7/1993, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ra Quyết định số 473/QĐ thành lập Cục quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp với nhiệm vụ, quyền hạn: Giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện việc quản lý Nhà nước về công tác THADS trong phạm vi cả nước; quản lý nghiệp vụ công tác THADS. Phòng quản lý THA thuộc Bộ Quốc phòng cũng đã được thành lập nhằm giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng phối hợp với Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện việc quản lý Nhà nước về công tác thi hành quyết định về tài sản trong bản án hình sự của TA quân sự và phối hợp với Cục quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp quản lý nghiệp vụ công tác thi hành quyết định về tài sản trong bản án hình sự của TA quân sự. Các cơ quan Tư pháp địa phương, nhất là ở một số huyện, thị xã mà trước đây Phòng Tư pháp bị giải thể do chủ trương sắp xếp, tinh gọn bộ máy, nay đã được khẩn trương thành lập lại nhằm giúp UBND cùng cấp và cơ quan Tư pháp cấp trên trong việc quản lý Nhà nước về công tác THADS địa phương, chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước UBND cùng cấp và cơ quan Tư pháp cấp trên về tình hình quản lý công tác THA và tổ chức việc THADS.
Về CQTHADS: CQTHADS là cơ quan có thẩm quyền tổ chức thi hành các BA,QĐ đã có hiệu lực thi hành của TA, được thành lập ở cấp tỉnh và cấp huyện, gồm có: Phòng THA thuộc Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Phòng THA quân khu và cấp tương đương; Đội THA thuộc phòng thi Tư pháp quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Trong cơ cấu tổ chức của các CQTHA, Trưởng phòng THA tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,Trưởng phòng THA thuộc quân khu và cấp tương đương, Đội trưởng đội THA quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là CHV trưởng, đồng thời là Thủ trưởng CQTHA. Pháp lệnh THADS cũng quy định rõ: Chỉ có Thủ trưởng CQTHA mới có quyền ra quyết định THA, quyết định hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ, trả lại đơn yêu cầu THA. Việc thành lập các CQTHADS với cơ chế THA mới đảm bảo sự độc lập trong tổ chức thực thi nhiệm vụ THA, không cho phép bất kỳ tổ chức, cá nhân nào, kể cả cơ quan quản lý THA cấp trên can thiệp trái pháp luật vào quá trình THA.
Là người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các BA,QĐ của TA, khi thi hành nhiệm vụ, CHV chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Theo quy định tại Điều 13 của Pháp lệnh THADS năm 1993, CHV có nhiệm vụ, quyền hạn như: Triệu tập đương sự, người có liên quan để thực hiện việc THA; quy định cho người phải THA một thời hạn để tự nguyện THA; áp dụng các biện pháp cưỡng chế quy định tại Chương IV của Pháp lệnh; yêu cầu tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của người phải THA hoặc phối hợp xử lý tang vật, tài sản và những việc khác có liên quan đến THA; đề nghị Thủ trưởng CQTHA ra các quyết định về THA; trực tiếp phạt tiền những người cố tình không THA; yêu cầu TA đã ra BA,QĐ giải thích những điểm chưa rõ để thi hành; lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật trong thi khi hành án và đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm.
CHV được cấp trang phục, phù hiệu, thẻ CHV để sử dụng làm nhiệm vụ và được hưởng thang bậc lương riêng. Về trách nhiệm của CHV, pháp luật cũng quy định rõ: CHV không thi hành đúng BA,QĐ của TA, trì hoãn việc thi hành, áp dụng biện pháp cưỡng chế trái pháp luật; vi phạm phẩm chất đạo đức của người CHV, thì bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức CHV, CHV trưởng do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức CHV, CHV trưởng làm nhiệm vụ trong quân đội do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định sau khi thống nhất ý kiến với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Việc quy định chặt chẽ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của CHV và quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh này đã khẳng định địa vị pháp lý của đội ngũ CHV trong tổ chức bộ máy Nhà nước tương xứng với nhiệm vụ được Nhà nước giao phó.
Như vậy, cùng với việc hình thành hệ thống CQTHADS, một cơ chế phối hợp về THADS cũng đã được xác lập. Trong điều kiện thực tế hiện nay phải đặt công tác THADS trong tổng thể hoạt động triển khai các nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội thì mới thấy hết ý nghĩa của cơ chế phối hợp này. Sự kết hợp chặt chẽ giữa vai trò chủ động, phát huy trách nhiệm của CHV, CQTHA và sự chỉ đạo sát sao, kịp thời của UBND các cấp, sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức có liên quan, tạo ra sức mạnh tổng hợp, nâng cao ý thức trách nhiệm của cả cộng đồng trong hoạt động THADS.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của đất nước, chức năng và nhiệm vụ của tổ chức THADS đang ngày càng mở rộng và tăng cường, đồng thời thực tế hoạt động THA cũng đặt ra những vấn đề mới, yêu cầu mới có tính cấp bách cần giải quyết. Pháp lệnh THADS năm 1993 được ban hành đã phục vụ cho việc thi hành Nghị quyết của Quốc hội về việc bàn giao công tác THADS từ TA sang các cơ quan của Chính phủ. Do Pháp lệnh THADS năm 1993 còn giữ nguyên các quy định của Pháp lệnh năm 1989, chỉ sửa đổi phần nội dung liên quan đến thẩm quyền của cơ quan quản lý công tác THA và thủ trưởng CQTHA, mà chưa có điều kiện sửa đổi bổ sung nhiều nội dung quan trọng khác như: biện pháp thi hành đối với bên phải THA là cơ quan, tổ chức; quy định các điều kiện hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ THA còn nhiều sơ hở…, dẫn đến tình trạng pháp luật không được chấp hành nghiêm chỉnh, gây nên tình trạng án tồn đọng, kéo dài nhiều năm không thi hành được. Mặt khác, sau khi Pháp lệnh THA dân sự năm 1993 ra đời, Nhà nước cũng đã ban hành một loạt văn bản pháp luật mới có liên quan đến công tác THADS như Bộ luật dân sự, Bộ luật lao động, Luật đất đai, Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật công ty… Đặc biệt với việc ban hành Luật phá sản doanh nghiệp, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, CQTHA đã được giao thêm các loại việc mới, có tính đặc thù như thi hành quyết định tuyên bố phá sản, THA kinh tế, lao động, hành chính… làm cho công tác THA không còn mang tính chất dân sự thuần tuý như trước đây. Ngoài ra, các CQTHADS còn đang đứng trước những khó khăn về lực lượng cán bộ, về cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động. Đồng thời các cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động THA đang đòi hỏi phải được hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra trong công cuộc cải cách Tư pháp nói chung và đổi mới công tác THA nói riêng theo tinh thần các Nghị quyết Trung ương đã đề ra.
4. Thời kỳ từ khi ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 đến trước khi có Luật Thi hành án dân sự năm 2008
Qua hơn 10 năm thi hành, Pháp lệnh THADS năm 1993 đã bộc lộ nhiều bất cập trước những đòi hỏi của quá trình đổi mới, cải cách hành chính, cải cách tư pháp. Nhiều vướng mắc về cơ chế quản lý, mô hình tổ chức, thủ tục THADS chưa được tháo gỡ kịp thời, dẫn đến tình trạng án tồn đọng có xu hướng gia tăng, đòi hỏi pháp luật THADS cần có sự bổ sung, hoàn thiện kịp thời để nâng cao hiệu quả công tác THADS. Vì vậy, ngày 14/01/2004 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh THADS sửa đổi thay thế Pháp lệnh THADS năm 1993.
Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 đã có những bước tiến mới về lập pháp, theo đó quy định cụ thể, đầy đủ hơn về tổ chức các cơ quan thi hành án và thủ tục thi hành án. Cụ thể là:
– Các Cơ quan quản lý nhà nước về thi hành án dân sự: Theo các quy định của Pháp lệnh THADS năm 2004 ngày 14/01/2004 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ thống nhất quản lý công tác THADS; các cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước về công tác THADS bao gồm: Bộ Tư pháp, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Theo chức năng được giao, Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước về công tác THADS và tổ chức việc THADS với những nhiệm vụ như: giúp Chính phủ chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh, nghị định về công tác THADS; Chỉ đạo và kiểm tra thực hiện công tác THADS, trực tiếp quản lý hệ thống CQTHADS, quyết định việc thành lập, giải thể các CQTHADS; Thực hiện thanh tra nhà nước về công tác THADS; Quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng và thực hiện các chế độ, chính sách đối với CHV và cán bộ, công chức làm công tác THADS. UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về công tác THADS ở địa phương theo quy định của Chính phủ.
Thực hiện sự phân cấp về thẩm quyền trong công tác THADS, UBND cấp tỉnh, cấp huyện có những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể trong việc quản lý công tác THADS ở địa phương. Cụ thể như: Chỉ đạo công tác THADS, yêu cầu CQTHA báo cáo công tác THADS ở địa phương; Chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị ở địa phương; Yêu cầu CQTHA tổ chức kiểm tra, thanh tra; chỉ đạo các cơ quan hữu quan phối hợp kiểm tra, thanh tra công tác THADS ở địa phương; Quyết định khen thưởng hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền khen thưởng tập thể, cá nhân có thành tích trong công tác THADS… (Điều 58 Pháp lệnh THADS năm 2004).
Để cụ thể hoá thẩm quyền quản lý nhà nước về công tác THADS, tổ chức các CQTHADS, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 quy định về cơ quan quản lý THADS, CQTHADS và cán bộ, công chức làm công tác THADS (trước đây vấn đề về tổ chức các CQTHA được quy định tại Nghị định số 30/CP ngày 2/6/1993 của Chính phủ về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý công tác THADS, CQTHADS và CHV). Theo Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 của Chính phủ thì các CQQLNN về công tác THADS bao gồm: Cục THADS thuộc Bộ Tư pháp (Cơ quan giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về THADS trong phạm vi cả nước); Sở Tư pháp (Cơ quan chuyên môn giúp UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý nhà nước về công tác THADS trên địa bàn cấp tỉnh; thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn quản lý đối với CQTHA ở địa phương theo uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp); Phòng Tư pháp (Cơ quan chuyên môn giúp UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quản lý về công tác THADS trên địa bàn cấp huyện). Đồng thời, để phân định rõ thẩm quyền quản lý công tác THA, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 1148/2005/QĐ-BTP ngày 18/5/2005 quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, sự phân cấp, uỷ quyền trong quản lý nhà nước giữa Bộ Tư pháp với UBND cấp tỉnh và Sở Tư pháp về công tác THADS.
Như vậy, các văn bản pháp luật nêu trên đã quy định tương đối toàn diện tổ chức các CQQLNN về THADS. So với Pháp lệnh THADS năm 1993 thì đã có bước tiến bộ rõ rệt trong việc phân cấp quản lý nhà nước về THADS, xác định rõ hơn nội dung quản lý nhà nước về THADS của UBND cấp tỉnh và cấp huyện, tạo cơ sở pháp lý để hệ thống các cơ quan này hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên, thực tiễn qua ba năm thực hiện Pháp lệnh THADS năm 2004 cũng cho thấy có những vướng mắc, bất cập trong chế định về các CQQLNN về THADS. Ở một số nơi, các cấp chính quyền do chưa nhận thức được đầy đủ ý nghĩa, vai trò của công tác THA nên chưa làm tròn trách nhiệm chỉ đạo thực hiện việc tổ chức phối hợp các cơ quan hữu quan trong việc THA ở địa phương, thậm chí có nơi còn có sự can thiệp, yêu cầu hoãn THA không đúng pháp luật… nhất là đối với những việc THA liên quan đến trách nhiệm THA của chính UBND hoặc tổ chức, doanh nghiệp có vai trò quan trọng ở địa phương. Việc giao cho cơ quan tư pháp giúp UBND cấp tỉnh, cấp huyện quản lý nhà nước về THA ở địa phương cũng chưa hợp lý vì đây không phải là những cơ quan trực tiếp tổ chức việc THA nên không nắm chắc được các vụ việc cụ thể, không thể tham mưu kịp thời, đầy đủ cho UBND về những vấn đề cần thiết liên quan đến công tác THA.
– Các Cơ quan thi hành án dân sự: Theo Điều 11 của Pháp lệnh THADS năm 2004 thì các CQTHADS gồm có: CQTHADS tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, CQTHADS quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và CQTHA trong quân đội.
Căn cứ Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 của Chính phủ thì CQTHADS là cơ quan có thẩm quyền tổ chức thi hành các BA,QĐ đã có hiệu lực thi hành của Tòa án, được thành lập ở cấp tỉnh và cấp huyện, bao gồm: THADS cấp tỉnh; THADS cấp huyện và THA quân khu.
THADS cấp tỉnh có nhiệm vụ, quyền hạn: Tổ chức thực hiện áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật trong hoạt động THADS tại địa phương; Chỉ đạo hoạt động THA đối với THADS cấp huyện; hướng dẫn nghiệp vụ THA cho CHV, công chức khác của các CQTHADS địa phương trên địa bàn; Trực tiếp tổ chức thi hành các BA,QĐ của Tòa án và các quyết định khác theo quy định của pháp luật; Hoàn chỉnh hồ sơ thủ tục, báo cáo Hội đồng tuyển chọn CHV xem xét, tuyển chọn và đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức CHV các CQTHADS địa phương; Tổng kết thực tiễn THADS, thực hiện chế độ thống kê, báo cáo công tác THADS và thực hiện sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định tại Điều 57 và Điều 58 của Pháp lệnh THADS và hướng dẫn của Bộ Tư pháp; Giải quyết khiếu nại về THADS thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật về THADS; Quản lý cán bộ, công chức, kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động của các CQTHADS tại địa phương theo quy định của pháp luật và của Bộ Tư pháp; Thực hiện chế độ, chính sách, công tác thi đua khen thưởng và đề nghị cơ quan có thẩm quyền quyết định khen thưởng, kỷ luật đối với cá nhân, tập thể thuộc THADS cấp tỉnh, THADS cấp huyện trực thuộc theo quy định của pháp luật và của Bộ trưởng Bộ Tư pháp; Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
THA cấp quân khu có nhiệm vụ, quyền hạn: Giúp Tư lệnh quân khu và tương đương tổ chức phối hợp các cơ quan hữu quan trong việc THA trên địa bàn cấp quân khu theo quy định tại khoản 2 Điều 8 của Pháp lệnh THADS; Trực tiếp tổ chức thi hành các BA,QĐ của Tòa án theo quy định của pháp luật; Tổng kết thực tiễn THA; thực hiện chế độ thống kê, báo cáo công tác THA theo quy định của pháp luật và của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Giải quyết khiếu nại về THA thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật về THADS; Quản lý kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động của THA cấp quân khu theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Bộ Quốc phòng; Đề nghị các cơ quan có thẩm quyền quyết định khen thưởng đối với cá nhân, tập thể thuộc THA cấp quân khu có thành tích trong hoạt động THA; Phối hợp với các cơ quan chức năng của quân khu quản lý cán bộ thuộc THA cấp quân khu theo quy định của pháp luật và theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
THADS cấp huyện có nhiệm vụ, quyền hạn: Trực tiếp tổ chức thi hành các BA,QĐ của Tòa án và các quyết định khác theo quy định của pháp luật; Giải quyết khiếu nại về THA theo quy định của pháp luật THADS; Tổng kết thực tiễn THADS, thực hiện chế độ thống kê, báo cáo công tác THADS và thực hiện sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cấp huyện theo quy định tại Điều 57 và Điều 58 của Pháp lệnh THADS và hướng dẫn của Bộ Tư pháp; Quản lý cán bộ, công chức của THADS cấp huyện theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Bộ Tư pháp; Thực hiện chế độ tài chính, quản lý cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động được giao theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Bộ Tư pháp; Thực hiện công tác thi đua trong đơn vị và đề nghị các cơ quan có thẩm quyền khen thưởng đối với cá nhân, tập thể thuộc THADS cấp huyện có thành tích trong hoạt động THA; Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
Đối chiếu với quy định của Pháp lệnh THADS năm 1993, Nghị định số 30/CP ngày 02/6/1993 của Chính phủ thì những quy định tại Pháp lệnh THADS năm 2004 và Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 của Chính phủ đã có một bước tiến rõ rệt trong việc nâng cao vị trí, trách nhiệm của CQTHADS. Theo đó, vị thế của CQTHA được nâng cao một bước, độc lập hơn trong tác nghiệp của mình. CQTHADS không còn là một phòng, đội trực thuộc Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp như trước đây mà có tư cách độc lập nhất định. Việc quy định thành lập các đơn vị trực thuộc trong CQTHA cấp tỉnh cũng như quy định chức danh thẩm tra viên tại các CQTHADS… đã góp phần hoàn thiện tổ chức bộ máy các CQTHA.
– Địa vị pháp lý của Chấp hành viên: Pháp lệnh THADS năm 2004 khẳng định nguyên tắc chỉ có CHV, CQTHADS là có thẩm quyền THADS. CHV là người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các BA,QĐ của TA theo quy định của pháp luật. Trong quá trình THA, CHV chỉ tuân theo pháp luật và “được pháp luật bảo vệ”. “Khi thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình, CHV phải tuân theo pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc THA được giao”. Như vậy, hoạt động của CHV vừa mang tính quyền lực Nhà nước, vừa thể hiện tính chuyên trách trong việc thực thi pháp luật. Địa vị pháp lý của CHV còn được thể hiện ở nhiệm vụ, quyền hạn mà pháp luật giao cho, cụ thể là: Thi hành đúng nội dung BA,QĐ của TA; áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục THA, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự; Triệu tập đương sự, người có liên quan đến việc THA đến trụ sở CQTHA hoặc UBND xã, phường, thị trấn nơi THA để thực hiện việc THA; giải thích, thuyết phục các đương sự tự nguyện THA; Ấn định thời hạn để người phải THA tự nguyện THA; Xác minh tài sản, điều kiện THA của người phải THA; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của người phải THA hoặc phối hợp với cơ quan hữu quan xử lý vật chứng, tài sản và những việc khác có liên quan đến việc THA; Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế THA quy định tại Pháp lệnh THADS để bảo đảm việc THA; Lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật trong khi THA; quyết định xử phạt hành chính theo thẩm quyền hoặc đề nghị Thủ trưởng CQTHA cùng cấp kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm; Thực hiện nhiệm vụ khác do Thủ trưởng CQTHA giao.
CHV được cấp trang phục, phù hiệu, thẻ CHV để sử dụng làm nhiệm vụ và được hưởng thang bậc lương riêng theo quy định của Chính phủ.
Bên cạnh việc quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của CHV như đã nêu trên, pháp luật cũng xác định trách nhiệm của CHV khi không thi hành đúng BA,QĐ của TA, trì hoãn việc THA, áp dụng biện pháp cưỡng chế THA trái pháp luật, vi phạm phẩm chất, đạo đức của người CHV thì sẽ bị xử lý kỷ luật: cảnh cáo, cách chức, buộc thôi việc hoặc truy cứu trách nhiệm, nếu gây ra thiệt hại thì phải bồi thường.
Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức CHV do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định theo đề nghị của Hội đồng tuyển chọn CHV. Để nâng cao chất lượng đội ngũ CHV, Pháp lệnh THADS năm 2004, Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 14/5/2005 của Chính phủ đã quy định cụ thể các tiêu chuẩn của CHV.
Việc yêu cầu nâng cao tiêu chuẩn CHV, xác định qui trình bổ nhiệm, miễn nhiệm chặt chẽ nhằm từng bước tăng cường đội ngũ CHV tương xứng với vị trí, trách nhiệm và quyền hạn được giao, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong giai đoạn mới. Nhờ đó thời gian qua, phần lớn các CHV được bổ nhiệm đều đảm bảo tiêu chuẩn qui định, có trình độ cử nhân luật và tương đương.
Nhìn lại chặng đường lịch sử hình thành và phát triển của THADS Việt Nam từ năm 1945 đến nay chúng ta có thể rút ra một số nhận xét cơ bản sau đây:
Một là, dù trải qua các thời kỳ khác nhau, nhiệm vụ của các tổ chức THADS được pháp luật quy định (dù dưới hình thức Thừa phát lại, Ban Tư pháp xã, thẩm phán huyện hay là nhân viên THA, CHV được đặt tại các TA hoặc CQTHADS) vẫn luôn luôn có một điểm chung không thay đổi đó là đều thi hành các BA,QĐ của TA đã có hiệu lực pháp luật hoặc án chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay.
Hai là, THADS dù tồn tại bất kỳ dưới hình thức nào, dù là do TA trực tiếp tiến hành hay do cơ quan thuộc Chính phủ đảm trách, đều luôn có mối quan hệ chặt chẽ với hoạt động của TA, đặc biệt hiệu quả của hoạt động THADS phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của hoạt động xét xử.
Ba là, ý nghĩa, vai trò của công tác THADS và pháp luật THADS ngày càng được nhận thức đầy đủ hơn, sâu rộng hơn, chiếm vị trí ngày càng xứng đáng trong hệ thống các cơ quan tư pháp Việt Nam. Từ chỗ tổ chức THA chỉ do Thừa phát lại, Ban Tư pháp xã (1945-1950), thẩm phán huyện (1950-1959); nhân viên THA, CHV đặt tại các TA địa phương (1960-1993) thực hiện, đến nay chúng ta đã có một hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự (CQTHADS) gồm 64 THADS cấp tỉnh, hơn 660 THADS cấp huyện, chưa kể hệ thống THA trong quân đội. Từ chỗ chỉ được thể hiện trong một vài văn bản pháp luật dưới hình thức thấp (Thông tư, Điều lệ tạm thời…), đến nay đã trở thành hệ thống pháp luật THADS với hàng chục văn bản từ pháp lệnh, nghị định, quyết định của Thủ tướng, Chính phủ, thông tư hướng dẫn… và hiện nay chúng ta đang xây dựng dự án Bộ luật THA với mức độ pháp điển rất cao, điều chỉnh một cách toàn diện các lĩnh vực THA, trong đó có THADS.
Bốn là, xu hướng chung của pháp luật THADS ngày càng thể hiện rõ nét nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự trong quá trình THA. Ngay từ đầu, việc THA hoàn toàn dựa trên cơ sở yêu cầu của đương sự, sau đó có một thời gian khá dài (từ năm 1950 đến năm 1989) nguyên tắc tự định đoạt của đương sự bị phủ nhận, thay vào đó là việc Nhà nước chủ động hoàn toàn trong hoạt động THA. Việc THA được tiến hành không phụ thuộc vào ý chí của người được THA. Nhưng từ năm 1990 đến nay, nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong quá trình THADS lại được khôi phục và thể hiện như là xu thế tất yếu và sẽ tiếp tục tồn tại lâu dài trong tương lai.
Năm là, quá trình phát triển của pháp luật THADS cho thấy xu hướng xã hội hoá trong lĩnh vực THADS ngày càng được mở rộng biểu hiện trên một số nét sau:
+ Các việc do Nhà nước chủ động thi hành ngày càng bị thu hẹp lại, đồng thời việc THA do đương sự yêu cầu ngày càng chiếm vị trí chủ yếu trong THADS.
+ Bên cạnh đơn yêu cầu, người được THA còn có nghĩa vụ cung cấp địa chỉ, tình hình tài sản, thu nhập của người phải THA; khi trả đơn yêu cầu thì phải theo dõi, phát hiện tài sản của người phải THA để yêu cầu trở lại.
+ Người phải THA phải chịu mọi chi phí cưỡng chế THA.
+ Nguyên tắc thỏa thuận, tự nguyện trong quá trình THA.
+ Người được THA phải chịu phí THA…
Phần thứ hai:
GIỚI THIỆU LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Ngày 14/11/2008, Quốc hội Khoá XII, kỳ họp thứ tư đã thông qua Luật thi hành án dân sự số 26/2008/QH12 và Nghị quyết về việc thi hành Luật thi hành án dân sự số 24/2008/QH12. Đây là hai văn bản pháp lý có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự.
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Thi hành án dân sự có vai trò quan trọng trong hoạt động tư pháp nói chung và quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Bản án, quyết định của Toà án chỉ thực sự có giá trị khi được thi hành trên thực tế. Hoạt động thi hành án là công đoạn cuối cùng, bảo đảm cho bản án, quyết định của Toà án được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị – xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Chính vì vậy, Hiến pháp năm 1992 đã quy định rõ: “Các bản án và quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Nhận thức tầm quan trọng của công tác thi hành án, từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách về thi hành án dân sự, như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (1995), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (1997), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX (2004) và nhất là trong Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng, Hội đồng nhà nước trước đây, nay là Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989, Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 và gần đây là Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004.
Kết quả sau hơn ba năm thực hiện Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 cho thấy, nhiều quy định về thủ tục thi hành án đã thể hiện được quan điểm cải cách tư pháp, cải cách hành chính, phù hợp với sự chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, tháo gỡ kịp thời một số tồn tại, vướng mắc trong công tác thi hành án dân sự, góp phần từng bước nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án. Tuy nhiên, so với đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới thì Pháp lệnh năm 2004 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, nhất là quy định về trình tự, thủ tục; trách nhiệm, cơ chế phối hợp của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong thi hành án; cơ chế quản lý, mô hình tổ chức cơ quan thi hành án chưa ngang tầm với chức năng, nhiệm vụ, tính chất công việc được giao; quyền hạn của cơ quan thi hành án, của Chấp hành viên chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ; chưa có cơ chế phối hợp hiệu quả giữa thi hành án dân sự với thi hành án phạt tù, đặc biệt là các vụ án hình sự có bồi thường thiệt hại; chưa tạo ra cơ sở pháp lý để thực hiện xã hội hoá hoạt động thi hành án dân sự, v.v… Các hạn chế, bất cập này là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng án dân sự tồn đọng, tuy có giảm dần, nhưng hiện nay vẫn còn lớn (năm 2005 có 327.658 vụ việc tồn đọng chiếm 58.38%; năm 2006 có 331.092 vụ việc tồn đọng chiếm 54.99%; năm 2007 có 311.443 vụ việc tồn đọng chiếm 48.04%), làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, tính nghiêm minh của pháp luật; quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà nước theo bản án, quyết định của Toà án chưa được bảo đảm, nhiều việc gây bức xúc trong xã hội.
Từ những vấn đề nêu trên cho thấy việc xây dựng, ban hành Luật thi hành án dân sự nhằm tiếp tục thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về công tác thi hành án, hoàn thiện các quy định về trình tự, thủ tục thi hành án, củng cố, kiện toàn cơ quan thi hành án, tạo chuyển biến cơ bản trong lĩnh vực quan trọng, nhưng còn nhiều bất cập, hạn chế, yếu kém này là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Căn cứ Nghị quyết số 11/2007/QH12 ngày 21/11/2007 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ Khoá XII (2007 – 2011) và năm 2008, Chính phủ đã chỉ đạo Ban soạn thảo Luật thi hành án dân sự do Uỷ ban thường vụ Quốc hội thành lập gồm đại diện của Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam tiến hành soạn thảo Luật thi hành án dân sự. Trên cơ sở kế thừa nội dung của phần thi hành án dân sự trong Dự án Bộ luật Thi hành án (được Chính phủ thông qua và Quốc hội cho ý kiến năm 2005), Ban soạn thảo đã tiến hành xây dựng Dự án Luật thi hành án dân sự.
Việc ban hành Luật thi hành án dân sự nhằm các mục đích, yêu cầu sau đây:
1. Góp phần tạo chuyển biến cơ bản trong công tác thi hành án dân sự, khắc phục tình trạng tồn đọng án kéo dài; nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án, kỷ cương phép nước và tính nghiêm minh của pháp luật.
2. Bảo vệ tốt hơn quyền của người được thi hành án, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà nước theo bản án, quyết định của Toà án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài thương mại.
3. Xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tăng cường vị trí, vai trò của cơ quan thi hành án, Chấp hành viên; xác định rõ hơn trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan trong hoạt động thi hành án dân sự, cũng như công tác quản lý nhà nước về thi hành án dân sự.
4. Tạo cơ sở pháp lý cho việc từng bước thực hiện xã hội hoá công tác thi hành án như Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra.
II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Để đảm bảo chất lượng văn bản, tiến độ trình Dự án Luật, Ban soạn thảo đã tiến hành nhiều hoạt động: tổ chức các cuộc họp; nghiên cứu, đánh giá và tiếp thu kết quả soạn thảo Bộ luật Thi hành án; tổ chức rà soát các văn bản pháp luật có liên quan; sưu tầm tài liệu về tổ chức và trình tự, thủ tục thi hành án của nước ngoài; nghiên cứu, dịch thuật các tài liệu liên quan… Đặc biệt, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tư pháp phối hợp với các cơ quan, ban, ngành có liên quan tổ chức tổng kết ba năm triển khai thực hiện Pháp lệnh năm 2004 và năm năm thực hiện chuyển giao án có giá trị không quá 500.000 đồng cho Uỷ ban nhân dân cấp xã đôn đốc thi hành; việc tổ chức tổng kết được thực hiện từ các cơ quan thi hành án dân sự địa phương đến Trung ương. Kết quả tổng kết đã được nghiên cứu, tiếp thu để hoàn thiện Dự thảo Luật thi hành án dân sự.
Chính phủ cũng đã chỉ đạo cơ quan chủ trì xây dựng Dự án Luật tổ chức các hội nghị, hội thảo; tổ chức lấy ý kiến các Bộ, ngành ở Trung ương, các cơ quan thi hành án, cơ quan tư pháp địa phương. Dự thảo Luật thi hành án dân sự cũng đã được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp để tranh thủ ý kiến rộng rãi của nhân dân, các doanh nghiệp.
Luật thi hành án dân sự được xây dựng theo những quan điểm chỉ đạo sau đây:
1. Quán triệt và thể chế hoá các nghị quyết của Đảng, như Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX ngày 03/02/2004: “Tập trung thực hiện tốt công tác thi hành án, nhất là thi hành án dân sự, khắc phục cơ bản tình trạng tồn đọng kéo dài“; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020: “xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp phù hợp với mục tiêu, định hướng chiến lược cải cách tư pháp; xác định đúng, đủ quyền năng và trách nhiệm pháp lý cho từng cơ quan, chức danh tư pháp” “Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp“; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020: “Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó, xác định Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm; “từng bước thực hiện việc xã hội hoá và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án”; “nghiên cứu chế định thừa phát lại (thừa hành viên); trước mắt, có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo”.
2. Kế thừa, luật hoá các quy định của pháp luật hiện hành về thi hành án dân sự, đặc biệt là Pháp lệnh năm 2004 và các nghị định hướng dẫn thi hành, đồng thời xây dựng những quy định mới trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành án dân sự của nước ta qua các thời kỳ, cũng như tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, để xây dựng một khuôn khổ pháp luật có giá trị pháp lý cao, tương đối đồng bộ cho công tác thi hành án dân sự.
3. Tiếp tục thực hiện chủ trương cải cách hành chính, cải cách tư pháp, từng bước xã hội hoá hoạt động thi hành án, phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội của đất nước, đồng thời bảo đảm sự quản lýtập trung, thống nhất của Nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân sự.
4. Bảo đảm sự phù hợp với các quy định của Hiến pháp, tính thống nhất và đồng bộ với các văn bản pháp luật khác có liên quan và sự phù hợp với các điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
III. BỐ CỤC VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Luật thi hành án dân sự về cơ bản kế thừa các quy định của Pháp lệnh năm 2004 và các văn bản hướng dẫn có liên quan đã được thực tiễn kiểm nghiệm và pháp điển hoá thành quy định của Luật. Đồng thời, để phát huy hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự, hạn chế tối đa tình trạng án tồn đọng kéo dài, bên cạnh việc sửa đổi một số quy định hiện hành, Luật thi hành án dân sự bổ sung rất nhiều quy định mới.
Luật thi hành án dân sự năm 2008 gồm 9 chương, 183 điều, có những nội dung cơ bản sau đây:
I. Chương I. Những quy định chung
Chương I của Luật thi hành án dân với 12 điều, từ Điều 1 đến Điều 12 đề cập đến phạm vi điều chỉnh của Luật; giải thích một số từ ngữ cơ bản; việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; về thoả thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án; tiếng nói và chữ viết dùng trong thi hành án dân sự; về tự nguyện và cưỡng chế thi hành án; trách nhiệm bồi thường thiệt hại; trách nhiệm phối hợp trong thi hành án dân sự; về giám sát và kiểm sát việc thi hành án dân sự.
Trong số những quy định chung, có những nội dung quan trọng sau đây:
1. Phạm vi điều chỉnh
Luật thi hành án dân sự điều chỉnh 04 loại vấn đề sau đây:
– Nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi hành bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Toà án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài thương mại (sau đây gọi chung là bản án, quyết định).
– Hệ thống tổ chức thi hành án dân sự và Chấp hành viên.
– Quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
– Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động thi hành án dân sự.
2. Những bản án, quyết định được thi hành theo Luật thi hành án dân sự
2.1. Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật:
a) Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm;
b) Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm;
c) Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án;
d) Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam;
đ) Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh mà sau 30 ngày kể từ ngày có hiệu lực pháp luật đương sự không tự nguyện thi hành, không khởi kiện tại Toà án;
e) Quyết định của Trọng tài thương mại.
2.2. Những bản án, quyết định sau đây của Toà án cấp sơ thẩm được thi hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị:
a) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc;
b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
3. Thoả thuận thi hành án
Đương sự có quyền thoả thuận về việc thi hành án, nếu thoả thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Kết quả thi hành án theo thoả thuận được công nhận.Theo yêu cầu của đương sự, Chấp hành viên có trách nhiệm chứng kiến việc thoả thuận về thi hành án.
Trường hợp đương sự không thực hiện đúng thoả thuận thì có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành phần nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung bản án, quyết định.
4. Tiếng nói và chữ viết dùng trong thi hành án dân sự
Tiếng nói và chữ viết dùng trong thi hành án dân sự là tiếng Việt. Đương sự có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình nhưng phải có người phiên dịch. Đương sự là người dân tộc thiểu số mà không biết tiếng Việt thì cơ quan thi hành án dân sự phải bố trí phiên dịch.
Người phiên dịch phải dịch đúng nghĩa, trung thực, khách quan, nếu cố ý dịch sai thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
II. Chương II – Hệ thống tổ chức thi hành án dân sự và Chấp hành viên
Hệ thống tổ chức thi hành án dân sự được quy định từ Điều 13 đến Điều 25.
1. Về hệ thống tổ chức thi hành án dân sự
Vấn đề về hệ thống tổ chức cơ quan thi hành án dân sự có ý nghĩa rất quan trọng, quyết định hiệu quả của công tác thi hành án dân sự, nên việc quy định nguyên tắc về hệ thống tổ chức cơ quan thi hành án dân sự trong Luật, nhất là phân định rõ cơ quan quản lý thi hành án dân sự và cơ quan thi hành án dân sự trong hệ thống tổ chức là cần thiết, tạo cơ sở cho Chính phủ quy định cụ thể mô hình tổ chức cơ quan thi hành án dân sự.
Hệ thống tổ chức thi hành án dân sự bao gồm:
a) Cơ quan quản lý thi hành án dân sự:
– Cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp;
– Cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng.
b) Cơ quan thi hành án dân sự:
– Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh);
– Cơ quan thi hành án dân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện);
– Cơ quan thi hành án quân khu và tương đương (sau đây gọi chung là cơ quan thi hành án cấp quân khu).
2. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự
a) Đối với cơ quan thi hành án cấp tỉnh
– Thực hiện việc quản lý, chỉ đạo về thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, bao gồm: Bảo đảm việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật trong hoạt động thi hành án dân sự. Chỉ đạo hoạt động thi hành án dân sự đối với cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện; hướng dẫn nghiệp vụ thi hành án dân sự cho Chấp hành viên, công chức khác của cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn. Kiểm tra công tác thi hành án dân sự đối với cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện. Tổng kết thực tiễn thi hành án dân sự; thực hiện chế độ thống kê, báo cáo công tác tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự theo hướng dẫn của cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp.
– Trực tiếp tổ chức thi hành bản án, quyết định theo quy định của pháp luật.
– Lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự; phối hợp với cơ quan Công an trong việc lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm chấp hành hình phạt tù và đặc xá cho người có nghĩa vụ thi hành án dân sự đang chấp hành hình phạt tù.
– Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền theo quy định của Luật này.
– Thực hiện quản lý công chức, cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự tại địa phương theo hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp.
– Giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện trách nhiệm, quyền hạn theo quy định và báo cáo công tác thi hành án dân sự trước Hội đồng nhân dân cùng cấp khi có yêu cầu.
b) Đối với cơ quan thi hành án cấp quân khu
Trực tiếp tổ chức thi hành bản án, quyết định theo quy định. Tổng kết thực tiễn công tác thi hành án theo thẩm quyền; thực hiện chế độ thống kê, báo cáo công tác tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự theo hướng dẫn của cơ quan quản lýthi hành án thuộc Bộ Quốc phòng. Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án thuộc thẩm quyền. Phối hợp với các cơ quan chức năng của quân khu trong việc quản lý cán bộ, cơ sở vật chất, kinh phí và phương tiện hoạt động củacơ quan thi hành án cấp quân khu theo hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng. Lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự; phối hợp với cơ quan thi hành án phạt tù trong quân đội trong việc lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm chấp hành hình phạt tù và đặc xá cho người có nghĩa vụ thi hành án dân sự đang chấp hành hình phạt tù. Giúp Tư lệnh quân khu và tương đương thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật.
c) Đối với cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện
Trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định; giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền theo quy định Thực hiện quản lý công chức, cơ sở vật chất, kinh phí và phương tiện hoạt động được giao theo hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh; chế độ thống kê, báo cáo công tác tổ chức, hoạt động thi hành án theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh. Lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự. Giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định. Báo cáo công tác thi hành án dân sự trước Hội đồng nhân dân khi có yêu cầu.
3. Biên chế, kinh phí, cơ sở vật chất của cơ quan thi hành án dân sự, trang phục, phù hiệu, chế độ đối với công chức làm công tác thi hành án dân sự
Luật thi hành án dân sự quy định Nhà nước bảo đảm biên chế, kinh phí, trụ sở làm việc, công cụ hỗ trợ thi hành án, ứng dụng công nghệ thông tin và phương tiện, trang thiết bị cần thiết khác cho cơ quan thi hành án dân sự. Chấp hành viên, Thẩm tra viên và công chức khác làm công tác thi hành án dân sự được cấp trang phục, phù hiệu để sử dụng trong khi thi hành công vụ, được hưởng tiền lương, chế độ phụ cấp phù hợp với nghề nghiệp và chế độ ưu đãi khác theo quy định của Chính phủ.
Mặt khác, Luật thi hành án dân sự cũng quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự. Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải là Chấp hành viên. Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm, miễn nhiệm; Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án trong quân đội do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng bổ nhiệm, miễn nhiệm.
4. Chấp hành viên
a) Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định theo quy định. Để khắc phục những vướng mắc trong thời gian qua trong việc tuyển dụng, bố trí sử dụng, điều động, luân chuyển Chấp hành viên, Luật thi hành án dân sự quy định Chấp hành viên có 3 ngạch gồm Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp, đồng thời quy định việc bổ nhiệm chấp hành viên phải thông qua thi tuyển và bỏ quy định hiện hành về việc bổ nhiệm Chấp hành viên theo nhiệm kỳ.
b) Về tiêu chuẩn bổ nhiệm Chấp hành viên: Ngoài tiêu chuẩn chung phải là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, trung thực, liêm khiết, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ cử nhân luật trở lên, có sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ được giao thì người được bổ nhiệm làm Chấp hành viên sơ cấp phải có thời gian làm công tác pháp luật từ 03 năm trở lên, đã được đào tạo nghiệp vụ thi hành án dân sự và trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên sơ cấp. Người được bổ nhiệm làm Chấp hành viên trung cấp phải có thời gian làm Chấp hành viên sơ cấp từ 05 năm trở lên và trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên trung cấp. Người được bổ nhiệm làm Chấp hành viên cao cấp phải có thời gian làm Chấp hành viên trung cấp từ 05 năm trở lên và trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên cao cấp. Người được bổ nhiệm làm Chấp hành viên trong quân đội phải là sỹ quan quân đội tại ngũ.
Đối với người đang là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên chuyển công tác đến cơ quan thi hành án dân sự có thể được bổ nhiệm làm Chấp hành viên ở ngạch tương đương mà không qua thi tuyển.
Trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định, người có đủ tiêu chuẩn chung, đã có thời gian làm công tác pháp luật từ 10 năm trở lên thì có thể được bổ nhiệm Chấp hành viên trung cấp hoặc đã có thời gian làm công tác pháp luật từ 15 năm trở lên thì có thể được bổ nhiệm Chấp hành viên cao cấp.
c) Chấp hành viên đương nhiên được miễn nhiệm trong trường hợp nghỉ hưu hoặc chuyển công tác đến cơ quan khác.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét, quyết định miễn nhiệm Chấp hành viên trong các trường hợp: Do hoàn cảnh gia đình hoặc sức khỏe mà xét thấy không thể bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ Chấp hành viên. Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ không bảo đảm thực hiện nhiệm vụ Chấp hành viên hoặc vì lý do khác mà không còn đủ tiêu chuẩn để làm Chấp hành viên.
d) Chấp hành viên có nhiệm vụ, quyền hạn: Kịp thời tổ chức thi hành vụ việc được phân công; ra các quyết định về thi hành án theo thẩm quyền. Thi hành đúng nội dung bản án, quyết định; áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án, bảo đảm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; thực hiện nghiêm chỉnh chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp Chấp hành viên. Triệu tập đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết việc thi hành án. Xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của người phải thi hành án hoặc phối hợp với cơ quan có liên quan xử lý vật chứng, tài sản và những việc khác liên quan đến thi hành án. Quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án; lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án; thu giữ tài sản thi hành án. Yêu cầu cơ quan Công an tạm giữ người chống đối việc thi hành án theo quy định của pháp luật. Lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật về thi hành án; xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm. Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu hồi tiền, tài sản đã chi trả cho đương sự không đúng quy định của pháp luật, thu phí thi hành án và các khoản phải nộp khác. Được sử dụng công cụ hỗ trợ trong khi thi hành công vụ theo quy định của Chính phủ và thực hiện nhiệm vụ khác theo sự phân công của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự.
Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Chấp hành viên phải tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín.
đ) Chấp hành viên không được làm: Những việc mà pháp luật quy định công chức không được làm. Tư vấn cho đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan dẫn đến việc thi hành án tráipháp luật. Can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết vụ việc thi hành án hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người có trách nhiệm thi hành án. Sử dụng trái phép vật chứng, tiền, tài sản thi hành án. Thực hiện việc thi hành án liên quan đến quyền, lợi ích của bản thân và những người là vợ, chồng, con đẻ, con nuôi; cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, bác, chú, cậu, cô, dì và anh, chị, em ruột của Chấp hành viên, của vợ hoặc chồng của Chấp hành viên; cháu ruột mà Chấp hành viên là ông, bà, bác, chú, cậu, cô, dì. Sử dụng thẻ Chấp hành viên, trang phục,phù hiệu thi hành án, công cụ hỗ trợ để làm những việc không thuộc nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Sách nhiễu, gây phiền hà cho cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thi hành án. Cố ý thi hành trái nội dung bản án, quyết định; trì hoãn hoặc kéo dài thời gian giải quyết việc thi hành án được giao không có căn cứ pháp luật.
III. Thủ tục thi hành án dân sự
Được quy định tại Chương III, từ Điều 26 đến Điều 65, Chương này có nhiều nội dung mới, quan trọng.
1. Hướng dẫn quyền yêu cầu thi hành án dân sự, cấp và chuyển giao, nhận bản án, quyết định.
Điểm mới trong quy định về hướng dẫn quyền yêu cầu thi hành án là khi ra bản án, quyết định, Toà án, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Trọng tài thương mại phải giải thích cho đương sự, đồng thời ghi rõ trong bản án, quyết định về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án. Quy định này nhằm bảo đảm cho việc thực hiện quyền yêu cầu thi hành án, hạn chế thấp nhất tình trạng nhận thức không rõ về quyền yêu cầu thi hành án dẫn đến tình trạng yêu cầu thi hành án không đúng nội dung quyền, nghĩa vụ theo bản án, quyết định hoặc yêu cầu thi hành án khi đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án, vừa nâng cao trách nhiệm của Toà án và nghĩa vụ của đương sự, vừa tạo điều kiện cho đương sự nhận thức về quyền, nghĩa vụ và thời hiệu yêu cầu thi hành án dân sự. Mặt khác, Toà án đã ra bản án, quyết định phải cấp cho đương sự bản án, quyết định có ghi “Để thi hành”.
Đối với bản án, quyết định thuộc diện Thủ trưởng cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án, Luật thi hành án dân sự quy định Toà án chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự trong thời hạn cụ thể đối với từng trường hợp như sau:
– Đối với bản án, quyết định, phần bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm; quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án; bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam, thì Toà án đã ra bản án, quyết định phải chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
– Đối với bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc, thì Toà án đã ra bản án, quyết định phải chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự trong thời hạn 15ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định.
– Đối với quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thìToà án đã ra quyết định phải chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự ngay sau khi ra quyết định.
– Trường hợp cơ quan có thẩm quyền đã kê biên tài sản, tạm giữ tài sản, thu giữ vật chứng hoặc thu giữ các tài liệu khác có liên quan đến việc thi hành án thì khi chuyển giao bản án, quyết định cho cơ quan thi hành án dân sự, Toà án phải gửi kèm theo bản sao biên bản về việc kê biên, tạm giữ tài sản, thu giữ vật chứng hoặc tài liệu khác có liên quan.
Khi nhận bản án, quyết định do Toà án chuyển giao, cơ quan thi hành án dân sự phải kiểm tra, vào sổ nhận bản án, quyết định. Sổ nhận bản án, quyết định phải ghi rõ số thứ tự; ngày, tháng, năm nhận bản án, quyết định; số, ngày, tháng, năm của bản án, quyết định và tên Toà án đã ra bản án, quyết định; họ, tên, địa chỉ của đương sự và tài liệu khác có liên quan. Việc giao, nhận trực tiếp bản án, quyết định phải có chữ ký của hai bên. Trong trường hợp nhận được bản án, quyết định và tài liệu có liên quan bằng đường bưu điện thì cơ quan thi hành án dân sự phải thông báo bằng văn bản cho Toà án đã chuyển giao biết.
2. Thời hiệu yêu cầu thi hành án
Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 quy định thời hiệu yêu cầu thi hành án là 3 năm. Thực tiễn thi hành án dân sự thời gian qua cho thấy quy định thời hiệu này là ngắn, ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền lợi của đương sự. Vì vậy, Luật thi hành án dân sự đã quy định thời hiệu yêu cầu thi hành án là 05 năm, theo đó:
a) Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án.
Trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì thời hạn 05 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn 05 năm được áp dụng cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
b) Đối với các trường hợp hoãn, tạm đình chỉ thi hành án theo quy định của Luật này thì thời gian hoãn, tạm đình chỉ không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án, trừ trường hợp người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn thi hành án.
c) Trường hợp người yêu cầu thi hành án chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án.
3. Thủ tục gửi và nhận đơn yêu cầu thi hành án
3.1. Thủ tục gửi đơn yêu cầu thi hành án
Người yêu cầu thi hành án tự mình hoặc uỷ quyền cho người khác yêu cầu thi hành án bằng hình thức nộp đơn hoặc trực tiếp trình bày bằng lời nói tại cơ quan thi hành án dân sự hoặc gửi đơn qua bưu điện. Ngày gửi đơn yêu cầu thi hành án được tính từ ngày người yêu cầu thi hành án nộp đơn hoặc trình bày trực tiếp tại cơ quan thi hành án dân sự hoặc ngày có dấu bưu điện nơi gửi.
Đơn yêu cầu thi hành án có các nội dung chính sau đây: Họ, tên, địa chỉ của người yêu cầu; tên cơ quan thi hành án dân sự nơi yêu cầu; họ, tên, địa chỉ của người được thi hành án; người phải thi hành án; nội dung yêu cầu thi hành án và thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. Người làm đơn yêu cầu thi hành án phải ghi rõ ngày, tháng, năm và ký tên hoặc điểm chỉ; trường hợp là pháp nhân thì phải có chữ ký của người đại diện hợp pháp và đóng dấu của pháp nhân.
Trường hợp người yêu cầu thi hành án trực tiếp trình bày bằng lời nói tại cơ quan thi hành án dân sự thì phải lập biên bản ghi rõ các nội dung chính nêu trên, có chữ ký hoặc điểm chỉ của người yêu cầu và chữ ký của người lập biên bản. Biên bản có giá trị như đơn yêu cầu thi hành án. Kèm theo đơn yêu cầu thi hành án, phải có bản án, quyết định được yêu cầu thi hành và tài liệu khác có liên quan, nếu có. Người yêu cầu thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án quy định.
3.2. Nhận đơn yêu cầu thi hành án
Khi nhận đơn yêu cầu thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự phải kiểm tra nội dung đơn và các tài liệu kèm theo, vào sổ nhận đơn yêu cầu thi hành án và cấp giấy biên nhận cho người nộp đơn.
Cơ quan thi hành án dân sự từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án trong trường hợp người yêu cầu thi hành án không có quyền yêu cầu thi hành án hoặc nội dung đơn yêu cầu thi hành án không liên quan đến nội dung của bản án, quyết định; cơ quan thi hành án dân sự được yêu cầu không có thẩm quyền thi hành án hoặc hết thời hiệu yêu cầu thi hành án. Tuy nhiên, cơ quan thi hành án dân sự từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án phải thông báo bằng văn bản cho người nộp đơn yêu cầu thi hành án.
4. Ra quyết định thi hành án và thu hồi, sửa đổi, bổ sung, huỷ quyết định về thi hành án
a) Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành đối với phần bản án, quyết về hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí; trả lại tiền, tài sản cho đương sự; tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu huỷ vật chứng, tài sản; thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ nhà nước và quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định thi hành án. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời do Toà án chuyển giao hoặc do đương sự giao trực tiếp, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định thi hành án và phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành.
Ngoài các trường hợp chủ động ra quyết định thi hành án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự chỉ ra quyết định thi hành án khi có đơn yêu cầu thi hành án. Thời hạn ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu là 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu thi hành án.
Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định thi hành án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành quyết định thi hành án đó.
b) Người có thẩm quyền ra quyết định về thi hành án ra quyết định thu hồi quyết định về thi hành án trong các trường hợp quyết định về thi hành án được ban hành không đúng thẩm quyền; quyết định về thi hành án có sai sót làm thay đổi nội dung vụ việc; căn cứ ra quyết định về thi hành án không còn và trường hợp tổ chức, cá nhân được chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án.
Người có thẩm quyền ra quyết định về thi hành án, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có quyền ra quyết định sửa đổi, bổ sung hoặc yêu cầu sửa đổi, bổ sung quyết định về thi hành án trong trường hợp quyết định về thi hành án có sai sót mà không làm thay đổi nội dung vụ việc thi hành án.
Người có thẩm quyền ra quyết định về thi hành án, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có quyền ra quyết định huỷ hoặc yêu cầu huỷ quyết định về thi hành án của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp dưới, Chấp hành viên thuộc quyền quản lý trực tiếp trong các trường hợp phát hiện các trường hợp quy định tại các khoản 1 và khoản 2 Điều này mà Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp dưới, Chấp hành viên thuộc quyền quản lý trực tiếp không tự khắc phục sau khi có yêu cầu và quyết định về thi hành án có vi phạm pháp luật theo kết luận của cơ quan có thẩm quyền.
Quyết định thu hồi, sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ quyết định về thi hành án phải ghi rõ căn cứ, nội dung và hậu quả pháp lý của việc thu hồi, sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ.
3.5. Gửi quyết định và thông báo về thi hành án
a) Quyết định về thi hành án phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Quyết định cưỡng chế thi hành án phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tổ chức cưỡng chế thi hành án hoặc cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc thực hiện quyết định cưỡng chế thi hành án.
b) Quyết định về thi hành án, giấy báo, giấy triệu tập và văn bản khác có liên quan đến việc thi hành án phải thông báo cho đương sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan để họ thực hiện quyền, nghĩa vụ theo nội dung của văn bản đó. Việc thông báo phải thực hiện trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra văn bản, trừ trường hợp cần ngăn chặn đương sự tẩu tán, huỷ hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án.
Việc thông báo được thực hiện theo các hình thức: Thông báo trực tiếp hoặc qua cơ quan, tổ chức, cá nhân khác theo quy định của pháp luật; niêm yết công khai và thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Chi phí thông báodo người phải thi hành án chịu, trừ trường hợp pháp luật quy định ngân sách nhà nước chi trả hoặc người được thi hành án chịu.
c) Thủ tục thông báo trực tiếp
– Đối với cá nhân: Văn bản thông báo cho cá nhân phải được giao trực tiếp và yêu cầu người đó ký nhận hoặc điểm chỉ. Trường hợp người được thông báo vắng mặt thì văn bản thông báo được giao cho một trong số nhữngngười thân thích có đủ năng lực hành vi dân sự cùng cư trú với người đó, bao gồm vợ, chồng, con, ông, bà, cha, mẹ, bác, chú, cô, cậu, dì, anh, chị, em của đương sự, của vợ hoặc chồng của đương sự. Việc giao thông báo phải lập thành biên bản. Ngày lập biên bản là ngày được thông báo hợp lệ. Trường hợp người được thông báo không có người thân thích có đủ năng lực hành vi dân sự cùng cư trú hoặc có nhưng người đó từ chối nhận văn bản thông báo hoặc người được thông báo vắng mặt mà không rõ thời điểm trở về thì người thực hiện thông báo phải lập biên bản về việc không thực hiện được thông báo, có chữ ký của người chứng kiến và thực hiện việc niêm yết công khai.
Trường hợp người được thông báo đã chuyển đến địa chỉ mới thì phải thông báo theo địa chỉ mới của người được thông báo.
– Đối với cơ quan, tổ chức: Trường hợp người được thông báo là cơ quan, tổ chức thì văn bản thông báo phải được giao trực tiếp cho người đại diện theo pháp luật hoặc người chịu trách nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức đó và phải được những người này ký nhận. Trường hợp cơ quan, tổ chức được thông báo có người đại diện tham gia việc thi hành án hoặc cử người đại diện nhận văn bản thông báo thì những người này ký nhận văn bản thông báo. Ngày ký nhận là ngày được thông báo hợp lệ.
c) Niêm yết công khai
– Việc niêm yết công khai văn bản thông báo chỉ được thực hiện khi không rõ địa chỉ của người được thông báo hoặc không thể thực hiện được việc thông báo trực tiếp, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Cơ quan thi hành án dân sự trực tiếp hoặc ủy quyền cho Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được thông báo hoặc cá nhân, tổ chức có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật thực hiện việc niêm yết.
– Việc niêm yết được thực hiện theo thủ tục sau đây: Niêm yết văn bản thông báo tại trụ sở cơ quan thi hành án dân sự, trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được thông báo. Lập biên bản về việc niêm yết công khai, trong đó ghi rõ ngày, tháng, năm niêm yết; số, ngày, tháng, năm, tên của văn bản thông báo; có chữ ký của người chứng kiến.
Thời gian niêm yết công khai văn bản thông báo là 10 ngày, kể từ ngày niêm yết. Ngày niêm yết là ngày được thông báo hợp lệ.
d) Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng
Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng chỉ được thực hiện khi pháp luật có quy định hoặc khi đương sự có yêu cầu. Trường hợp xác định đương sự đang có mặt tại địa phương nơi đương sự cư trú thì việc thông báo được thực hiện trên báo ngày trong hai số liên tiếp hoặc trên đài phát thanh, đài truyền hình của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương của địa phương đó hai lần trong 02 ngày liên tiếp.
Trường hợp xác định đương sự không có mặt tại địa phương nơi đương sự cư trú thì việc thông báo được thực hiện trên báo ngày trong hai số liên tiếp hoặc trên đài phát thanh, đài truyền hình của trung ương hai lần trong 02 ngày liên tiếp. Ngày thực hiện việc thông báo lần hai trên phương tiện thông tin đại chúng là ngày được thông báo hợp lệ.
6. Xác minh điều kiện thi hành án
Luật thi hành án dân sự quy định về xác định điều kiện thi hành án theo hướng nâng cao trách nhiệm của người được thi hành án trong việc chứng minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. Theo đó, trường hợp chủ động ra quyết định thi hành án, Chấp hành viên phải tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.
Trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu, nếu người được thi hành án đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà không thể tự xác minh được điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì có thể yêu cầu Chấp hành viên tiến hành xác minh. Việc yêu cầu này phải được lập thành văn bản và phải ghi rõ các biện pháp đã được áp dụng nhưng không có kết quả, kèm theo tài liệu chứng minh.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày chủ động ra quyết định thi hành án hoặc kể từ ngày nhận được yêu cầu xác minh của người được thi hành án, Chấp hành viên phải tiến hành việc xác minh; trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải xác minh ngay.
Việc xác minh phải được lập thành biên bản, có xác nhận của tổ trưởng tổ dân phố, Uỷ ban nhân dân, công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi tiến hành xác minh. Biên bản xác minh phải thể hiện đầy đủ kết quả xác minh.
7. Thời hạn tự nguyện thi hành án
Trước đây, theo Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, thì căn cứ vào quyết định thi hành án, Chấp hành viên định cho người phải thi hành án thời hạn không quá 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án để tự nguyện thi hành.
Luật thi hành án dân sự quy định thời hạn tự nguyện thi hành án là 15 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án. Trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên có quyền áp dụng ngay các biện pháp bảo đảm hoặc cưỡng chế thi hành án.
8. Biện pháp bảo đảm thi hành án
Đây là lần đầu tiên pháp luật nước ta quy định về biện pháp bảo đảm thi hành án. Để ngăn chặn tình trạng người phải thi hành án tẩu tán, huỷ hoại tài sản, trốn tránh thực hiện nghĩa vụ thi hành án, Luật thi hành án dân sự đã quy định về thẩm quyền và thủ tục áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án. Theo đó, Chấp hành viên có quyền tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự áp dụng ngay biện pháp bảo đảm thi hành án nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, huỷ hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án. Khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, Chấp hành viên không phải thông báo trước cho đương sự.
Người yêu cầu Chấp hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình. Trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp bảo đảm hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường.
Các biện pháp bảo đảm thi hành án bao gồm:
– Phong toả tài khoản: Việc phong toả tài khoản được thực hiện trong trường hợp cần ngăn chặn việc tẩu tán tiền trong tài khoản của người phải thi hành án. Khi tiến hành phong toả tài khoản, Chấp hành viên phải giao quyết định phong toả tài khoản cho cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản của người phải thi hành án. Cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản phải thực hiện ngay quyết định của Chấp hành viên về phong toả tài khoản. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định phong toả tài khoản, Chấp hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng chế.
– Tạm giữ tài sản, giấy tờ: Chấp hành viên đang thực hiện nhiệm vụ thi hành án có quyền tạm giữ hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hỗ trợ để tạm giữ tài sản, giấy tờ mà đương sự đang quản lý, sử dụng. Việc tạm giữ tài sản, giấy tờ phải lập biên bản có chữ ký của Chấp hành viên và đương sự. Trường hợp đương sự không ký thì phải có chữ ký của người làm chứng. Biên bản tạm giữ tài sản, giấy tờ phải được giao cho đương sự. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tạm giữ tài sản, giấy tờ, Chấp hành viên ra một trong các quyết định sau đây: Áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án nếu xác định được tài sản, giấy tờ tạm giữ thuộc sở hữu của người phải thi hành án; trả lại tài sản, giấy tờ tạm giữ cho đương sự trong trường hợp đương sự chứng minh tài sản, giấy tờ tạm giữ không thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án.
Việc trả lại tài sản, giấy tờ tạm giữ phải lập biên bản, có chữ ký của các bên.
– Tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản: Trường hợp cần ngăn chặn hoặc phát hiện đương sự có hành vi chuyển quyền sở hữu, sử dụng, tẩu tán, huỷ hoại, thay đổi hiện trạng tài sản, Chấp hành viên ra quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản của người phải thi hành án và gửi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản đó.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định, Chấp hành viên thực hiện việc kê biên tài sản hoặc chấm dứt việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản.
9. Cưỡng chế thi hành án
Hết thời hạn tự nguyện thi hành án, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế. Không tổ chức cưỡng chế thi hành án trong thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ sáng ngày hôm sau, các ngày nghỉ, ngày lễ theo quy định của pháp luật và các trường hợp đặc biệt khác.
Căn cứ để cưỡng chế thi hành án bao gồm: Bản án, quyết định; quyết định thi hành án và quyết định cưỡng chế thi hành án, trừ trường hợp bản án, quyết định đã tuyên kê biên, phong toả tài sản, tài khoản và trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án.
Các biện pháp cưỡng chế thi hành án gồm có 6 loại sau đây: Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án. Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án. Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ. Khai thác tài sản của người phải thi hành án. Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ. Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định.
Trước khi tiến hành cưỡng chế thi hành án, Chấp hành viên phải lập kế hoạch cưỡng chế, trừ trường hợp phải cưỡng chế ngay. Kế hoạch cưỡng chế thi hành án bao gồm các nội dung chính sau đây: Biện pháp cưỡng chế cần áp dụng; thời gian, địa điểm cưỡng chế; phương án tiến hành cưỡng chế; yêu cầu về lực lượng tham gia và bảo vệ cưỡng chế và dự trù chi phí cưỡng chế.
Kế hoạch cưỡng chế phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát, cơ quan Công an cùng cấp, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tổ chức cưỡng chế hoặc cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc cưỡng chế thi hành án. Căn cứ vào kế hoạch cưỡng chế của cơ quan thi hành án dân sự, cơ quan Công an có trách nhiệm lập kế hoạch bảo vệ cưỡng chế, bố trí lực lượng, phương tiện cần thiết để giữ gìn trật tự, bảo vệ hiện trường, kịp thời ngăn chặn, xử lý hành vi tẩu tán tài sản, hành vi cản trở, chống đối việc thi hành án, tạm giữ người chống đối, khởi tố vụ án hình sự khi có dấu hiệu phạm tội.
Chi phí cưỡng chế thi hành án tuỳ từng trường hợp do các đối tượng khác nhau chịu, bao gồm:
– Người phải thi hành án chịu chi phí thông báo về cưỡng chế thi hành án; chi phí mua nguyên liệu, nhiên liệu, thuê phương tiện, thiết bị bảo vệ, y tế, phòng, chống cháy, nổ, các thiết bị, phương tiện cần thiết khác cho việc cưỡng chế thi hành án; chi phí cho việc định giá, giám định tài sản, bán đấu giá tài sản; chi phí định giá lại tài sản, trừ trường hợp Ngân sách nhà nước trả chi phí cưỡng chế thi hành án; chi phí cho việc thuê, trông coi, bảo quản tài sản; chi phí bốc dỡ, vận chuyển tài sản; chi phí thuê nhân công và khoản chi phục vụ cho việc xây ngăn, phá dỡ; chi thuê đo đạc, xác định mốc giới để thực hiện việc cưỡng chế thi hành án; chi phí cho việc tạm giữ, thu giữ tài sản, giấy tờ; tiền bồi dưỡng cho những người trực tiếp tham gia cưỡng chế và bảo vệ cưỡng chế thi hành án.
– Người được thi hành án phải chịu chi phí xác minh; chi phí định giá lại tài sản nếu người được thi hành án yêu cầu định giá lại, trừ trường hợp định giá lại do có vi phạm quy định về định giá; một phần hoặc toàn bộ chi phí xây ngăn, phá dỡ trong trường hợp bản án, quyết định xác định người được thi hành án phải chịu chi phí xây ngăn, phá dỡ.
– Ngân sách nhà nước trả chi phí cưỡng chế thi hành án trong các trường hợp định giá lại tài sản khi có vi phạm quy định về định giá; chi phí xác minh điều kiện thi hành án trong trường hợp chủ động thi hành án; trường hợp đương sự được miễn, giảm chi phí cưỡng chế thi hành án theo quy định của pháp luật và chi phí cần thiết khác theo quy định của Chính phủ.
Chấp hành viên dự trù chi phí cưỡng chế và thông báo cho người phải thi hành án biết ít nhất 03 ngày làm việc trước ngày cưỡng chế đã được ấn định, trừ trường hợp cần thiết phải cưỡng chế ngay. Chi phí cưỡng chế thi hành án được tạm ứng từ ngân sách nhà nước. Các khoản chi phí cưỡng chế thi hành án được thanh toán theo mức chi thực tế, hợp lý do Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự duyệt theo đề xuất của Chấp hành viên. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự nơi tổ chức việc thi hành án thực hiện xét miễn, giảm các khoản chi phí cưỡng chế thi hành án.
Chi phí cưỡng chế thi hành án do đương sự nộp hoặc được khấu trừ vào tiền thu được, tiền bán đấu giá tài sản kê biên, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ. Sau khi xử lý tài sản hoặc thu được tiền, Chấp hành viên phải làm thủ tục hoàn trả ngay các khoản tiền đã tạm ứng trước đó.
10. Thứ tự thanh toán tiền thi hành án
a) Số tiền thi hành án, sau khi trừ các chi phí thi hành án và khoản tiền trích lại từ số tiền bán tài sản một khoản tiền để người phải thi hành án thuê nhà phù hợp với giá thuê nhà trung bình tại địa phương trong thời hạn 01 năm (nếu cưỡng chế kê biên bán tài sản là nhà ở duy nhất), được thanh toán theo thứ tự sau đây:
– Tiền cấp dưỡng; tiền lương, tiền công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động; tiền bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần.
– Án phí.
– Các khoản phải thi hành án khác theo bản án, quyết định.
b) Trường hợp có nhiều người được thi hành án thì việc thanh toán tiền thi hành án được thực hiện như sau:
– Việc thanh toán được thực hiện theo thứ tự nêu trên. Trường hợp trong cùng một hàng ưu tiên có nhiều người được thi hành án thì việc thanh toán được thực hiện theo tỷ lệ số tiền mà họ được thi hành án.
– Số tiền thi hành án thu theo quyết định cưỡng chế thi hành án nào thì thanh toán cho những người được thi hành án đã có đơn yêu cầu tính đến thời điểm có quyết định cưỡng chế đó. Số tiền còn lại được thanh toán cho những người được thi hành án theo các quyết định thi hành án khác tính đến thời điểm thanh toán.
– Số tiền còn lại được trả cho người phải thi hành án.
c) Số tiền thu được từ việc bán tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bán tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm thi hành một nghĩa vụ cụ thể được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ được bảo đảm đó sau khi trừ các chi phí về thi hành án.
d) Thứ tự thanh toán tiền thi hành án về phá sảnđược thực hiện theo quy định của pháp luật về phá sản.
đ) Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày thu được tiền, Chấp hành viên phải thực hiện việc thanh toán tiền thi hành án.
11. Hoãn thi hành án
a) Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án trong các trường hợp người phải thi hành án bị ốm nặng, có xác nhận của cơ sở y tế từ cấp huyện trở lên; chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án hoặc vì lý do chính đáng khác mà người phải thi hành án không thể tự mình thực hiện được nghĩa vụ theo bản án, quyết định; người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn thi hành án. Việc đồng ý hoãn phải lập thành văn bản ghi rõ thời hạn hoãn, có chữ ký của các bên. Trong thời gian hoãn thi hành án do có sự đồng ý của người được thi hành án thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án; người phải thi hành các khoản nộp ngân sách nhà nước không có tài sản hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản đó không đủ chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc có tài sản nhưng tài sản thuộc loại không được kê biên; tài sản kê biên có tranh chấp đã được Tòa án thụ lýđểgiải quyết và việc thi hành án đang trong thời hạn cơ quan có thẩm quyền giải thích bản án, quyết định và trả lời kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự.
b) Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết địnhhoãn thi hành án khi nhận được yêu cầu hoãn thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị ít nhất 24 giờ trước thời điểm cưỡng chế thi hành án đã được ấn định trong quyết định cưỡng chế. Trường hợp cơ quan thi hành án nhận được yêu cầu hoãn thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị ít hơn 24 giờ trước thời điểm cưỡng chế đã được ấn định trong quyết định cưỡng chế thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có quyền quyết định hoãn thi hành án khi xét thấy cần thiết.
Trường hợp vụ việc đã được thi hành một phần hoặc đã được thi hành xong thì cơ quan thi hành án dân sự phải có văn bản thông báo ngay cho người yêu cầu hoãn thi hành án.
Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định của Toà án chỉ được yêu cầu hoãn thi hành án một lần để xem xét kháng nghị nhằm tránh hậu quả không thể khắc phục được.
Thời hạn hoãn thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định không quá 03 tháng, kể từ ngày ra văn bản yêu cầu hoãn thi hành án; trong thời gian hoãn thi hành án thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án.
c) Thời hạn ra quyết định hoãn thi hành án là 05 ngày làm việc, kể từ ngày có căn cứ hoãn thi hành án. Trường hợp nhận được yêu cầu hoãn thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị thì phải ra ngay quyết định hoãn thi hành án khi nhận được yêu cầu của người có thẩm quyền.
d) Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ khi căn cứ hoãn thi hành án không còn, hết thời hạn hoãn thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền kháng nghị hoặc khi nhận được văn bản trả lời của người có thẩm quyền kháng nghị về việc không có căn cứ kháng nghị thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định tiếp tục thi hành án.
12. Tạm đình chỉ thi hành án
a) Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự thông báo về việc tạm đình chỉ thi hành án khi nhận được quyết định tạm đình chỉ thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định đã được thi hành một phần hoặc toàn bộ thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải thông báo ngay bằng văn bản cho người đã kháng nghị.
Trong thời gian tạm đình chỉ thi hành án do có kháng nghị thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án.
b) Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án khi nhận được thông báo của Toà án về việc đã thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với người phải thi hành án.
Thời hạn ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án là 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo của Toà án.
c) Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sựra quyết định tiếp tục thi hành án trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được một trong các quyết định sau đây:
– Quyết định rút kháng nghị của người có thẩm quyền;
– Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án giữ nguyên bản án, quyết định bị kháng nghị;
– Quyết định của Toà án về việc đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản, đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.
13. Đình chỉ thi hành án
a) Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sựphải ra quyết định đình chỉ thi hành án trong các trường hợp sau đây:
– Người phải thi hành án chết không để lại di sản hoặc theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của người đó theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế;
– Người được thi hành án chết mà theo quy định của pháp luật quyền và lợi ích của người đó theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế hoặc không có người thừa kế;
– Đương sự có thoả thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự không tiếp tục việc thi hành án, trừ trường hợp việc đình chỉ thi hành án ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba;
– Bản án, quyết định bị hủy một phần hoặc toàn bộ;
– Người phải thi hành án là tổ chức đã bị giải thể, không còn tài sản mà theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của họ không được chuyển giao cho tổ chức khác;
– Có quyết định miễn hoặc giảm một phần nghĩa vụ thi hành án;
– Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với người phải thi hành án;
– Người chưa thành niên được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định đã thành niên.
b) Thời hạn ra quyết định đình chỉ thi hành án là 05 ngày làm việc, kể từ ngày có căn cứ đình chỉ thi hành án.
14. Trả đơn yêu cầu thi hành án
a) Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án trong các trường hợp sau đây:
– Người phải thi hành án không có tài sản để thi hành án hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản chỉ đủ để thanh toán chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc tài sản đó theo quy định của pháp luật không được xử lý để thi hành án;
– Người phải thi hành án không có thu nhập hoặc mức thu nhập thấp, chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải thi hành án và gia đình;
– Tài sản kê biên không bán được mà người được thi hành án không nhận để thi hành án;
– Người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ về trả vật đặc định nhưng vật phải trả không còn hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng được mà đương sự không có thoả thuận khác.
c) Khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành thì người được thi hành án có quyền yêu cầu thi hành bản án, quyết định trong thời hạn quy định, kể từ ngày phát hiện người phải thi hành án có điều kiện thi hành.
15. Kết thúc thi hành án và xác nhận kết quả thi hành án
Việc thi hành án đương nhiên kết thúc trong các trường hợp đương sự đã thực hiện xong quyền, nghĩa vụ của mình; có quyết định đình chỉ thi hành án hoặc có quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án.
Đương sự có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự xác nhận kết quả thi hành án. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu của đương sự, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp giấy xác nhận kết quả thi hành án.
16. Chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án
a) Việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án đối với tổ chức được thực hiện như sau:
– Trường hợp hợp nhất thì tổ chức mới tiếp tục thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
– Trường hợp sáp nhập thì tổ chức sáp nhập tiếp tục thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
– Trường hợp chia, tách thì cơ quan ra quyết định chia, tách phải xác định rõ cá nhân, tổ chức tiếp tục thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án theo quyết định chia, tách, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Nếu quyết định chia, tách không quy định nghĩa vụ của các tổ chức mới thì sau khi chia, tách các tổ chức mới có trách nhiệm liên đới thực hiện nghĩa vụ thi hành án của tổ chức bị chia, tách;
– Trường hợp giải thể thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định giải thể phải thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự biết trước khi ra quyết định. Trường hợp quyền, nghĩa vụ thi hành án của tổ chức bị giải thể được chuyển giao cho tổ chức khác thì tổ chức mới tiếp tục thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án.
Cơ quan thi hành án dân sự, người được thi hành án, người có quyền, nghĩa vụ liên quan có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét lại quyết định giải thể theo quy định của pháp luật.
Trường hợp tài sản để thi hành án không còn do thực hiện quyết định giải thể trái pháp luật thì cơ quan ra quyết định giải thể phải chịu trách nhiệm thi hành phần nghĩa vụ của tổ chức bị giải thể tương ứng với tài sản đó;
– Trường hợp phá sản thì quyền, nghĩa vụ thi hành án được thực hiện theo quyết định về phá sản;
– Trường hợp doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi thành công ty cổ phần mà trước đó chưa thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án của mình thì sau khi chuyển đổi, doanh nghiệpđó tiếp tục thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án.
b) Trường hợp người được thi hành án, người phải thi hành án là cá nhân chết thì quyền, nghĩa vụ thi hành án được chuyển giao cho người khác theo quy định của pháp luật về thừa kế.
c) Tổ chức, cá nhân được chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án có quyền làm đơn yêu cầu thi hành án hoặc phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thi hành án.
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án đối với cá nhân, tổ chức mới tương ứng với quyền, nghĩa vụ thi hành án được chuyển giao và ra quyết định thu hồi quyết định thi hành án trước đây.
Đối với các quyết định, thông báo khác về thi hành án thì tùy từng trường hợp cụ thể mà cơ quan thi hành án dân sự giữ nguyên, thu hồi hoặc ra các quyết định, thông báo khác phù hợp theo quy định của Luật này.
d) Trường hợp đương sự thỏa thuận về việc chuyển giao quyền, nghĩa vụ về thi hành án cho người thứ ba thì người thứ ba có quyền, nghĩa vụ của đương sự.
17. Ủy thác thi hành án
a)Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải uỷ thác thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở. Trường hợp người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở ở nhiều địa phương thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự uỷ thác thi hành án từng phần cho cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án để thi hành phần nghĩa vụ của họ.
Trường hợp ủy thác thi hành nghĩa vụ liên quan đến tài sản thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ủy thác đến cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có tài sản; nếu không xác định được nơi có tài sản hoặc nơi có tài sản trùng với nơi làm việc, cư trú, có trụ sở của người phải thi hành án thì ủy thác đến nơi làm việc, cư trú hoặc nơi có trụ sở của người đó. Trường hợp thi hành nghĩa vụ liên đới mà người phải thi hành án cư trú hoặc có tài sản ở các địa phương khác nhau thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự uỷ thác toàn bộ nghĩa vụ thi hành án đến cơ quan thi hành án dân sự thuộc một trong các địa phương nơi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án.
Việc ủy thác phải thực hiện trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày xác định có căn cứ ủy thác. Trường hợp cần thiết phải ủy thác việc thi hành quyết định của Tòa án về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì việc uỷ thác phải thực hiện ngay sau khi có căn cứ uỷ thác.
b) Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh uỷ thác cho cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh nơi khác thi hành các bản án, quyết định về nhận người lao động trở lại làm việc hoặc bồi thường thiệt hại mà người phải thi hành án là cơ quan nhà nước cấp tỉnh trở lên; bản án, quyết định có yếu tố nước ngoài hoặc liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ; quyết định của Trọng tài thương mại; quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh; cho cơ quan thi hành án cấp quân khu thi hành vụ việc mà đương sự hoặc tài sản có liên quan đến quân đội trên địa bàn và cho ủy thác cho cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện vụ việc khác.
Cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện ủy thác vụ việc thuộc thẩm quyền thi hành án của mình cho cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh nơi khác, cơ quan thi hành án cấp quân khu, cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện khác có điều kiện thi hành.
Cơ quan thi hành án cấp quân khu ủy thác vụ việc thuộc thẩm quyền thi hành án của mình cho cơ quan thi hành án cấp quân khu khác, cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh hoặc cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện có điều kiện thi hành. Trước khi ủy thác, cơ quan thi hành án dân sự phải xử lý xong tài sản tạm giữ, thu giữ, tài sản kê biên tại địa bàn có liên quan đến khoản uỷ thác. Trường hợp Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định thi hành án nhưng xét thấy cần ủy thác thì phải ra quyết định thu hồi một phần hoặc toàn bộ quyết định thi hành án và ra quyết định ủy thác cho nơi có điều kiện thi hành. Cơ quan thi hành án dân sự nhận ủy thác không được trả lại quyết định ủy thác cho cơ quan thi hành án dân sự đã ủy thác mà phải tiếp tục thực hiện việc thi hành án, trừ trường hợp quyết định ủy thác có sự nhầm lẫn, sai sót rõ ràng về thẩm quyền của cơ quan nhận ủy thác thi hành án, nội dung thi hành án.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án và thông báo bằng văn bản cho cơ quan thi hành án dân sự đã ủy thác về việc nhận được quyết định ủy thác.
18. Việc thi hành án khi có thay đổi giá tài sản tại thời điểm thi hành án và bảo quản tài sản thi hành án
a) Trường hợp theo bản án, quyết định mà một bên được nhận tài sản và phải thanh toán cho người khác giá trị tài sản họ được nhận, nhưng tại thời điểm thi hành án, giá tài sản thay đổi và một trong các bên đương sự có yêu cầu định giá tài sản đó thì tài sản được định giá để thi hành án.
b)Việc bảo quản tài sản thi hành án được thực hiện bằng một trong các hình thức giao cho người phải thi hành án, người thân thích của người phải thi hành án hoặc người đang sử dụng, bảo quản hoặc cá nhân, tổ chức có điều kiện bảo quản hoặc bảo quản tại kho của cơ quan thi hành án dân sự.
Tài sản là kim khí quý, đá quý, tiền hoặc giấy tờ có giá được bảo quản tại Kho bạc nhà nước. Việc giao bảo quản tài sản phải được lập biên bản ghi rõ loại tài sản, tình trạng tài sản, giờ, ngày, tháng, năm giao; họ, tên Chấp hành viên, đương sự, người được giao bảo quản, người làm chứng, nếu có; quyền, nghĩa vụ của người được giao bảo quản tài sản và có chữ ký của các bên. Trường hợp có người từ chối ký thì phải ghi vào biên bản và nêu rõ lý do.
Người được giao bảo quản tài sản là cá nhân, tổ chức không phải là người phải thi hành án, người thân thích của người phải thi hành án và cơ quan thi hành án dân sự được trả thù lao và được thanh toán chi phí bảo quản tài sản. Thù lao và chi phí bảo quản tài sản do người phải thi hành án chịu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Biên bản giao bảo quản tài sản được giao cho đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người được giao bảo quản tài sản hoặc người đang sử dụng, bảo quản tài sản và lưu hồ sơ thi hành án. Người được giao bảo quản tài sản vi phạm quy định của pháp luật trong việc bảo quản tài sản thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
19. Phí thi hành án dân sự
Người được thi hành án phải nộp phí thi hành án dân sự.Mức phí thi hành án dân sự, thủ tục thu nộp, quản lý, sử dụng phí thi hành án dân sự theo quy định của Chính phủ.
20. Miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án
Luật thi hành án dân sự năm 2008 quy định về miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án có nhiều đổi mới theo hướng “mở” hơn nhiều so với Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, không chỉ là khoản án phí, tiền phạt, mà bao gồm tất cả các khoản thu nộp ngân sách nhà nước. Quy định về miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước (sau đây gọi chung là miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án) tại Luật thi hành án dân sự gồm 4 điều từ Điều 61 đến Điều 64. Để hạn chế việc áp dụng miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án tuỳ tiện, tránh tạo tâm lý cho đương sự chây ỳ nhằm rũ bỏ tránh nhiệm thi hành án đối với Nhà nước, quy định của pháp luật đòi hỏi phải chặt chẽ về trình tự, thủ tục và việc thực hiện phải nghiêm túc mới đạt hiệu quả cao.
20.1. Điều kiện miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước
a) Người phải thi hành án không có tài sản để thi hành các khoản thu nộp ngân sách nhà nước thì có thể được xét miễn nghĩa vụ thi hành án khi hết thời hạn sau đây:
– 05 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án đối với các khoản án phí không có giá ngạch.
– 10 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án đối với các khoản thu nộp ngân sách nhà nước có giá trị dưới 5.000.000 đồng.
b) Người phải thi hành án đã thi hành được một phần khoản thu nộp ngân sách nhà nước mà không có tài sản để thi hành án thì có thể được xét miễn thi hành phần nghĩa vụ còn lại khi hết thời hạn sau đây:
– 05 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án mà phần nghĩa vụ còn lại có giá trị dưới 5.000.000 đồng;
– 10 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án mà phần nghĩa vụ còn lại có giá trị dưới 10.000.000 đồng.
c) Người phải thi hành án đã thi hành được một phần khoản thu nộp ngân sách nhà nước mà không có tài sản để thi hành án thì có thể được xét giảm một phần nghĩa vụ thi hành án sau khi hết thời hạn sau đây:
– 05 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án mà phần nghĩa vụ còn lại có giá trị từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
– 10 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án mà phần nghĩa vụ còn lại có giá trị từ trên 100.000.000 đồng.
Việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án được tiến hành thường xuyên nhưng mỗi người phải thi hành án chỉ được xét miễn hoặc giảm một lần trong 01 năm. Trường hợp một người phải thi hành nhiều khoản nộp ngân sách nhà nước trong nhiều bản án, quyết định khác nhau thì đối với mỗi bản án, quyết định, người phải thi hành án chỉ được xét miễn hoặc giảm thi hành án một lần trong 01 năm.
20.2. Hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước
Cơ quan thi hành án dân sự lập hồ sơ đề nghịTòa án có thẩm quyền xem xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án. Hồ sơ bao gồm các tài liệu sau đây: Văn bản đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự hoặc của Viện trưởng Viện kiểm sát trong trường hợp đề nghị xét miễn, giảm khoản tiền phạt. Bản án, quyết định của Toà án, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự. Biên bản xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án được thực hiện trong thời hạn không quá 03 tháng trước khi đề nghị xét miễn, giảm. Tài liệu khác chứng minh điều kiện được xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án, nếu có. Ý kiến bằng văn bản của Viện kiểm sát cùng cấp trong trường hợp cơ quan thi hành án dân sự đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án.
20.3. Thẩm quyền, thủ tục xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước
a) Việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Toà án quân sự khu vực (sau đây gọi chung là Toà án cấp huyện) nơi cơ quan thi hành án dân sự đang tổ chức việc thi hành án có trụ sở.
b) Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án, Toà án phải thụ lý hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án. Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày thụ lý hồ sơ, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc phải mở phiên họp xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án.
Phiên họp xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án do một Thẩm phán chủ trì, có sự tham dự của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan thi hành án dân sự đã đề nghị xét miễn, giảm. Khi tiến hành xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án, đại diện cơ quan thi hành án dân sự trình bày tóm tắt hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm; đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm. Trên cơ sở xem xét hồ sơ và ý kiến của đại diện của Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự, Thẩm phán ra quyết định chấp nhận, chấp nhận một phần hoặc không chấp nhận đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định về việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án, Toà án phải gửi quyết định đó cho người được xét miễn, giảm thi hành án, Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp, cơ quan thi hành án dân sự đã đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án, trại giam, trại tạm giam nơi người được xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước đang chấp hành hình phạt tù.
20.4. Kháng nghị quyết định của Toà án về miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước
a) Quyết định miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án của Tòa án có thể bị Viện kiểm sát kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định.
Hết thời hạn kháng nghị, Viện kiểm sát không kháng nghị thì quyết định của Toà án có hiệu lực thi hành.
b) Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát, Toà án đã ra quyết định miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án phải chuyển hồ sơ và văn bản kháng nghị lên Toà án cấp trên trực tiếp.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ kháng nghị, Toà án cấp trên trực tiếp phải mở phiên họp để xét kháng nghị. Phiên họp xét kháng nghị do một Thẩm phán chủ trì, có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp. Trong trường hợp cần thiết, Toà án yêu cầu đại diện cơ quan thi hành án dân sự đã lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm tham dự. Thẩm phán chủ trì phiên họp ra quyết định giải quyết kháng nghị. Quyết định của Tòa án về giải quyết kháng nghị việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án có hiệu lực thi hành.
Trường hợp Viện kiểm sát rút quyết định kháng nghị trước hoặc trong phiên họp xét kháng nghị thì Toà án ra quyết định đình chỉ việc xét kháng nghị. Quyết định của Toà án về việc miễn, giảm thi hành án bị kháng nghị có hiệu lực thi hành.
Trường hợp sau khi quyết định cho miễn, giảm thi hành án có hiệu lực mà phát hiện người phải thi hành án có hành vi cất giấu, tẩu tán tài sản để xin miễn, giảm, trốn tránh việc thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự, Viện kiểm sát đã đề nghị xét miễn, giảm có trách nhiệm đề nghị Chánh án Toà án, Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự và tố tụng dân sự xem xét việc kháng nghị quyết định miễn, giảm thi hành án theo thủ tục tái thẩm.
21. Bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành án
Đây là quy định mới nhưng có sự kế thừa quy định về hỗ trợ tài chính để thi hành án tại Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004. Quy định bảo đảm tài chính để thi hành án nhằm bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án, nâng cao trách nhiệm của Nhà nước trong trường hợp cơ quan, tổ chức của Nhà nước phải thi hành án. Theo đó, trường hợp cơ quan, tổ chức hoạt động hoàn toàn bằng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp phải thi hành án đã áp dụng mọi biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn không có khả năng thi hành án thì ngân sách nhà nước bảo đảm nghĩa vụ thi hành án. Việc xử lý trách nhiệm vật chất đối với người gây ra thiệt hại được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, thẩm quyền, điều kiện, đối tượng, thủ tục bảo đảm tài chính để thi hành án còn chờ Chính phủ quy định cụ thể.
4. Thi hành án trong một số trường hợp cụ thể
4.1. Thi hành khoản tịch thu sung quỹ nhà nước; tiêu huỷ tài sản; hoàn trả tiền, tài sản kê biên, tạm giữ trong bản án, quyết định hình sự
a) Chuyển giao vật chứng, tài sản tạm giữ kèm theo bản án, quyết định
Vật chứng, tài sản tạm giữ trong bản án, quyết định hình sự do yêu cầu phục vụ việc xét xử mà chưa được chuyển cho cơ quan thi hành án dân sự trong giai đoạn truy tố, xét xử theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì phải chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự tại thời điểm Toà án chuyển giao bản án, quyết định.
Việc giao, nhận vật chứng, tài sản tạm giữ được tiến hành tại kho của cơ quan thi hành án dân sự. Bên giao có trách nhiệm vận chuyển vật chứng, tài sản tạm giữ đến kho của cơ quan thi hành án dân sự. Đối với vật chứng, tài sản tạm giữ không thể vận chuyển, di dời về bảo quản tại kho của cơ quan thi hành án dân sự thì địa điểm giao nhận vật chứng, tài sản tạm giữ là nơi đang gửi, giữ hoặc nơi đang có tài sản.
Việc tiếp nhận tài sản phải có sự tham gia đầy đủ của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự hoặc người được Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự uỷ quyền, thủ kho, kế toán.
b) Thủ tục tiếp nhận vật chứng, tài sản tạm giữ
Thủ kho có trách nhiệm trực tiếp nhận, kiểm tra hiện trạng vật chứng, tài sản tạm giữ và nhập kho thi hành án. Việc giao nhận vật chứng, tài sản tạm giữ phải được lập biên bản ghi rõ giờ, ngày, tháng, năm giao nhận; số lượng, chủng loại, hiện trạng của từng loại vật chứng, tài sản tạm giữ, có so sánh với biên bản thu giữ ban đầu của cơ quan Công an hoặc Toà án. Cơ quan thi hành án dân sự chỉ tiếp nhận tài sản đủ và đúng với hiện trạng ghi trong biên bản thu giữ ban đầu. Trong trường hợp vật chứng, tài sản tạm giữ giao, nhận đã bị thay đổi so với biên bản thu giữ ban đầu thì Thủ trưởng cơ quan bên giao, bên nhận có trách nhiệm kiểm tra, kết luận và cơ quan thi hành án dân sự chỉ nhận khi đã được các cơ quan có thẩm quyền làm rõ về những thay đổi đó. Biên bản giao, nhận vật chứng, tài sản tạm giữ phải có chữ ký của người đại diện và dấu của cơ quan bên nhận, chữ ký của người đại diện và dấu của cơ quan bên giao, nếu có.
Trường hợp vật chứng, tài sản tạm giữ được bàn giao dưới hình thức gói niêm phong, cơ quan thi hành án dân sự chỉ nhận khi có kết quả giám định rõ số lượng, chủng loại, chất lượng của từng loại vật chứng, tài sản tạm giữ trong gói niêm phong đó của cơ quan có thẩm quyền. Đối với vật chứng, tài sản tạm giữ là các chất ma tuý, cơ quan thi hành án dân sự chỉ nhận dưới hình thức gói niêm phong kèm theo kết luận giám định của cơ quan có thẩm quyền.
Khi giao, nhận phải lập biên bản ghi rõ hiện trạng của vật chứng, tài sản được niêm phong, có chữ ký của bên giao, bên nhận. Trường hợp niêm phong bị rách hoặc có dấu hiệu khả nghi trên đó thì cơ quan thi hành án dân sự chỉ tiếp nhận khi có kết luận giám định của cơ quan có thẩm quyền.
c) Xử lý vật chứng, tài sản tạm giữ bị tuyên tịch thu, sung quỹ nhà nước
Đối với vật chứng, tài sản tạm giữ mà bản án, quyết định tuyên tịch thu, sung quỹ nhà nước thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ra quyết định thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự phải thông báo bằng văn bản và tiến hành giao vật chứng, tài sản tạm giữ đó cho cơ quan tài chính cùng cấp. Đối với tài sản tịch thu, sung quỹ nhà nước do cơ quan thi hành án cấp quân khu thi hành thì chuyển cho cơ quan tài chính cấp tỉnh nơi cơ quan thi hành án cấp quân khu có trụ sở.
Chi phí xử lý vật chứng, tài sản tạm giữ bị tuyên tịch thu, sung quỹ nhà nước do cơ quan tài chính nơi nhận vật chứng, tài sản tạm giữ chi trả theo quy định của pháp luật.
Khi chuyển giao vật chứng, tài sản tạm giữ phải kèm theo quyết định thi hành án, bản án, quyết định hoặc bản sao bản án, quyết định do cơ quan thi hành án dân sự sao y bản chính. Việc chuyển giao vật chứng, tài sản tạm giữ phải có sự tham gia của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự hoặc người được Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự uỷ quyền, kế toán, thủ kho và đại diện cơ quan tài chính. Việc giao, nhận vật chứng, tài sản tạm giữ được lập biên bản, mô tả cụ thể thực trạng vật chứng, tài sản tạm giữ, có chữ ký của người đại diện và dấu của cơ quan bên giao, chữ ký của người đại diện và dấu của cơ quan bên nhận, nếu có.
Trường hợp quyết định tịch thu vật chứng, tài sản tạm giữ đã được thi hành nhưng sau đó phát hiện có sai lầm và đã được cơ quan có thẩm quyền ra quyết định huỷ bỏ quyết định tịch thu thì cơ quan thi hành án dân sự phối hợp với cơ quan tài chính cùng cấp hoặc cơ quan tài chính cấp t���nh nơi cơ quan thi hành án cấp quân khu có trụ sở để làm thủ tục hoàn trả lại số tiền đã nộp vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật.
d) Tiêu huỷ vật chứng, tài sản
Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày ra quyết định thi hành án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định thành lập Hội đồng tiêu huỷ vật chứng, tài sản thuộc diện tiêu huỷ theo bản án, quyết định, trừ trường hợp pháp luật quy định phải tiêu huỷ ngay.
Hội đồng tiêu huỷ vật chứng, tài sản gồm Chấp hành viên là Chủ tịch Hội đồng, đại diện cơ quan tài chính cùng cấp là thành viên, đại diện cơ quan chuyên môn tham gia Hội đồng khi cần thiết.
Viện kiểm sát cùng cấp kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tiêu huỷ vật chứng, tài sản.
đ) Trả lại tiền, tài sản tạm giữ cho đương sự
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định trả lại tiền, tài sản tạm giữ trong trường hợp bản án, quyết định tuyên trả lại tài sản cho đương sự. Trường hợp người được trả lại tiền, tài sản tạm giữ đồng thời là người phải thi hành nghĩa vụ trả tiền không tự nguyện thi hành án thì Chấp hành viên xử lý tiền, tài sản đó để thi hành án.
Sau khi có quyết định trả lại tiền, tài sản tạm giữ, Chấp hành viên thông báo cho đương sự thời gian, địa điểm nhận lại tiền, tài sản. Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được thông báo mà đương sự không đến nhận tiền thì Chấp hành viên gửi số tiền đó theo hình thức tiết kiệm không kỳ hạn và thông báo cho đương sự.
Hết thời hạn 03 tháng, kể từ ngày được thông báo nhưng đương sự không đến nhận tài sản mà không có lý do chính đáng thì Chấp hành viên xử lý tài sản theo quy định và gửi số tiền thu được theo hình thức tiết kiệm không kỳ hạn, đồng thời thông báo cho đương sự. Hết thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật mà đương sự vẫn không đến nhận số tiền đã được gửi tiết kiệm mà không có lý do chính đáng thì cơ quan thi hành án dân sự làm thủ tục sung quỹ nhà nước.
Đối với tài sản không bán được hoặc bị hư hỏng không còn giá trị sử dụng thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định tiêu huỷ và tổ chức tiêu huỷ tài sản. Đối với giấy tờ liên quan đến tài sản, nhân thân của đương sự thì hết thời hạn 01 năm, kể từ ngày thông báo nếu đương sự không đến nhận, Chấp hành viên làm thủ tục chuyển giao cho cơ quan đã ban hành giấy tờ đó xử lý theo quy định.
Trường hợp tài sản trả lại là tiền Việt Nam, ngoại tệ bị hư hỏng không còn sử dụng được do lỗi của các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án dân sự trong quá trình bảo quản và đương sự từ chối nhận thì cơ quan thi hành án dân sự đề nghị Ngân hàng nhà nước đổi tiền mới có giá trị tương đương để trả cho đương sự. Đối với tài sản là tiền Việt Nam, ngoại tệ bị hư hỏng không còn sử dụng được không do lỗi của các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án dân sự mà đương sự từ chối nhận thì cơ quan thi hành án dân sự giao cho Ngân hàng nhà nước xử lý theo quy định của pháp luật.
Việc trả lại tiền tạm ứng án phí theo bản án, quyết định được thực hiện theo quy định nêu trên.
e) Xử lý tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm thi hành án
Chấp hành viên định giá, định giá lại tài sản, giao tài sản và bán tài sản theo quy định chung đối với tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm thi hành án trong trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án.
g) Thu án phí, tiền phạt và các khoản phải thu khác đối với người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù
Giám thị trại giam, trại tạm giam nơi người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù thu các khoản tiền, tài sản mà người phải thi hành án, thân nhân của người phải thi hành án nộp để thi hành án và chuyển cho cơ quan thi hành án dân sự xử lý theo quy định của pháp luật.
Trường hợp người phải thi hành án chuyển trại giam, trại tạm giam hoặc được đặc xá, được miễn chấp hành hình phạt tù hoặc chết thì Giám thị trại giam, trại tạm giam nơi người đó chấp hành hình phạt tù phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan thi hành án dân sự.
h) Thủ tục trả lại tiền, tài sản cho người được thi hành án đang chấp hành hình phạt tù
Chấp hành viên gửi thông báo, quyết định về việc nhận lại tiền, tài sản cho người được thi hành án đang chấp hành hình phạt tù thông qua Giám thị trại giam, trại tạm giam. Trường hợp người được thi hành án uỷ quyền cho người khác nhận tiền, tài sản thì văn bản uỷ quyền phải có xác nhận của Giám thị trại giam, trại tạm giam. Chấp hành viên trả tiền, tài sản cho người được uỷ quyền.
Trường hợp người được thi hành án có yêu cầu và được nhận tiền, tài sản tại nơi đang chấp hành hình phạt tù theo quy định của pháp luật thì Chấp hành viên gửi tiền, tài sản cho người đó thông qua Giám thị trại giam, trại tạm giam. Chi phí cho việc gửi tiền, tài sản do người được thi hành án chịu. Khi giao tiền, tài sản cho đương sự, Giám thị trại giam, trại tạm giam lập biên bản và gửi cho cơ quan thi hành án dân sự.
Trường hợp người được thi hành án đang chấp hành hình phạt tù từ chối nhận lại tiền, tài sản bằng văn bản có xác nhận của Giám thị trại giam, trại tạm giam thì Chấp hành viên xử lý tiền, tài sản để sung quỹ nhà nước hoặc tiêu huỷ theo quy định.
4.2. Thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
a) Thủ tục thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được quyết định thi hành án, Chấp hành viên phải áp dụng ngay các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế sau đây:
– Biện pháp cưỡng chế để bảo đảm thi hành quyết định về cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định; giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; tạm đình chỉ quyết định sa thải người lao động;
– Biện pháp cưỡng chế để bảo đảm thi hành quyết định về buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng; buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm; buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động;
– Biện pháp cưỡng chế để đảm bảo thi hành biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định về kê biên tài sản đang tranh chấp.
– Biện pháp bảo đảm để bảo đảm thi hành quyết định về cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp; cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp; phong toả tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác; phong toả tài sản ở nơi gửi giữ; phong toả tài sản của người có nghĩa vụ;
– Biện pháp cưỡng chế để bảo đảm thi hành quyết định về cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm hàng hoá khác.
Trường hợp người phải thi hành án cư trú hoặc có tài sản ở địa phương khác thì tuỳ từng trường hợp cụ thể, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định uỷ thác cho cơ quan thi hành án dân sự nơi người đó cư trú hoặc nơi có tài sản tổ chức thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
b) Thi hành quyết định thay đổi, áp dụng bổ sung biện pháp khẩn cấp tạm thời
Trường hợp nhận được quyết định thay đổi hoặc áp dụng bổ sung quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra ngay quyết định thi hành án, đồng thời thu hồi quyết định thi hành án đối với quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đã bị thay đổi.
Trường hợp quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bị thay đổi đã thi hành được một phần hoặc đã thi hành xong thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự thông báo cho Toà án và giải thích cho đương sự quyền yêu cầu Toà án giải quyết.
c) Đình chỉ thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Trường hợp Toà án hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì ngay sau khi nhận được quyết định của Toà án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định đình chỉ thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi có quyết định đình chỉ thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Chấp hành viên làm thủ tục giải toả kê biên, trả lại tài sản, giải toả việc phong toả tài sản hoặc tài khoản của người có nghĩa vụ.
Trường hợp quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bị Toà án hủy bỏ, nhưng cơ quan thi hành án dân sự đã thi hành được một phần hoặc thi hành xong thì việc giải quyết quyền lợi của đương sự thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự thông báo cho Toà án và giải thích cho đương sự quyền yêu cầu Toà án giải quyết.
d) Chi phí thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án
Chí phí thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án được tạm ứng từ ngân sách nhà nước.
Trường hợp người yêu cầu Toà án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng thì người đó phải thanh toán các chi phí thực tế do việc thi hành quyết định đó. Khoản tiền đặt trước được đối trừ, tài sản bảo đảm bị xử lý để thanh toán nghĩa vụ.
Trường hợp Toà án tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì chi phí thi hành án được thanh toán từ ngân sách nhà nước.
4.3. Thi hành quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm
a) Thi hành quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm tuyên giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
Trường hợp quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm tuyên giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà bản án, quyết định đó chưa thi hành hoặc đã thi hành được một phần thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định tiếp tục thi hành án. Trường hợp bản án, quyết định đó đã thi hành xong thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự thông báo cho Toà án đã ra quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm, Viện kiểm sát cùng cấp và đương sự.
b) Thi hành quyết định giám đốc thẩm tuyên giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Toà án cấp dưới đã bị huỷ hoặc bị sửa
Trường hợp quyết định giám đốc thẩm tuyên giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Toà án cấp dưới đã bị huỷ hoặc bị sửa thì việc thi hành được thực hiện theo quyết định giám đốc thẩm và bản án, quyết định đúng pháp luật của Toà án cấp dưới đã bị huỷ hoặc bị sửa.
Đối với phần bản án, quyết định của Toà án cấp dưới không bị huỷ, bị sửa mà chưa được thi hành thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định tiếp tục thi hành án; nếu đã thi hành xong thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự thông báo cho Toà án đã ra quyết định giám đốc thẩm, Viện kiểm sát cùng cấp và đương sự.
Đối với phần bản án, quyết định của Tòa án hủy, sửa bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới mà đã thi hành được một phần hoặc đã thi hành xong thì đương sự có thể thỏa thuận với nhau về việc hoàn trả tài sản, phục hồi lại quyền tài sản. Trường hợp tài sản thi hành án là động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản còn nguyên trạng thì cưỡng chế trả lại tài sản đó cho chủ sở hữu.
Trường hợp tài sản đã được chuyển dịch hợp pháp cho người thứ ba chiếm hữu ngay tình thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa hoặc tài sản thi hành án đã bị thay đổi hiện trạng thì chủ sở hữu tài sản ban đầu không được lấy lại tài sản nhưng được bồi hoàn giá trị của tài sản.
Trường hợp có yêu cầu về bồi thường thiệt hại thì cơ quan ra bản án, quyết định bị huỷ, sửa giải quyết theo quy định của pháp luật.
c) Thi hành quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm tuyên huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
Trường hợp quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm tuyên huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm lại thì việc thi hành án được thực hiện theo bản án, quyết định sơ thẩm mới có hiệu lực pháp luật hoặc bản án phúc thẩm mới.
Trường hợp quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm tuyên hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án đã xét xử vụ án và đình chỉ giải quyết vụ án mà phần tài sản trong bản án, quyết định bị hủy đã thi hành được một phần hoặc đã thi hành xong thìđối với phần bản án, quyết định của Tòa án hủy, sửa bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới mà đã thi hành được một phần hoặc đã thi hành xong thì đương sự có thể thỏa thuận với nhau về việc hoàn trả tài sản, phục hồi lại quyền tài sản. Trường hợp tài sản thi hành án là động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản còn nguyên trạng thì cưỡng chế trả lại tài sản đó cho chủ sở hữu. Trường hợp tài sản đã được chuyển dịch hợp pháp cho người thứ ba chiếm hữu ngay tình thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa hoặc tài sản thi hành án đã bị thay đổi hiện trạng thì chủ sở hữu tài sản ban đầu không được lấy lại tài sản nhưng được bồi hoàn giá trị của tài sản. Trường hợp có yêu cầu về bồi thường thiệt hại thì cơ quan ra bản án, quyết định bị huỷ, sửa giải quyết theo quy định của pháp luật.
7.4. Thi hành quyết định về phá sản
a) Tạm đình chỉ, đình chỉ và khôi phục thi hành án đối với người phải thi hành án là doanh nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào tình trạng phá sản
Sau khi nhận được văn bản của Toà án thông báo về việc thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định tạm đình chỉ đối với các trường hợp thi hành về tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã là người phải thi hành án. Sau khi ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự thông báo cho Toà án đang giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản về kết quả thi hành án đối với doanh nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào tình trạng phá sản.
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định đình chỉ việc thi hành án về tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã là người phải thi hành án lâm vào tình trạng phá sản ngay sau khi nhận được quyết định của Tòa án về việc mở thủ tục phá sản. Việc tiếp tục thi hành nghĩa vụ về tài sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là người phải thi hành án trong trường hợp này thực hiện theo quy định của Luật phá sản. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm chỉ đạo Chấp hành viên bàn giao cho Tổ quản lý, thanh lý tài sản các tài liệu thi hành án có liên quan đến việc tiếp tục thi hành nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào tình trạng phá sản.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản hoặc đình chỉ thủ tục phục hồi kinh doanh, Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản phải gửi quyết định đó kèm theo toàn bộ hồ sơ liên quan đến việc thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định đình chỉ việc thi hành án về tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã là người phải thi hành án lâm vào tình trạng phá sản.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản hoặc đình chỉ thủ tục phục hồi kinh doanh, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thu hồi quyết định đình chỉ thi hành án và tiếp tục thi hành án đối với phần nghĩa vụ về tài sản còn phải thi hành đã đình chỉ đối với doanh nghiệp, hợp tác xã và phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành vụ việc theo quy định của Luật này.
b) Thi hành các quyết định của Toà án trong quá trình mở thủ tục phá sản
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự không ra quyết định thi hành án đối với các quyết định của Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản, kể cả quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, trừ trường hợp thi hành nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phát sinh sau khi có quyết định tuyên bố phá sản.
Chấp hành viên và Tổ quản lý, thanh lý tài sản căn cứ các quyết định của Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản để tổ chức thi hành.
Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản phải lập hồ sơ thi hành án phá sản.
c) Thi hành nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phát sinh sau khi có quyết định tuyên bố phá sản
Trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã chưa thanh toán nợ phát sinh sau khi có quyết định tuyên bố phá sản thì chủ nợ chưa được thanh toán nợ có quyền gửi đơn yêu cầu Toà án giải quyết. Khi có quyết định giải quyết của Toà án, đương sự có quyền gửi đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án và tổ chức thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
5. Khiếu nại và tố cáo về thi hành án dân sự
5.1. Luật thi hành án dân sự quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự, trong đó có nhiều điểm đổi mới.
a)Thời hiệu khiếu nại về thi hành án được phân chia cụ thể hơn, với những giải đoạn của quá trình thi hành án như sau:
– Đối với quyết định, hành vi về thi hành án trước khi áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế là 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành vi đó.
– Đối với quyết định về áp dụng biện pháp phong toả tài khoản là 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định.
Đối với quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp bảo đảm khác là 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành vi đó;
– Đối với quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp cưỡng chế là 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành vi đó.
– Đối với quyết định, hành vi sau khi áp dụng biện pháp cưỡng chế là 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành vi đó.
Trường hợp do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hạn khiếu nại.
Lần khiếu nại tiếp theo, thời hiệu là 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền.
b)Thời hạn giải quyết khiếu nại theo từng loại hành vi khác nhau, như sau:
– Đối với quyết định, hành vi về thi hành án trước khi áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế, thì thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là 15 ngày, lần hai là 30 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn khiếu nại.
– Đối với quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp phong toả tài khoản thì thời hạn giải quyết khiếu nại là 05 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý đơn khiếu nại.
– Đối với quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp cưỡng chế là 30 ngày thì thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là 30 ngày, lần hai là 45 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn khiếu nại.
Trường hợp cần thiết, đối với những vụ việc có tính chất phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại.
– Đối với quyết định, hành vi sau khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thì thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là 15 ngày, lần hai là 30 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn khiếu nại.
5.2. Tố cáo và giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự
a)Công dân có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên và công chức khác làm công tác thi hành án dân sự gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
b) Người tố cáo có các quyền gửi đơn hoặc trực tiếp tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền; yêu cầu giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích của mình; yêu cầu được thông báo kết quả giải quyết tố cáo; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền bảo vệ khi bị đe doạ, trù dập, trả thù.
Người tố cáo có các nghĩa vụ trình bày trung thực, cung cấp tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo; nêu rõ họ, tên, địa chỉ của mình; chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc tố cáo sai sự thật.
c) Người bị tố cáo có các quyền được thông báo về nội dung tố cáo; đưa ra bằng chứng để chứng minh nội dung tố cáo là không đúng sự thật; được khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; được phục hồi danh dự, được bồi thường thiệt hại do việc tố cáo không đúng gây ra và yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người tố cáo sai sự thật.
Người bị tố cáo có các nghĩa vụ giải trình về hành vi bị tố cáo; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền yêu cầu; chấp hành nghiêm chỉnh quyết định xử lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền; bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi trái pháp luật của mình gây ra theo quy định của pháp luật.
d) Thẩm quyền, thời hạn và thủ tục giải quyết tố cáo như sau: Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật mà người bị tố cáo thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức nào thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết. Trường hợp người bị tố cáo là Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp trên trực tiếp hoặc Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp có trách nhiệm giải quyết. Trường hợp người bị tố cáo là Thủ trưởng cơ quan thi hành án cấp quân khu thì Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng có trách nhiệm giải quyết.
Thời hạn giải quyết tố cáo là 60 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết tố cáo có thể dài hơn, nhưng không quá 90 ngày.
Tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm được giải quyết theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Thủ tục giải quyết tố cáo được thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
d)Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật; xử lý nghiêm minh người vi phạm; áp dụng biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra; bảo đảm cho quyết định giải quyết được thi hành nghiêm chỉnh và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
Người có thẩm quyền giải quyết tố cáo mà không giải quyết, thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết, giải quyết trái pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật. Viện kiểm sát có quyền yêu cầu, kiến nghị đối với cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và cấp dưới, cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm để bảo đảm việc giải quyết khiếu nại, tố cáo có căn cứ, đúng pháp luật.
6. Kháng nghị và giải quyết kháng nghị về thi hành án dân sự
6.1. Quyền kháng nghị của Viện kiểm sát
Viện kiểm sát kháng nghị đối với quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và cấp dưới theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hoặc phát hiện hành vi vi phạm.
6.2. Trả lời kháng nghị của Viện kiểm sát
a) Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm trả lời kháng nghị của Viện kiểm sát đối với quyết định về thi hành án của mình hoặc của Chấp hành viên thuộc quyền quản lý trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được kháng nghị. Trường hợp chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày có văn bản trả lời kháng nghị, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải thực hiện kháng nghị của Viện kiểm sát.
b) Trường hợp Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự không nhất trí với kháng nghị của Viện kiểm sát thì giải quyết như sau:
– Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện nơi có quyết định, hành vi bị kháng nghị phải báo cáo với Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh và Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh phải xem xét, trả lời trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo. Văn bản trả lời của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh có hiệu lực thi hành.
– Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh có quyết định, hành vi bị kháng nghị phải báo cáo với Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp và Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp xem xét và trả lời trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo. Văn bản trả lời của Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp có hiệu lực thi hành.
– Thủ trưởng cơ quan thi hành án cấp quân khu có quyết định, hành vi bị kháng nghị phải báo cáo với Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng và Viện kiểm sát quân sự trung ương. Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng phải xem xét và trả lời trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo. Văn bản trả lời của Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng có hiệu lực thi hành.
c)Trường hợp xét thấy văn bản trả lời kháng nghị không có căn cứ thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao yêu cầu Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét lại văn bản trả lời đã có hiệu lực thi hành của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng xem xét lại văn bản trả lời đã có hiệu lực thi hành của Thủ trưởng cơ quan thi hành án cấp quân khu, Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng.
7. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước về thi hành án dân sự
Theo các điều 166, 167 và Điều 168 Luật thi hành án dân sự, thì các cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về thi hành án dân sự có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
7.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong thi hành án dân sự
Luật thi hành án dân sự năm 2008 tiếp tục quy định “Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về thi hành án dân sự trong phạm vi cả nước” như Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004. Tuy nhiên, Luật thi hành án dân sự năm 2008 quy định cụ thể thêm ba nhiệm vụ, quyền hạn nữa của Chính phủ trong công tác thi hành án dân sự, đó là: Chỉ đạo các cơ quan của Chính phủ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong thi hành án dân sự; phối hợp với Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong thi hành án dân sự và định kỳ hàng năm báo cáo Quốc hội về công tác thi hành án dân sự.
7.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp trong thi hành án dân sự
Với tư cách là cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp có 11 loại nhiệm vụ, quyền hạn trong thi hành án dân sự:
a) Ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về thi hành án dân sự.
b) Xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, kế hoạch về thi hành án dân sự.
c) Phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành án dân sự.
d) Quản lý hệ thống tổ chức, biên chế và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự; quyết định thành lập, giải thể các cơ quan thi hành án dân sự; đào tạo, bổ nhiệm, miễn nhiệm Chấp hành viên, Thẩm tra viên.
đ) Hướng dẫn, chỉ đạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho Chấp hành viên, Thẩm tra viên và công chức khác làm công tác thi hành án dân sự.
e) Kiểm tra, thanh tra, khen thưởng, xử lý vi phạm trong công tác thi hành án dân sự; giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự.
g) Quyết định kế hoạch phân bổ kinh phí, bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự.
h) Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
i) Tổng kết công tác thi hành án dân sự.
k) Ban hành và thực hiện chế độ thống kê về thi hành án dân sự.
l) Báo cáo Chính phủ về công tác thi hành án dân sự.
Trong số những nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp nêu trên, có những nhiệm vụ, quyền hạn đã được quy định tại Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, tuy nhiên, một số nhiệm vụ, quyền hạn được bổ sung, như: Xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, kế hoạch về thi hành án dân sự; phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành án dân sự; quyết định kế hoạch phân bổ kinh phí; đào tạo, bổ nhiệm, miễn nhiệm Thẩm tra viên; tổng kết công tác thi hành án dân sự.
Luật thi hành án dân sự cũng quy định cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự và thực hiện quản lý chuyên ngành về thi hành án dân sự theo quy định của Chính phủ. Đây là điểm có nhiều đổi mới, xác định trách nhiệm của cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp vừa giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp, vừa thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quản lý chuyên ngành về thi hành án dân sự. Cơ quan quản lý thuộc Bộ Tư pháp theo quy định tại Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 của Chính phủ có tên gọi là Cục Thi hành án dân sự; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Thi hành án dân sự do Thủ tướng Chính phủ quy định. Theo Luật thi hành án dân sự thì đây là lần đầu tiên quy định rõ cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp thực hiện quản lý chuyên ngành về thi hành án dân sự.
7. 3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Quốc phòng trong thi hành án dân sự
Luật thi hành án dân sự quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Quốc phòng trong thi hành án dân sự với hai phương diện:
a) Phối hợp với Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về thi hành án dân sự trong quân đội trong việc ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về thi hành án dân sựtrong quân đội; bổ nhiệm, miễn nhiệm Chấp hành viên; đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ thi hành án dân sự cho Chấp hành viên, Thẩm tra viên và nhân viên làm công tác thi hành án dân sự trong quân đội và tổng kết, báo cáo Chính phủ về công tác thi hành án dân sự.
b) Bộ Quốc phòng trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
– Hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ thi hành án cho cơ quan thi hành án cấp quân khu; phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành án dân sự trong quân đội.
– Quản lý hệ thống tổ chức, biên chế; quyết định thành lập, giải thể các cơ quan thi hành án trong quân đội; bổ nhiệm, miễn nhiệm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án cấp quân khu; khen thưởng, kỷ luật đối với quân nhân làm công tác thi hành án trong quân đội.
– Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm về thi hành án trong quân đội.
– Quản lý, lập kế hoạch phân bổ kinh phí, bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động thi hành án trong quân đội.
Cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định nêu trên theo quy định của Chính phủ.
Luật thi hành án dân sự cũng quy định Tư lệnh quân khu và tương đương trong quân đội có nhiệm vụ, quyền hạn:
+ Chỉ đạo việc tổ chức phối hợp với các cơ quan có liên quan trong việc thi hành các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn quân khu và tương đương theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan thi hành án cấp quân khu.
+ Yêu cầu cơ quan thi hành án cấp quân khu báo cáo công tác, kiểm tra, thanh tra công tác thi hành án trên địa bàn quân khu và tương đương.
+ Có ý kiến bằng văn bản về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án cấp quân khu.
+ Quyết định khen thưởng hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền khen thưởng tập thể, cá nhân có thành tích trong công tác thi hành án dân sự.
7.4. Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Công an trong thi hành án dân sự
Bộ Công an không phải là cơ quan quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, nhưng có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm việc thi hành án dân sự đạt hiệu quả. Các đơn vị thuộc Bộ Công an, như: Cục Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp, Cục quản lý trại giam và trường giáo dưỡng v.v. và Công an các địa phương đã thường xuyên tham gia phối hợp trong công tác thi hành án dân sự. Ở nhiều địa phương, khi cơ quan thi hành án dân sự có yêu cầu tham gia bảo vệ cưỡng chế thi hành án hoặc xác minh nhân thân của người phải thi hành án, thì trước khi tham gia bảo vệ, lãnh đạo cơ quan Công an đã cử lực lượng tiến hành khảo sát địa bàn cưỡng chế, lập kế hoạch bảo vệ cưỡng chế phù hợp với đặc điểm, tình hình, từng đối tượng và từng vụ việc cụ thể. Vì thế, các cơ quan thi hành án dân sự đã tổ chức cưỡng chế thi hành án thành công nhiều vụ việc, ngăn chặn và làm hạn chế hành vi chống đối của đương sự đối với người thi hành công vụ, bảo vệ an toàn tính mạng của những người tham gia cưỡng chế và các tài sản có liên quan đến việc thi hành án.
Chỉ thị số 21/2008/CT-TTg ngày 01/7/2008 của Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Công an thực hiện một số biện pháp để tăng cường sự phối hợp của cơ quan Công an trong thi hành án dân sự.
Luật thi hành án dân sự năm 2008 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Công an trong thi hành án dân sự với hai loại việc phối hợp và ba loại việc chỉ đạo:
a) Phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật về thi hành án dân sự.
b) Phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc tổng kết công tác thi hành án dân sự.
c) Chỉ đạo cơ quan Công an bảo vệ cưỡng chế thi hành án,phối hợp bảo vệ kho vật chứng của cơ quan thi hành án dân sự trong trường hợp cần thiết.
d) Chỉ đạo trại giam, trại tạm giam nơi người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù thu các khoản tiền, tài sản mà người phải thi hành án, thân nhân của người phải thi hành án nộp để thi hành án.
e) Chỉ đạo cơ quan Công an có thẩm quyền phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự đề nghị Toà án xét, quyết định miễn, giảm hình phạt cho những người phải thi hành án có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.
7.5. Nhiệm vụ, quyền hạn của Toà án nhân dân tối cao trong thi hành án dân sự
Toà án nhân dân tối cao phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật về thi hành án dân sự. Chỉ đạo Toà án các cấp phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong công tác thi hành án dân sự, giải quyết các yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự trong thời hạn quy định của pháp luật và phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc tổng kết công tác thi hành án dân sự.
7.6. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong thi hành án dân sự
Theo khoản 2 Điều 12 Luật thi hành án dân sự năm 2008 thì Viện kiểm sát các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình kiểm sát việc tuân theo pháp luật về thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan đến việc thi hành án nhằm bảo đảm việc thi hành án kịp thời, đầy đủ, đúng pháp luật. Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Viện kiểm sát trong thi hành án dân sự được quy định như sau:
a) Đối với Viện kiểm sát nhân dân tối cao
– Phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật về thi hành án dân sự. Kiểm sát và chỉ đạo Viện kiểm sát các cấp thực hiện việc kiểm sát thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật. Phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc tổng kết công tác thi hành án dân sự (Điều 171).
– Trường hợp xét thấy văn bản trả lời kháng nghị của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự không có căn cứ thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao yêu cầu Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét lại văn bản trả lời đã có hiệu lực thi hành của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng xem xét lại văn bản trả lời đã có hiệu lực thi hành của Thủ trưởng cơ quan thi hành án cấp quân khu, Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng (khoản 3 Điều 160).
b)Đối với Viện kiểm sát các cấp
– Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự. Viện kiểm sát có quyền yêu cầu, kiến nghị đối với cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và cấp dưới, cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm để bảo đảm việc giải quyết khiếu nại, tố cáo có căn cứ, đúng pháp luật (Điều 159).
– Kháng nghị đối với quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và cấp dưới theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hoặc phát hiện hành vi vi phạm (Điều 160).
7.7. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức được giao theo dõi, quản lý người đang chấp hành án hình sự
Cơ quan, tổ chức được giao theo dõi, quản lý người đang chấp hành án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự về các việc sau đây:
a) Giáo dục người đang chấp hành án hình sự thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định của Toà án.
b) Cung cấpcho cơ quan thi hành án dân sự thông tin liên quan về người phải thi hành nghĩa vụ về dân sự đang chấp hành án hình sự; thực hiện việc thông báo giấy tờ về thi hành án dân sự cho người phải thi hành án đang chấp hành án hình sự.
c) Phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự thu tiền thi hành án theo quy định của Luật này.
d) Kịp thời thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự về nơi cư trú của người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt tù, được đặc xá, được miễn chấp hành hình phạt tù.
7.8. Nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân các cấp
Uỷ ban nhân dân là một bộ phận cấu thành chính quyền địa phương. Trong công tác thi hành án dân sự, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã có nhiều nhiệm vụ, quyền hạn. Tuy nhiên, theo quy định của Luật thi hành án dân sự, đối với mỗi cấp Uỷ ban nhân dân thì nhiệm vụ, quyền hạn trong công tác thi hành án dân sự có sự khác nhau, cụ thể là:
a) Ủy ban nhân dân cấp tỉnhchỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan có liên quan trong thi hành án dân sự trên địa bàn. Chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng về an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh. Có ý kiến bằng văn bản về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh. Quyết định khen thưởng hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền khen thưởng tập thể, cá nhân có thành tích trong công tác thi hành án dân sự. Yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh báo cáo công tác thi hành án dân sự ở địa phương. Yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh kiểm tra công tác thi hành án ở địa phương.
b) Ủy ban nhân dân cấp huyện chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan có liên quan trong thi hành án dân sự trên địa bàn. Chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng về an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện. Có ý kiến bằng văn bản về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện. Yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện tự kiểm tra, đề nghị Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh kiểm tra công tác thi hành án dân sự ở địa phương. Quyết định khen thưởng hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền khen thưởng tập thể, cá nhân có thành tích trong công tác thi hành án dân sự. Yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự báo cáo công tác thi hành án dân sự ở địa phương.
c) Ủy ban nhân dân cấp xã trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phối hợp với Chấp hành viên và cơ quan thi hành án dân sự trong việc thông báo thi hành án, xác minh điều kiện thi hành án, áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án và các nhiệm vụ khác về thi hành án dân sự trên địa bàn.
7.9. Trách nhiệm của cơ quan ra bản án, quyết định trong thi hành án
Cơ quan ra bản án, quyết định được thi hành theo quy định của Luật thi hành án dân sự bao gồm ba loại: Toà án, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Trọng tài thương mại. Để nâng cao trách nhiệm của cơ quan đã ra bản án, quyết định và bảo đảm khả năng thực tế thi hành các bản án, quyết định đó, Điều 179 Luật thi hành án dân sự quy định cơ quan ra bản án, quyết định trong thi hành án có trách nhiệm:
a) Bảo đảm bản án, quyết định đã tuyên chính xác, rõ ràng, cụ thể, phù hợp với thực tế.
b) Có văn bản giải thích những nội dung mà bản án, quyết định tuyên chưa rõ trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của đương sự hoặc của cơ quan thi hành án dân sự. Trường hợp vụ việc phức tạp thì thời hạn trả lời không quá 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
c) Trả lời kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sựvề việc xem xét lại bản án, quyết định của Toà án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị.
d) Thụ lý và kịp thời giải quyết yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự, đương sự về việc xác định quyền sở hữu, phân chia tài sản hoặc giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản thuộc thẩm quyền của Toà án phát sinh trong quá trình thi hành án.
7.10. Trách nhiệm của Bảo hiểm xã hội, Kho bạc nhà nước, ngân hàng và tổ chức tín dụng khác trong thi hành án dân sự
Thực tiễn thi hành án dân sự thời gian qua cho thấy cơ quan thi hành án dân sự gặp vướng mắc khó khăn trong một số trường hợp khi tổ chức thi hành án không có sự phối hợp của ngân hàng, tổ chức tín dụng khác… Việc thực hiện Điều 40 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 khó khăn vì theo quy định của Bảo hiểm xã hội năm 2006 thì tiền lương hưu, trợ cấp phải được chi trả trực tiếp cho người được hưởng, do đó một số cơ quan Bảo hiểm xã hội căn cứ Công văn 3077/BHXH/QLC ngày 28/11/2002 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam không thực hiện việc chuyển tiền lương hưu, trợ cấp cho cơ quan thi hành án dân sự để thực hiện quyết định cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án. Vì vậy, nếu người phải thi hành án không chấp nhận nộp tiền thì cơ quan thi hành án dân sự không thực hiện được biện pháp cưỡng chế khấu trừ lương, trợ cấp hưu trí của họ.
Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam tại Chỉ thị số 21/2008/CT-TTg ngày 01/7/2008 trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chỉ đạo các ngân hàng, bảo hiểm xã hội và các tổ chức tín dụng khác tăng cường công tác phối hợp thi hành án; thực hiện quyết định của cơ quan thi hành án về cưỡng chế trừ vào thu nhập, khấu trừ tài khoản, trừ vào tiền, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án theo quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004. Chính phủ đã đề xuất và được Quốc hội thông qua Luật thi hành án dân sự quy định cụ thể trách nhiệm của Bảo hiểm xã hội, Kho bạc nhà nước, ngân hàng và tổ chức tín dụng khác trong thi hành án dân sự.
a)Trách nhiệm của Bảo hiểm xã hội trong thi hành án dân sự:
– Cung cấp đúng, đầy đủ, kịp thời thông tin, số liệu về các khoản thu nhập của người phải thi hành án đang được chi trả qua Bảo hiểm xã hội theo yêu cầu của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự.
– Thực hiện nghiêm chỉnh, kịp thời yêu cầu của Chấp hành viên về khấu trừ thu nhập của người phải thi hành án để thi hành án.
– Thực hiện đầy đủ yêu cầu khác của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự theo quy định của Luật thi hành án dân sự.
b) Trách nhiệm của Kho bạc nhà nước, ngân hàng và tổ chức tín dụng khác trong thi hành án dân sự:
– Cung cấp đúng, đầy đủ, kịp thời thông tin, số liệu về tài khoản của người phải thi hành án theo yêu cầu của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự.
– Thực hiện nghiêm chỉnh, kịp thời yêu cầu của Chấp hành viên về phong tỏa tài khoản, phong toả tài sản; khấu trừ tiền trong tài khoản; giải toả việc phong toả tài khoản, phong toả tài sản của người phải thi hành án.
– Thực hiện đầy đủ yêu cầu khác của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự theo quy định của Luật thi hành án dân sự.
7.11. Trách nhiệm của cơ quan đăng ký tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm trong thi hành án dân sự
Cơ quan đăng ký tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm có trách nhiệm:
a) Tạm dừng hoặc dừng việc thực hiện các yêu cầu liên quan đến các giao dịch đối với tài sản của người phải thi hành án đăng ký tại cơ quan đăng ký tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm ngay sau khi nhận được yêu cầu của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự.
b) Thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất cho người mua được tài sản, người được thi hành án nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án.
c) Thu hồi, sửa đổi, hủy các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đất, giấy tờ đăng ký giao dịch bảo đảm đã cấp cho người phải thi hành án; thực hiện việc cấp mới các giấy tờ theo quy định của pháp luật.
Với việc quy định khá cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức hữu quan trong thi hành án dân sự, Luật thi hành án dân sự đã khắc phục nhiều hạn chế về thể chế đối với vấn đề này. Việc nghiên cứu kỹ, nghiêm túc triển khai, thực hiện đúng những quy định đó chắc chắn sẽ góp phần làm cho công tác thi hành án dân sự đạt hiệu quả, bảo đảm hiệu lực thi hành các phán quyết của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Trọng tài thương mại và Tòa án.
8. Giám sát việc thi hành án
Quốc hội, Hội đồng nhân dân và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự và các cơ quan nhà nướckhác trong thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật.
9. Xử lý vi phạm
9.1. Hành vi vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự
a) Đã nhận giấy báo, giấy triệu tập lần thứ hai nhưng không có mặt để thực hiện việc thi hành án mà không có lý do chính đáng.
b) Cố tình không thực hiện quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án hoặc bản án, quyết định phải thi hành ngay.
c) Không thực hiện công việc phải làm hoặc không chấm dứt thực hiện công việc không được làm theo bản án, quyết định.
d) Có điều kiện thi hành án nhưng cố tình trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án.
đ) Tẩu tán hoặc làm hư hỏng tài sản để không thực hiện nghĩa vụ thi hành án hoặc để trốn tránh việc kê biên tài sản.
e) Không thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên về việc cung cấp thông tin, giao giấy tờ liên quan đến tài sản bị xử lý để thi hành án mà không có lý do chính đáng.
g) Sử dụng trái phép, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc thay đổi tình trạng tài sản đã kê biên nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
h) Chống đối, cản trở hay xúi giục người khác chống đối, cản trở; có lời nói, hành động lăng mạ, xúc phạm người thi hành công vụ trong thi hành án; gây rối trật tự nơi thi hành án hoặc có hành vi vi phạm khác gây trở ngại cho hoạt động thi hành án dân sự nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
i) Phá hủy niêm phong hoặc hủy hoại tài sản đã kê biên nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
k) Không chấp hành quyết định của Chấp hành viên về việc khấu trừ tài khoản, trừ vào thu nhập, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án.
9.2. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
Những người sau đây có quyền xử phạt vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự:
a) Chấp hành viên đang giải quyết việc thi hành án.
b) Tổ trưởng tổ quản lý, thanh lý tài sản của vụ án phá sản.
c) Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện.
d) Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, Thủ trưởng cơ quan thi hành án cấp quân khu.
Mức xử phạt vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
9.3. Xử phạt vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo về xử phạt vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự
Nguyên tắc xử phạt, thời hiệu xử phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và trình tự, thủ tục xử phạt cụ thể thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong xử phạt vi phạm hành chính về thi hành án dân sự thực hiện theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
9.4. Xử lý vi phạm
a) Người phải thi hành án cố ý không chấp hành bản án, quyết định; không tự nguyện thi hành các quyết định về thi hành án thì tùy theo tính chất và mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
b) Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện các quyết định về thi hành án thì tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường; nếu là cá nhân thì còn có thể bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
c) Người lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý cản trở việc thi hành án hoặc ép buộc Chấp hành viên thi hành án trái pháp luật; phá huỷ niêm phong, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu, huỷ hoại vật chứng, tài sản tạm giữ, tài sản bị kê biên thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
d) Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cố ý không ra quyết định thi hành án hoặc ra quyết định về thi hành án trái pháp luật; Chấp hành viên không thi hành đúng bản án, quyết định, trì hoãn việc thi hành án, áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án trái pháp luật; vi phạm quy chế đạo đức của Chấp hành viên thì bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
10. Tương trợ tư pháp về dân sự trong thi hành án
Việc yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp về dân sự trong thi hành án, việc tiếp nhận và xử lý uỷ thác tư pháp về thi hành án của nước ngoài trong quá trình thi hành án được thực hiện theo quy định của pháp luật về tương trợ tư pháp.
Cơ quan thi hành án dân sự có yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp về dân sự trong thi hành án phải lập hồ sơ uỷ thác tư pháp theo quy định của pháp luật về tương trợ tư pháp.
Phần thứ ba
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGHỊ QUYẾT VỀ VIỆC THI HÀNH LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Cùng với việc thông qua Luật thi hành án dân sự, Quốc hội Khoá XII kỳ họp thứ tư đã thông qua Nghị quyết về việc thi hành Luật thi hành án dân sự. Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 14/11/2008 về việc thi hành Luật thi hành án dân sự là văn bản pháp lý có ý nghĩa quan trọng nhằm triển khai có hiệu quả Luật thi hành án dân sự, đồng thời tạo cơ sở để Chính phủ quy định, tổ chức thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại một số địa phương và một số nội dung chuyển tiếp cần thiết, liên quan đến hiệu lực và hiệu quả thi hành Luật thi hành án dân sự trong thực tiễn.
Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 14/11/2008 về việc thi hành Luật thi hành án dân sự có những nội dung cơ bản sau đây:
1. Tạo cơ sở pháp lý để triển khai chủ trương xã hội hoá một số công việc có liên quan đến thi hành án dân sự.
Giao Chính phủ quy định và tổ chức thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên) tại một số địa phương. Việc thí điểm được thực hiện từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành đến ngày 01/7/2012. Trên cơ sở kết quả thí điểm, Chính phủ tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện thí điểm và báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định.
2. Quy định về việc miễn thi hành án theo thủ tục rút gọn đối với khoản nghĩa vụ không quá 500.000 đồng.
Quy định về việc miễn thi hành đối với các khoản thu cho ngân sách nhà nước có giá trị không quá 500.000 đồng (năm trăm ngàn đồng), mà thời gian tổ chức thi hành án đã quá 5 năm, tính đến thời điểm Luật này có hiệu lực thi hành nhưng người phải thi hành án không có điều kiện thi hành án.
3. Quy định trách nhiệm của Chính phủ trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận tuyên truyền, phổ biến rộng rãi Luật thi hành án dân sự trong cán bộ, công chức và nhân dân nhằm góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phát huy tác dụng của Luật thi hành án dân sự trong việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, của cơ quan, tổ chức.
Việc lần đầu tiên Quốc hội ban hành Luật thi hành án dân sự là một sự kiện quan trọng, có ý nghĩa sâu sắc, lâu dài cho công tác thi hành án dân sự của một đất nước vẫn tồn tại nhiều bất cập, yếu kém; tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc tạo những chuyển biến cơ bản trong hoạt động này trong thời gian tới. Trước mắt sẽ cơ bản khắc phục được tình trạng tồn động án kéo dài. Về lâu dài sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án, kỷ cương phép nước và tính nghiêm minh của pháp luật, đặc biệt là sẽ bảo vệ tốt hơn quyền của người được thi hành án, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà nước theo bản án, quyết định của Toà án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài thương mại.
II. PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Nghiên cứu pháp luật thi hành án ở một số nước trên thế giới, có thể khái quát một số vấn đề cơ bản sau đây:
1. Tổ chức bộ máy thi hành án:
Pháp luật THADS các nước quy định về mô hình tổ chức bộ máy, hệ thống CQTHADS không hoàn toàn giống nhau. Tuỳ theo đặc điểm truyền thống, môi trường pháp lý, điều kiện kinh tế – xã hội ở từng nước, mà tổ chức THADS có thể được thể hiện dưới hình thức là một tổ chức công, bán công hoặc do tư nhân đảm nhiệm.
– Tổ chức THA công: Các nước có tổ chức THADS công tiêu biểu là Hoa Kỳ, Thụy Điển, Trung Quốc, Nga, Việt Nam, Singapore,…Đặc điểm chung nổi bật nhất của mô hình THA công là tổ chức THA bao gồm hệ thống các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, các chấp hành viên là công chức, viên chức hưởng lương từ Ngân sách nhà nước. Trong tổ chức THA công có thể phân làm hai loại: cơ quan thi hành nằm trong cơ cấu tổ chức của TA và các CQTHA thuộc cơ quan hành chính tư pháp hoặc cơ quan thuế.
+ CQTHA nằm trong TA: điển hình là Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu trước đây, Trung Quốc, Việt Nam thời kỳ trước tháng 7 năm 1993, Singapore, theo đó tổ chức THA là một bộ phận nằm trong cơ cấu tổ chức của TA – CHV là công chức đặt tại TA do Chánh án hoặc Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm. Toàn bộ hoạt động THA đặt dưới sự giám sát, chỉ đạo của chánh án TA địa phương hoặc Thẩm phán THA. Mặc dù vậy, hoạt động THA được tiến hành theo một thủ tục chặt chẽ và chỉ do CHV tiến hành theo quy định của pháp luật.
+ CQTHA thuộc cơ quan hành chính hoặc cơ quan thuế: điển hình là Thụy Điển, Việt Nam (từ tháng 7/1993 đến nay), Thái Lan…các CQTHA thuộc loại này được phân thành hai dạng mô hình:
Một là, mô hình tổ chức THADS công, độc lập, tạo thành một hệ thống từ trung ương đến địa phương thuộc thẩm quyền quản lý của các cơ quan quản lý hành chính tư pháp như Việt Nam, Thái Lan… Đối với những nước tổ chức theo hình thức nhà nước liên bang như Hoa Kỳ thì tổ chức thi hành cũng có những nét đặc thù. Ở đây, hệ thống THA gồm các CQTHA bang và liên bang có nhiệm vụ thi hành cả án dân sự và hình sự. CQTHA bang có nhiệm vụ thi hành các BA,QĐ của TA bang xét xử, thực hiện các quyết định của thẩm phán TA bang. CQTHA liên bang có nhiệm vụ thi hành các BA,QĐ của TA liên bang, thực hiện các quyết định của thẩm phán TA liên bang. CQTHA bang và liên bang có nhiệm vụ, quyền hạn độc lập, được trang bị đầy đủ vũ khí, phương tiện như lực lượng cảnh sát (khi cần thiết có thể sử dụng các phương tiện hiện đại kể cả máy bay, tàu thuỷ dùng để chuyên chở phạm nhân). Các CQTHA đều do Bộ Tư pháp của bang và liên bang quản lý, trong Bộ Tư pháp có Cục THA, Cục quản lý các nhà tù.
Hai là, mô hình tổ chức THADS công, độc lập, tạo thành một hệ thống từ trung ương đến khu vực đặt dưới sự quản lý của Hội đồng thuế quốc gia. Ví dụ: Hệ thống CQTHA Thụy Điển, ở cấp trung ương có CQTHA trực thuộc Bộ Tài chính, ở địa phương tương đương với 10 khu vực hành chính, có 10 CQTHA khu vực. Trong mỗi CQTHA có giám đốc, CHV, nhân viên thanh tra và nhân viên hành chính. Theo pháp luật Thụy Điển, Giám đốc CQTHA 10 khu vực là người phải có quốc tịch Thụy Điển, có trình độ Đại học Luật, có năng lực quản lý và điều hành tốt do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm. CHV là những người đã tốt nghiệp đại học luật, đã làm việc ở Tòa án cấp sơ thẩm từ hai năm trở lên và có nguyện vọng làm CHV.
– Tổ chức THA bán công: Tổ chức THA bán công là tổ chức THA vừa do công chức thực hiện đối với một số việc THA nhất định như thu thuế, THA đối với bất động sản và quyền tài sản, tịch thu tài sản sung công quỹ, phạt tiền…, vừa do viên chức thừa hành đảm nhiệm phần lớn các công việc THADS trên nguyên tắc tự lấy thu bù đắp chi phí THA. Tương tự như tổ chức THA công, tổ chức THA bán công cũng có thể nằm trong cơ cấu tổ chức của TA hoặc thuộc các cơ quan hành chính. Điển hình cho mô hình THA bán công là Nhật Bản, Đức, Hà Lan, Áo, Thuỵ Sỹ …
– Tổ chức THA tư nhân: Là mô hình tổ chức chủ yếu theo quy chế thừa phát lại. Thừa phát lại do Nhà nước bổ nhiệm, là người hành nghề theo quy chế tự do, Nhà nước không trả lương mà hưởng thù lao do luật định. Thừa phát lại vừa thực hiện chức năng công quyền theo luật định (chức năng độc quyền), vừa thực hiện chức năng không độc quyền (lập các văn bản, thu hồi nợ, làm đại diện…) và chức năng trợ giúp khác cho người được THA. Các nước có tổ chức THA tư nhân như: Pháp, Bỉ, Hà Lan, Hungary…
Nhìn chung mỗi mô hình tổ chức THADS trên đây (công, bán công, tư nhân) đều có mặt tích cực và mặt hạn chế nhất định, ví dụ: mô hình tổ chức THA công, một mặt tạo ra sự tin tưởng đối với công chúng là người được THA cũng như người có quyền lợi ích liên quan và bảo đảm hiệu lực cưỡng chế THA bằng sức mạnh cưỡng chế trực tiếp của Nhà nước, song mặt khác lại rất tốn kém và dễ phát sinh tệ quan liêu, sách nhiễu, tiêu cực trong công tác THA. Còn đối với mô hình tổ chức THA tư nhân thì mức độ xã hội hoá hoạt động THADS rất cao, Ngân sách nhà nước đỡ tốn kém, nhưng các điều kiện pháp lý đảm bảo cho mô hình này hoạt động có hiệu quả đòi hỏi phải rất chặt chẽ, toàn diện về nhiều mặt, thích hợp với truyền thống, môi trường pháp lý và điều kiện kinh tế – xã hội của quốc gia áp dụng mô hình này. Trong khi đó, mô hình tổ chức THA bán công lại mang nhiều đặc điểm của cả hai mô hình THA công lẫn tư nhân.
Qua nghiên cứu, phân tích mô hình tổ chức THA của các nước và xét trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, chúng ta có thể áp dụng hình thức THA bán công, vì các lý do sau đây:
+ Có thể tiếp tục sử dụng trên cơ sở sắp xếp lại một cách hợp lý tổ chức THA công và chế độ công chức THA đang được thực hiện tại Việt Nam, đồng thời có thể triển khai thực hiện chủ trương xã hội hoá một số loại hình dịch vụ THADS thông thường như tống đạt giấy tờ, biên bản xác minh tài sản, địa chỉ của người phải THA…và được thu phí dịch vụ đối với người được THA.
+ Mô hình THA bán công sẽ giúp giảm nhẹ một cách đáng kể các chi phí bao cấp của Nhà nước đối với hoạt động THADS.
+ Tạo ra cơ chế hợp tác cùng có lợi giữa các đương sự và CQTHA trong hoạt động THA mở rộng quyền tự định đoạt của các đương sự, nhất là trong việc lựa chọn các phương thức THA.
+ Góp phần hạn chế, khắc phục tình trạng tồn đọng án kéo dài do tình trạng quá tải vì thiếu nhân lực, kinh phí, phương tiện hoạt động ở các CQTHA công.
2. Quy chế chấp hành viên
Qua nghiên cứu pháp luật THADS ở một số nước cho thấy nhìn chung có các loại hình CHV sau đây:
– CHV là công chức nhà nước, có trình độ cử nhân luật và được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm có thời hạn hoặc bổ nhiệm suốt đời, như ở Đức, Nhật Bản, Thụy Điển, Việt Nam, Trung Quốc…Ở Đức, CHV được bổ nhiệm suốt đời, hưởng lương tương đương Thẩm phán. Ở Thụy Điển, trước khi được bổ nhiệm theo chế độ thuê, mướn lao động, CHV phải thực hành tại CQTHA một năm và phải qua sát hạch thực hành về lý thuyết và thực tiễn. Ở Đức, Nhật Bản… CHV phải qua lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ bắt buộc.
– CHV là viên chức tư thừa hành chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật và quy chế hiệp hội CHV (thừa phát lại); hưởng thù lao theo biểu giá dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng và nộp thuế theo quy định của pháp luật, ví dụ: Pháp, Bỉ, Hà Lan..
– CHV là công chức thuộc biên chế của Tòa án và CHV tư nằm trong Tòa án như là một bộ phận độc lập, không thuộc biên chế Tòa án, họ thực hiện các công việc THA theo yêu cầu của khách hàng, hưởng thù lao theo kết quả dịch vụ cho khách hàng dựa theo quy định của pháp luật. Đặc biệt là CHV tư có thể thực hiện một số việc THA công và được hưởng tỷ lệ % số tiền thu được qua kết quả thực hiện dịch vụ (Đức, Nhật Bản).
– CHV, cán bộ, chuyên gia THA và nhân viên tạp vụ đều là công chức ngành thuế (Thụy Điển). Ở nước này, trừ chức danh giám đốc 10 CQTHA khu vực đều do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, còn cả 3 loại cán bộ THA trên đều làm việc theo hợp đồng thuê, mướn lao động, do Giám đốc CQTHA chủ động quyết định căn cứ vào 2 tiêu chí, một là, khối lượng công việc THA phải thực hiện; hai là, ngân sách do Cục quản lý THA thuộc Hội đồng thuế quốc gia phân bổ hàng năm.
– CHV hưởng quy chế như lực lượng vũ trang. Ví dụ như ở bang California, Hoa Kỳ, CHV CQTHA bang (Sheriff) là những người được tuyển lựa kỹ lưỡng, không có các vấn đề về lý lịch tư pháp, có sức khoẻ tốt, có trình độ học vấn tốt nghiệp trung học phổ thông, không giới hạn về độ tuổi, được đào tạo lần đầu là 28 tuần, sau đó hàng năm được tập huấn thường xuyên về những kiến thức pháp luật mới. Những người mới vào nghề phải làm việc ở các trại giam một thời gian, sau đó luân chuyển sang làm nhiệm vụ THADS. CHV được đào tạo, huấn luyện sử dụng vũ lực, được trang bị vũ khí, công cụ hiện đại để thi hành nhiệm vụ. Thủ trưởng CQTHA (Sheriff) cấp hạt đồng thời là cảnh sát trưởng do dân bầu cử, hoạt động độc lập.
Qua xem xét, đánh giá kinh nghiệm của các nước theo các loại hình CHV như vừa nêu trên, có thể thấy rằng giải pháp hợp lý ở nước ta là có thể vận dụng quy chế CHV của mô hình THA công theo hướng: vừa tách riêng chế độ CHV là công chức THA để thi hành các khoản tịch thu tài sản, truy thu thuế, truy thu lợi bất chính, phạt tiền, án phí, thực hiện các quyết định khẩn cấp tạm thời, bảo đảm thực hiện các biện pháp cưỡng chế khi cần thiết… đồng thời áp dụng chế độ THA bán công đối với một số loại việc như: tống đạt các văn bản, quyết định về THA; điều tra xác minh tài sản, địa chỉ của người phải THA; thi hành các khoản đòi nợ, phân chia tài sản… theo yêu cầu của các bên THA và được thu tiền dịch vụ theo quy định của pháp luật.
3. Về thẩm phán THADS
Pháp luật nhiều nước đều có chế định Thẩm phán THA. Thẩm phán THA không chỉ tồn tại trong THADS mà còn là thiết chế trong lĩnh vực THA hình sự ở nhiều nước; không chỉ tồn tại trong mô hình tổ chức THA thuộc TA, mà còn có cả trong tổ chức THA thuộc hệ thống cơ quan hành chính. Thẩm phán THA thường được đặt tại các TA sơ thẩm thẩm quyền rộng đượcChánh toà chỉ định và uỷ quyền phụ trách THA. Thẩm phán THA không tham gia vào quá trình xét xử của TA mà có trách nhiệm kiểm tra, giám sát tính hợp pháp, hợp lệ của quá trình THA; thẩm phán THA không được xem xét lại quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TA, không được làm gián đoạn việc thi hành quyết định đó. Thẩm phán THA có chức năng giám sát việc THA. Trong mọi trường hợp, thẩm phán theo dõi THADS không có quyền sửa đổi BA,QĐ chung thẩm hoặc có hiệu lực thi hành tạm thời, tuy nhiên, thẩm phán có quyền ấn định các thời hạn thanh toán hoặc huỷ bỏ mọi hành vi THA trái pháp luật. Trong quá trình THA, nếu có các tranh chấp phát sinh, thì thẩm phán THA có trách nhiệm giải quyết. Trong lĩnh vực THADS, thẩm phán THA là người có thẩm quyền ra các quyết định quan trọng trong quá trình THA như: quyết định cho phép áp dụng biện pháp sai áp tài sản, quyết định phá khoá, khám nhà, khám đồ vật, quyết định bắt giữ người có hành vi cản trở, chống đối việc THA, quyết định dẫn giải người phải THA khi đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng cố tình không có mặt..
Thực tiễn THA ở nước ta thời gian qua cho thấy có rất nhiều vướng mắc phát sinh trong quá trình THA cần có sự can thiệp trực tiếp, kịp thời của TA như vấn đề: giải thích bản án, xác định kỷ phần tài sản của người phải THA trong khối tài sản chung, xác định quyền sở hữu tài sản của người phải THA…Vì vậy, chế định thẩm phán THA của các nước là một kinh nghiệm tốt mà chúng ta có thể tham khảo, nhằm tháo gỡ một cách nhanh chóng, có hiệu quả và bằng thể thức hợp pháp đối với các vướng mắc phát sinh trong quá trình THA.
4. Cơ chế giải quyết khiếu nại, tranh chấp về thi hành án
Pháp luật nhiều nước quy định việc giải quyết khiếu nại, khiếu kiện phát sinh trong quá trình THA do Tòa THA giải quyết, CQTHA, CHV phải tuân thủ các phán quyết này, ngay cả các phán quyết về thủ tục THA (Pháp, Nhật Bản, Thụy Điển…). Ví dụ: Ở Pháp, nếu đương sự khiếu nại đến Tòa án về một biện pháp kê biên của Thừa phát lại, và phán quyết của thẩm phán THA cho rằng không cần thiết áp dụng biện pháp cưỡng chế trên thì thừa phát lại buộc phải hủy bỏ biện pháp kê biên đó. Hoặc ở Bang Caliphoócnia, pháp luật quy định tòa án sơ thẩm có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và quyết định biện pháp xử lý trong trường hợp CHV có sai phạm sau khi thi hành; Giải quyết khiếu nại trong việc phân chia tiền bán tài sản, phân chia tiền thu được của người phải THA; giải quyết khiếu nại của người thứ ba về lợi ích của tài sản đối với đối tượng phải THA; giải quyết khiếu nại về việc chiếm giữ tài sản của người không phải là con nợ; quyết định tạm dừng THA để kháng cáo hoặc trong trường hợp bảo lãnh…
Qua kinh nghiệm của các nước cho thấy cơ chế giải quyết khiếu nại bằng con đường TA cho phép đảm bảo một cách khách quan, chính xác, công bằng đối với quyền lợi của các bên; hạn chế được tình trạng quan liêu, phiến diện, bao che cho nhau giữa CQTHA cấp trên và cấp dưới… tạo được niềm tin của người dân đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật.
5. Cơ chế phản ánh thông tin về điều kiện thi hành án của đương sự
Pháp luật nhiều nước qui định nghĩa vụ của chủ nợ trong việc cung cấp các thông tin về điều kiện THA của người phải THA cũng như có quyền đưa ra đề nghị áp dụng biện pháp cưỡng chế THA cần thiết để CQTHA thực hiện. Ví dụ: ở Singapore, khi có bản án, người được THA phải đến gặp người phải THA để xem xét khả năng THA của họ và yêu cầu người đó phải thi hành; ngoài ra đương sự (hoặc người đại diện) phải trực tiếp chỉ cho nhân viên THA những đồ vật mà người phải THA phải trả cho người được THA hoặc nếu là thi hành bản án về trả tiền, thì chỉ cho nhân viên THA những tài sản của người phải THA để nhân viên kiểm kê, dán niêm phong hoặc chuyển giao tài sản đó cho người khác giữ. Tuy nhiên, ở các nước phát triển, việc quản lý thu nhập, tài sản của cá nhân, tổ chức nói chung và người phải THA nói riêng rất chặt chẽ, thể hiện điển hình ở hệ thống cơ quan đăng ký tài sản. Mọi người đều có quyền yêu cầu cơ quan này cung cấp các thông tin về tài sản, đặc biệt là các thông tin về bất động sản của một cá nhân hay một tổ chức nào đó và phải nộp một khoản lệ phí cho cơ quan này (Hoa Kỳ, Pháp, Nhật, Thuỵ Điển…). Ngoài ra, với sự phát triển của công nghệ thông tin, mạng máy tính cũng được kết nối giữa các CQTHA, giữa CQTHA và cơquan đăng ký tài sản… Do vậy, việc xác định điều kiện tài sản của người phải THA rất thuận tiện và chính xác.
Ở Cộng hòa liên bang Đức: tại các TA khu vực đều có lưu trữ các hồ sơ về đăng ký quyền sở hữu đối với bất động sản như đất đai, nhà cửa, công trình kiến trúc… Tại đây người ta có thể tìm hiểu được tình trạng pháp lý của một tài sản nhất định đang tồn tại (ai là chủ sở hữu? đã và đang thế chấp, chuyển nhượng, cho ai thuê?…). Ở Thụy Điển, CHV CQTHA khu vực Xtốckhôm có thể ngồi tại văn phòng của mình xác định tài sản của một con nợ ở tỉnh khác và thực hiện việc kê biên, cắt chuyển tài sản đó cho chủ nợ thông qua mạng máy tính.
Qua kinh nghiệm của các nước, để tạo điều kiện dễ dàng cho hoạt động THA, chúng ta cần chú trọng việc triển khai nhanh chóng, có hiệu quả hệ thống cơ quan đăng ký tài sản; cơ quan đăng ký quốc gia các giao dịch có bảo đảm; có cơ chế kiểm soát và giám sát hữu hiệu hoạt động của các loại hình doanh nghiệp thông qua hệ thống tài khoản ở Ngân hàng, tổ chức tín dụng… đồng thời cần triển khai mạnh mẽ việc ứng dụng công nghệ thông tin vào lĩnh vực này.
6. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thi hành án, chấp hành viên
Nhìn chung pháp luật các nước đều trao cho CHV những quyền hạn khá lớn để có thể thực thi nhiệm vụ. Ví dụ: ở Thụy Điển, CHV có quyền áp dụng biện pháp phạt tiền, nếu đã phạt tiền mà con nợ vẫn không đến thì CQTHA có quyền yêu cầu cảnh sát bắt người phải THA. CQTHA cũng có quyền yêu cầu cảnh sát tạm giữ con nợ, khi con nợ cố tình trì hoãn không lập danh sách kê khai tài sản của mình theo yêu cầu của CQTHA. Ở Đức, CHV có quyền yêu cầu cảnh sát áp giải đương sự theo giấy triệu tập đến CQTHA nếu đương sự cố tình trốn tránh, được báo gọi nhiều lần không đến. CHV có quyền khám nhà và những nơi cất giữ tài sản của con nợ, có quyền cho mở khoá nhà, khoá phòng hoặc ngăn có chứa đồ đạc bị khoá nếu thấy việc đó cần thiết cho việc THA. Trong trường hợp con nợ chống đối hoặc phản kháng lại, CHV có quyền dùng vũ lực và yêu cầu cảnh sát hỗ trợ.
Đối chiếu với quy định hiện hành của pháp luật về THADS Việt Nam có thể thấy CHV ở nước ta chưa được pháp luật trao đầy đủ quyền năng để thực thi nhiệm vụ. Qua kinh nghiệm của các nước và xuất phát từ yêu cầu của công tác THA đòi hỏi cần có các quy định của pháp luật cho phép CHV được quyền yêu cầu dẫn giải đương sự trong trường hợp đã triệu tập hợp lệ nhiều lần mà cố tình không đến; có quyền yêu cầu bắt giữ trong trường hợp đương sự chống đối, cản trở việc THA; có quyền khám nhà, khám đồ vật trong trường hợp cần thiết…
7. Phạm vi các việc mà cơ quan thi hành án được thi hành
Nhìn chung pháp luật các nước đều quy định CQTHA có chức năng thi hành các bản án, quyết định về dân sự. Tuy nhiên, ở nhiều nước vấn đề dân sự được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế thương mại, lao động… Mặt khác, ngoài việc thi hành các BA,QĐ của TA, CQTHA còn thi hành một số quyết định của các cơ quan hành chính hoặc các chứng từ có giá trị thanh toán; Các cam kết, thỏa thuận giữa các bên đương sự…
Ví dụ như ở Nhật Bản: việc thi hành các phán quyết của Tòa án về dân sự đối với ba loại việc sau: kiện đòi khẳng định quyền; kiện đòi thi hành nghĩa vụ; kiện đòi xác lập quyền. Ngoài ra, CQTHA cũng có chức năng thi hành các quyết định tuyên bố phá sản.
Ở Cộng hòa Pháp: Thừa phát lại, ngoài chức năng thi hành các BA,QĐ của Tòa án về dân sự, còn có chức năng làm một số công việc có tính chất bổ trợ cho hoạt động tư pháp. Thừa phát lại có hai nhóm công việc: nhóm công việc độc quyền và nhóm công việc không độc quyền. Trong lĩnh vực độc quyền, thừa phát lại là người duy nhất có thẩm quyền thực hiện công việc tống đạt các văn bản, quyết định, bao gồm giấy triệu tập ra Tòa án, các văn bản trong quá trình tố tụng, BA,QĐ của Tòa án. Ngoài ra, thừa phát lại còn có trách nhiệm thông báo cho công dân về các thủ tục tố tụng, ví dụ quyền và nghĩa vụ của họ khi đi kiện; khi bản án đã được tống đạt đến cho đương sự, thừa phát lại phải chỉ dẫn cho họ biết các khả năng kháng cáo, khiếu nại. Tất cả các hoạt động này đều được quy định rất cụ thể, nếu không tuân thủ các quy định đó đều bị coi là vô hiệu. Một hoạt động có tính độc quyền thứ hai của thừa phát lại là thi hành các BA,QĐ của Tòa án. Việc chuyển BA,QĐ đã có hiệu lực cho thừa phát lại có giá trị như giao quyền THA mà không cần giấy ủy quyền riêng (Điều 507 Bộ luật tố tụng dân sự Pháp). Thừa phát lại đưa BA,QĐ của Tòa án ra thi hành. Nếu việc THA gặp khó khăn do có hành vi chống đối, thừa phát lại có thể yêu cầu can thiệp của lực lượng công quyền. Đối với lĩnh vực không nằm trong phạm vi độc quyền, thừa phát lại làm những công việc như: soạn thảo các văn bản tư chứng thư, tư vấn, tham gia tố tụng, gợi ý cho thân chủ những điều nên làm…
Ở Thụy Điển: THADS Thụy Điển bao gồm cả thi hành dân sự, thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp và thi hành về thuế.
Theo truyền thống và quy định của pháp luật hiện hành ở nước ta thì CQTHA chỉ thi hành các BA,QĐ của TA đã có hiệu lực pháp luật. Quy định như vậy thật ra không đầy đủ và chưa mở rộng phạm vi hoạt động THA. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển ngày càng đa dạng, phong phú và qua kinh nghiệm các nước, khái niệm “THADS” ở nước ta cần được mở rộng đối với việc thi hành các cam kết hợp pháp giữa các bên đương sự trong hợp đồng dân sự cũng như một số quyết định khác mà không phải là BA,QĐ của TA.
8. Quyền tự định đoạt của đương sự trong quá trình thi hành án
Ở hầu hết các nước đều ghi nhận nguyên tắc tự định đoạt của đương sự, thể hiện ở quy định của pháp luật về quyền yêu cầu THA. Sau khi có BA,QĐ của Tòa án, các bên đương sự tự nguyện thỏa thuận để thi hành. Nếu bên phải thi hành (con nợ, người có nghĩa vụ…) không tự nguyện thi hành, thì người được THA (chủ nợ, người có quyền…) có quyền yêu cầu CQTHA cưỡng chế thi hành. CQTHA không được từ chối yêu cầu của người được THA nếu không có lý do đã được pháp luật quy định, cho dù CQTHA là một cơ quan Nhà nước hay hoạt động với tính chất là tổ chức nghề nghiệp. Cùng với việc yêu cầu THA, đương sự còn có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết về địa chỉ, tình trạng tài sản, thu nhập, hoàn cảnh kinh tế của người phải THA. Ở một số nước đây là yêu cầu bắt buộc của đương sự, nếu họ không đáp ứng được sẽ bị CQTHA từ chối nhận đơn yêu cầu. Quyền tự định đoạt còn được thể hiện ở việc pháp luật ghi nhận nguyên tắc cam kết thỏa thuận giữa các bên đương sự. Nếu một bên không thực hiện, bên kia có quyền yêu cầu CQTHA cưỡng chế bắt buộc thực hiện thỏa thuận đó.
Ví dụ như ở Nhật Bản, khi người được THA có đơn yêu cầu THA thì việc THA mới được tiến hành. Trong đơn yêu cầu phải chỉ rõ tài sản (tiền, bất động sản…) của người phải THA có ở đâu, tình trạng như thế nào? Người được THA phải tự tìm hiểu về tình trạng tài sản của người phải THA để cung cấp thông tin cho CQTHA. Đây là điều kiện tiên quyết không thể thiếu được của việc THA.
9. Về thời hiệu thi hành án
Pháp luật nhiều nước đều có quy định thời hiệu thi hành án với những thời gian không giống nhau, nhưng nhìn chung là khá dài so với pháp luật về thi hành án dân sự của Việt Nam. Ví dụ như ở Nhật Bản, thời hiệu thi hành án là 10 năm; hết 10 năm người phải thi hành án phải có đơn yêu cầu chấm dứt việc thi hành án; thế nhưng sau 11 năm có đơn yêu cầu của người được thi hành án thì Tòa án vẫn phải thi hành án. Ở Cộng hòa liên bang Đức, pháp luật quy định thời hiệu thi hành án là 30 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Ở Hoa Kỳ, thời hiệu thi hành án là 10 năm. Ở Cộng hòa Pháp, thời hiệu thi hành án là 30 năm. Ở Thụy Điển, thời hiệu thi hành án đối với cá nhân là 3 năm, đối với Nhà nước là 10 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
10. Về thủ tục và biện pháp cưỡng chế thi hành án
Thủ tục và biện pháp cưỡng chế thi hành án là vấn đề quan trọng nhất trong pháp luật thi hành án dân sự, thể hiện ý chí và quyền lực nhà nước trong việc tổ chức thi hành án. Tuy nhiên, cưỡng chế là biện pháp chỉ thực hiện khi các đương sự không tự nguyện thi hành án, do đó các nước có những quy định cụ thể về trình tự, thủ tục chặt chẽ để thực hiện cưỡng chế thi hành án.
Ví dụ như ở Cộng hòa Pháp: Pháp luật quy định mọi tài sản của người mắc nợ đều có thể bị kê biên ngay cả khi tài sản đó do người thứ ba giữ. Các biện pháp cưỡng chế chủ yếu là: kê biên thanh toán nợ (mọi chủ nợ có trong tay một văn bản có hiệu lực thi hành ghi nhận một khoản nợ bằng tiền mặt có thể đòi được đều có thể, nhằm thu hồi tiền nợ, kê biên những khoản nợ mà người thứ ba nợ con nợ theo những quy định riêng về tiền lương trong Bộ luật lao động); kê biên tiền lương căn cứ vào định mức có thể kê biên tiền công, lương, tổng số nợ và lãi suất con nợ theo yêu cầu của chủ nợ hoặc người mắc nợ; Khi các tài sản bị kê biên do người thứ ba giữ và hiện đang ở trong nhà người này thì việc kê biên chỉ được tiến hành khi có lệnh của Thẩm phán thi hành án; Phong tỏa động sản (tức là việc thừa phát lại cho phong tỏa các động sản mà người mắc nợ phải giao hoặc trả lại cho chủ nợ theo quyết định thi hành án, trừ khi người mắc nợ tự nguyện vận chuyển động sản này và chịu mọi chi phí); Các biện pháp thi hành án đối với các phương tiện cơ giới đường bộ: Thừa phát lại có thể báo cho cơ quan quản lý và đăng ký xe cơ giới đường bộ của tỉnh, việc tống đạt thông báo này cho người mắc nợ có giá trị như việc kê biên.
Đối với việc cưỡng chế trả nhà, pháp luật của Pháp quy định trừ trường hợp có quy định đặc biệt việc trục xuất hoặc cưỡng chế ra khỏi một toà nhà, một nơi ở chỉ được tiến hành nếu có quyết định của Tòa án hoặc trên cơ sở một biên bản hòa giải có hiệu lực thi hành, sau khi đã có lệnh tống đạt giải tỏa nhà. Ngoài ra, pháp luật cũng quy định các tài sản không được kê biên như: thực phẩm, tiền trợ cấp nuôi dưỡng, trừ khoản tiền mà bên kê biên trả để cấp dưỡng cho bên bị kê biên; Các tài sản có thể định đoạt được nhưng được người viết di chúc hoặc người tặng cho tuyên bố không thể kê biên, hoặc là theo sự cho phép của thẩm phán và trong một tỷ lệ do thẩm phán quyết định, được các chủ nợ sau này khi đã quyết định tặng cho hoặc mở thừa kế mà không thể kê biên như động sản cần thiết cho cuộc sống, công ăn việc làm của người bị kê biên và gia đình họ, nếu như không phải để chi trả cho động sản đó trong chừng mực mà sắc lệnh của Tổng thống cho phép, tuy nhiên những động sản đó vẫn có thể bị tịch biên nếu nằm ngoài nơi cư trú và nơi làm việc thường xuyên của con nợ, nếu đó là tài sản có giá trị như tài sản quý, hiếm, cổ hay xa xỉ, hoặc là tài sản có số lượng lớn vượt quá nhu cầu cần thiết; những động sản hữu hình của nghiệp sản thương mại; Vật dụng cần thiết của người tàn tật hay dùng để chăm sóc người ốm…
Ở Cộng hòa liên bang Đức: Để cưỡng chế thi hành án cần phải có ba điều kiện: Phải có văn bằng xác nhận quyền yêu cầu được đưa ra thi hành; Phải có quy định về điều khoản thi hành; Phải được thực hiện việc tống đạt. Đối với người cố tình không thi hành án, Chấp hành viên có quyền yêu cầu cảnh sát áp giải đương sự theo giấy triệu tập đến cơ quan thi hành án nếu đương sự cố tình trốn tránh được báo gọi nhiều lần không đến. Ngoài ra, theo pháp luật Đức, trường hợp đương sự không có tài sản gì để thi hành án thì chủ nợ được quyền yêu cầu Toà thi hành án triệu tập con nợ đến toà để buộc họ phải tuyên thệ về việc không có tài sản để thi hành án. Nếu con nợ không chịu tuyên thệ thì chủ nợ có quyền yêu cầu Tòa án bắt giam cho đến khi con nợ đồng ý tuyên thệ, nếu không sẽ bị giam giữ kéo dài (tối đa 6 tháng một lần) và mọi chi phí trong thời gian giam giữ do chủ nợ chịu. Ở Đức các danh sách con nợ không có khả năng trả nợ được lập và lưu giữ tại Tòa án để mọi người đều có thể xem được, nhất là những người đang có ý định thực hiện giao dịch với một đối tác cụ thể để tìm hiểu xem đối tác của mình có tên trong danh sách các con nợ hay không. Điều này tạo nên tâm lý buộc con nợ phải cố gắng thi hành. Gần đây, Đức ban hành luật giải quyết việc mất khả năng thanh toán của con nợ, luật này không chỉ áp dụng cho doanh nghiệp mà còn áp dụng cho cá nhân (hay là trường hợp mất khả năng thanh toán của người tiêu dùng). Theo Luật này, con nợ là người tiêu dùng chỉ phải trả nợ trong vòng 7 năm, trong vòng 7 năm đó, mọi thu nhập của họ đều được dùng để trả nợ, trừ phần được giữ lại để đáp ứng nhu cầu cần thiết của bản thân. Sau 7 năm, nếu số nợ vẫn chưa trả hết thì con nợ được xoá nợ.
Ở Singapore: pháp luật quy định việc kê biên tài sản và bán đấu giá tài sản để thi hành án, nếu người phải thi hành án vắng mặt, chống đối thì nhân viên thi hành án có thể phá khoá vào nhà để kê biên tài sản; Quyết định thực hiện hoặc không thực hiện công việc nào đó (ví dụ: không được giao dịch trên thị trường chứng khoán); Chuyển tài sản từ người này sang người khác để thi hành án; Yêu cầu người phải thi hành án phải ra khỏi chỗ ở của họ; Chuyển trẻ em cho người được nhận nuôi; cơ quan thi hành án có quyền kê biên bất cứ tài sản nào; trường hợp người phải thi hành án thấy việc kê biên hết tài sản làm cho họ khó khăn thì có thể đệ đơn lên Tòa án xem xét.
Vấn đề chúng ta có thể học hỏi qua kinh nghiệm các nước là pháp luật thi hành án dân sự cần quy định nhiều biện pháp cưỡng chế mạnh mẽ và hiệu quả, với trình tự, thủ tục tuy không phức tạp, kéo dài nhưng chặt chẽ. Bên cạnh đó, xuất phát từ mục đích nhân đạo, pháp luật thi hành án dân sự cần quy định cụ thể các danh mục tài sản không được kê biên để bảo đảm cho người phải thi hành án và gia đình họ có cuộc sống ổn định. Về vấn đề này Claude Brenner nhận xét: “Có một giới hạn tương đối phổ biến trong việc cưỡng chế thi hành án, đó là những tài sản và thu nhập đáp ứng nhu cầu thiết yếu cho người phải thi hành án và gia đình thì không được kê biên, bởi vì xã hội không được lợi gì nếu như các thành viên trong xã hội đó bị rơi vào cảnh túng bấn”.
Qua nghiên cứu mô hình tổ chức và những quy định pháp luật về thi hành án dân sự ở một số nước trên thế giới như nêu trên, có thể rút ra một số nhận xét sau đây:
Thứ nhất, nhìn chung tổ chức thi hành án dân sự các nước không giống nhau. Tuy theo tình hình, đặc điểm kinh tế – xã hội, yếu tố truyền thống, tâm lý… mà tổ chức thi hành án dân sự của mỗi nước thể hiện dưới hình thức công, bán công hoặc do tư nhân đảm nhiệm.
Thứ hai, việc thi hành án chủ yếu căn cứ theo đơn yêu cầu của người được thi hành án, thể hiện khá đầy đủ quyền tự định đoạt của đương sự. Các nước đều quy định chế độ lệ phí thi hành án, nhìn chung các chi phí thi hành án do đương sự chịu, nhà nước chỉ hỗ trợ trong chừng mực cần thiết.
Thứ ba, thẩm quyền của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên được pháp luật quy định khá rộng và đảm bảo hiệu lực thực thi.
Thứ tư, trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành án được quy định hết sức chặt chẽ, cụ thể bảo đảm hiệu lực thực thi bản án, quyết định, đồng thời lưu ý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự và người có liên quan./.
(LVN GROUP FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)