1. Khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội

Trong Bộ luật hình sự hiện hành, vấn đề trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội được nhà làm luật quy định trong một chương riêng thuộc Phần chung – Chương XII. Trong đó quy định về các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội; các biện pháp phi hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; vấn đề hình phạt, quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và các vấn đề khác có liên quan…

Trong Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 không quy định cụ thể người dưới 18 tuổi phạm tội nhưng theo điều 0 Bộ luật quy định người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ khi là người đã đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi tại thời điểm thực hiện tội phạm thì sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự.

Trân trọng!

 

2. Tội phạm là gì? Tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật hiện hành?

a. Tội phạm

Theo quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Điều 8. Khái niệm tội phạm

1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.

2. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.

Vậy tội phạm là hành vi nguy him cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.

b. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hiện hành

– Cơ sở pháp lý: Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự

1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.

2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.

Theo quy định, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác;

Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật hình sự. Theo đó:

– Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù;

– Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

 

3. Áp dụng Bộ luật Hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định như thế nào?

– Cơ sở pháp lý: Điều 90 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Điều 90. Áp dụng Bộ luật Hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này; theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này.

Theo Điều 90 Bộ luật hình sự hiện hành, chỉ đối với người đủ 14 tuổi đến dưới 18 tui phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này; theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này của Bộ luật hình sự. Vậy nếu trường hợp người phạm tội mà nhỏ tuổi hơn 14 tuổi theo quy định của Điều luật sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự quy định.

Theo điều 90, người đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này. Chương XII quy định về người dưới 18 tuổi phạm tội. Theo đó, chương này quy định về Các nguyên tắc x lý; các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự; biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng; các hình phạt; các quy định liên quan đến quyết định hình phạt, tổng hợp hình phạt, miễn giảm hình phạt và xóa án tích…

Ngoài chương XII này người đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này, ví dụ như tuổi chịu trách nhiệm hình sự, chuẩn bị phạm tội…

Trân trọng!

 

4. Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định như thế nào?

Thưa Luật sư của LVN Group, khi xét xử một người dưới 18 tuổi phạm tội thì Tòa án phải tuân thủ theo nguyên tắc gì không ạ? Nếu có những nguyên tắc đó được hiểu như thế nào ạ?

Cảm ơn!

Trả lời:

– Cơ sở pháp lý: Điều 91 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Điều 91. Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

1. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.

Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.

2. Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này:

a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ tội phạm quy định tại các điều 134, 141, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này;

b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ tội phạm quy định tại các điều 123, 134, 141, 142, 144, 150, 151, 168, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này;

c) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.

3. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.

4. Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 Chương này không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa.

5. Không xử phạt hình phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

6. Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa.

Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

7. Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.

Tương ứng với các khoản tại điều 91, Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội gồm những nguyên tắc sau:

a. “Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.”

Đây là quy định mang tính xuyên xuốt trong quá trình xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội. Bảo đảm lợi ích tốt nhất và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ người dưới 18 tuổi phạm tội trong mọi tình huống, mọi trường hợp thì Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải tạo mọi điều kiện và áp dụng các biện pháp phi hình phạt đối với họ. Các cơ quan tiến hành tố tụng khi điều tra, truy tố, xét xử phải xác định độ tuổi của người phạm tội. Theo như lập luận, tuổi người dưới 18 tuổi phạm tội càng ít thì khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội càng hạn chế, ngay cả khi đối với những người cùng độ tuổi, không phải người nào cũng có khả năng nhận thức như nhau.
Ví dụ: Người dưới 18 tuổi phạm tội ở thành phố nhận thức khác người dưới 18 tuổi phạm tội ở vùng sâu, vùng xa, không có điều kiện tiếp xúc với khoa học công nghệ, cơ sở vật chất…. người dưới 18 tuổi phạm tội có trình độ văn hóa cao nhận thức khác người dưới 18 tuổi phạm tội có trình độ văn hóa thấp …

Như vậy đối với nguyên tắc này còn đòi hỏi Cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định nguyên nhân và điều kiện khiến người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội. Yêu cầu của nguyên tắc này là giáo dục, giúp đỡ người dưới 18 tuổi phạm tội sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Do đó, việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi cũng phải thể hiện sao cho bảo đảm việc giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, chứ không nhằm trừng trị. Do đó ngay từ khi khởi tố, điều tra, Cơ quan điều tra không chỉ áp dụng các biện pháp pháp lý có lợi nhất, đồng thời phải quán triệt tinh thần là: Nếu không cần thiết bắt giữ tạm giữ, tạm giam đối với họ thì không được áp dụng các biện pháp này.

b. “Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này.”

Theo như Điều 29 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về các trường hợp được miễn hoặc có thể được miễn trách nhiệm hình sự đối với bất cứ người nào mà không phân biệt người dưới 18 tuổi hay đã trên 18 tuổi. Tuy nhiên, đối với người dưới 18 tuổi thì việc miễn trách nhiệm hình sự ngoài các quy định tại Điều 29 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 thì Cơ quan tiến hành tố tụng còn phải căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 91 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 như sau:

Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định của Bộ luật hình sự:

– Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ trường hợp quy định tại Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;

– Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 123 (tội giết người); Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;

– Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án.

c. “Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.”

Khi hành vi phạm tội của họ ở mức độ nghiêm trọng nhất định, mà khi cơ quan có thẩm quyền xet về nhân thân nhân thân người dưới 18 tuổi có nhân thân xấu và xét thấy việc áp dụng các biện pháp giáo dục và tác động khác của xã hội không đủ hiệu lực để phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung thì mới tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.

d. “Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 Chương này không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa.”

Nội dung của nguyên tắc này đòi hỏi Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự hoặc áp dụng một trong các biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, tại trường giáo dưỡng (quy định tại Mục 3 Bộ luật hình sự) nhưng không có hiệu quả. Như vậy, trước khi Tòa án áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi thì phải áp dụng các biện pháp không phải là hình phạt, mang tính giáo dục và gần như không mang tính cưỡng chế đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Như vậy biện pháp mang tính cưỡng chế và nghiêm khắc nhất là hình phạt chỉ được áp dụng khi xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự hoặc áp dụng một trong các biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, tại trường giáo dưỡng là không có hiệu quả.

e. “Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.”

Theo Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định nguyên tắc này đã thể hiện thái độ của Nhà nước ta dứt khoát không áp dụng hình phạt tử hình và chung thân đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; quy định này thể hiện được nguyên tắc không lấy trừng trị là mục đích của hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

Bởi hai hình phạt: Tù chung thân và tử hình là hai hình phạt mang tính trừng trị nghiêm khắc nhất đối một người phạm tội, nó tước đi quyền sống, quyền con người của người phạm tội (tử hình) cũng như giới hạn quyền của họ.

Chính vì tính nghiêm khắc đó mà hình phạt tù này không áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

f. “Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa…”

Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất.

Theo khoản 6 quy định: khi người dưới 18 tuổi phạm tội bản án của Tòa án sẽ không áp dụng hình phạt bổ sung.Đây cũng là nguyên tắc xử lý, đồng thời cũng là căn cứ quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

g.Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì không tính đxác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.”

Việc không quy định đối với người chưa đủ 16 tuổi bị coi là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm tại khoản 7 Điều luật này cũng là thể hiện nguyên tắc không coi việc trừng trị là mục đích đối với người dưới 16 tuổi và tạo điều kiện cho các em phát triển bình thường trong cuộc sống trước mắt và lâu dài. Bỏi khi xác định một người là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm sẽ là một tình tiết tăng nặng đối với người phạm tội.

Trân trọng!

 

5. Người dưới 18 tuổi phạm tội có phải chịu hình phạt tù chung thân hoặc tử hình?

Khách hàng: Kính thưa Luật sư của LVN Group LVN Group, con tôi 17 tuổi, do bồng bột và nhất thời con tôi đã đánh cậu bạn học cùng lớp và đẩy cậu ta một cái, cậu ta là Phan Văn Q, không may Q bị ngã và đầu đập vào thành cửa, mặc dù đã đưa đi cấp cứu kịp thời nhưng Q đã không qua khỏi và chết. Gia đình nhà Q kiện con tôi về tội giết người, vậy bây giờ con tôi có phải bị án tù không? Nếu có thì có phải tù chung thân hay tù như thế nào ạ?

Cảm ơn!

Trả lời:

Thứ nhất, con bạn 16 tuổi, vậy theo pháp luật quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:

Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự

1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.

2.6 Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.

Vậy tùy vào cơ quan điều tra và các chứng cú thu thập, có thể con chị sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội vô ý làm chết người theo quy định của pháp luật.

Điều 125. Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

1. Người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội đối với 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.

Nếu sau khi cơ quan điều tra điều tra và đủ căn cứ theo điều khoản trên, con chị sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự như pháp luật quy đinh.

Trân trọng!