1. Khái niệm về tín chấp

Điều 344 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:

“Tổ chức chính trị-xã hội tại cơ sở có thể bảo đảm bằng tín chấp cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền tại tổ chức tín dụng khác để sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng theo quy định của pháp luật”.

Từ quy định trên cho thấy ngoài các biện pháp bảo đảm bằng tài sản, hợp đồng tín dụng có thể được bảo đảm bằng uy tín của các tổ chức chính trị-xã hội.

Khi các thành viên nghèo của mình có nhu cầu vay vốn để sản xuất, kinh doanh hoặc làm dịch vụ mà không có tài sản bảo đảm, các tổ chức chính trị-xã hội bằng uy tín của mình để bảo đảm trước các tổ chức tín dụng cho thành viên của mình vay vốn. Khi đứng ra bảo đảm, các tổ chức này phải xác nhận theo yêu càu của tổ chức tín dụng về điều kiện, hoàn cảnh của cá nhân, hộ gia đình nghèo khi vay vốn tại tổ chức tín dụng đó đồng thời phải chủ động hoặc phối hợp chặt chẽ với tổ chức tín dụng giúp đỡ, hướng dẫn, tạo điều kiện cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn; giám sát việc sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả; đôn đốc trả nợ đầy đủ, đúng hạn cho tổ chức tín dụng. Tổ chức chính trị-xã hội có quyền từ chối bảo đảm bằng tín chấp, nếu xét thấy cá nhân, hộ gia đình nghèo không có khả năng sử dụng vốn vay để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ và trả nợ cho tổ chức tín dụng.

Tín chấp là việc tổ chức chính trị xã hội tại cơ sở bằng uy tín của mình để bảo đảm cho thành viên của mình vay vốn tại các tổ chức tín dụng bằng việc xác nhận về điều kiện, hoàn cảnh của cá nhân, hộ gia đình nghèo khi vay vốn và phối hợp chặt chẽ với tổ chức tín dụng giúp đỡ, hướng dẫn, tạo điều kiện cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn; giám sát việc sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả; đôn đốc trả nợ đầy đủ, đúng hạn cho tổ chức tín dụng.

2. Bản chất tín chấp của tổ chức chính trị – xã hội.

Bàn về bản chất của tín chấp của tổ chức chính trị – xã hội được xem xét dưới các góc độ:

– Về góc độ xã hội: Tín chấp của các tổ chức chính trị – xã hội là việc Nhà nước thực hiện chính sách cho vay ưu đãi với mục đích hỗ trợ để các hộ gia đình nghèo tiến đến thoát nghèo (tính xã hội).

– Về góc độ kinh tế: Trong tín chấp của các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức tín dụng cho hộ gia đình nghèo vay tiền bằng uy tín của tổ chức chính trị – xã hội cũng là một trong những hoạt động kinh doanh tiền tệ – hoạt động thường xuyên của tổ chức tín dụng (tính kinh tế).

Xét về bản chất, tín chấp của các tổ chức chính trị – xã hội phản ánh chính sách hỗ trợ tín dụng của Nhà nước với các cá nhân, hộ gia đình nghèo nên không phù hợp với việc cho vay theo cơ chế thị trường của các ngân hàng thương mại.

3. Các đặc điểm của tín chấp

Có thể nói, tín chấp là một hình thức bảo lãnh vay vốn nhưng khác với với bảo lãnh thông thường ở một số điểm sau đây:

– Người bảo đảm: Phải là tổ chức chính trị-xã hội tại cơ sở;

– Người được bảo đảm: Là thành viên nghèo của tổ chức là người bảo đảm;

– Đối tượng để bảo đảm: Là uy tín của tổ chức;

– Mục đích vay: Thực hiện sản xuất, kinh doanh hoặc dịch vụ được xác định cụ thể trong hợp đồng vay vốn và người vay phải sử dụng vốn đúng với mục đích vay đã được xác định trong hợp đồng;

– Bên cho vay có quyền kiểm soát việc sử dụng vốn vay và có quyền chấm dứt hợp đồng trước thời hạn và thu hồi vốn nếu người vay sử dụng vốn không đúng mục đích đó.

4. Quyền và nghĩa vụ các bên trong biện pháp bảo đảm bằng tín chấp

Tìm hiểu về tín chấp của các tổ chức chính trị – xã hội, cần thiết phải tìm hiểu quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia biện pháp bảo đảm này. Vấn đề này được quy định chung tại NĐ 21/2021/NĐ-CP.

4.1. Quyền và nghĩa vụ bên nhận bảo đảm (các tổ chức tín dụng)

– Quyền của tổ chức tín dụng: Tổ chức tín dụng có quyền yêu cầu tổ chức chính trị – xã hội đảm bảo bằng tín chấp phối hợp trong việc kiểm tra sử dụng vốn vay và đôn đốc trả nợ.

– Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng: Tổ chức tín dụng có nghĩa vụ phối hợp với tổ chức chính trị – xã hội đảm bảo bằng tín chấp trong việc cho vay và thu hồi nợ.

4.2. Quyền và nghĩa vụ bên bảo đảm (các tổ chức chính trị – xã hội)

Các tổ chức chính trị – xã hội thực hiện tín chấp là tổ chức chính trị – xã hội ở cơ sở (cấp xã).

– Nghĩa vụ của tổ chức chính trị – xã hội bao gồm:

+ Xác nhận theo yêu cầu của tổ chức tín dụng về điều kiện, hoàn cảnh của cá nhân, hộ gia đình nghèo khi vay vốn tại tổ chức tín dụng đó;

+ Chủ động hoặc phối hợp chặt chẽ với tổ chức tín dụng giúp đỡ, hướng dẫn, tạo điều kiện cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn;

+ Giám sát việc sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả; đôn đốc trả nợ đầy đủ, đúng hạn cho tổ chức tín dụng.

– Quyền của các tổ chức chính trị – xã hội: Tổ chức chính trị – xã hội có quyền từ chối bảo đảm bằng tín chấp, nếu xét thấy cá nhân, hộ gia đình nghèo không có khả năng sử dụng vốn vay để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ và trả nợ cho tổ chức tín dụng.

Nhận thấy, pháp luật chưa quy định trách nhiệm của tổ chức chính trị – xã hội khi các cá nhân hộ gia đình nghèo vay vốn mà không trả được nợ. Thật bất ngờ khi cơ quan lập pháp lại bỏ ngỏ nội dung này bởi dường như việc người vay vốn không trả nợ là trường hợp hoàn toàn phải được dự liệu trước. Nói về nguyên nhân vì sao trách nhiệm của các tổ chức xã hội không được đề cập trong luật, theo quan điểm cá nhân, có thể trình bày như sau:

+ Thứ nhất, pháp luật không quy định các tổ chức chính trị – xã hội phải bảo đảm bằng tài sản để vay tiền cho các hội viên của mình. Vì vậy mà khi người vay tiền là các hội viên đó không trả được nợ, các tổ chức chính trị – xã hội không thể trả nợ thay vì theo như đã thỏa thuận, các tổ chức này chỉ lấy uy tín của mình để vay tiền.

+ Thứ hai, đa số người dân nghèo được vay vốn đều có trình độ hiểu biết kém, nên cũng chưa hiểu hết được ý nghĩa, mục đích cũng như phương thức cho vay – trả nợ. Việc không quy định trách nhiệm phải trả nợ thay, không quy định trách nhiệm tài sản của tổ chức chính trị – xã hội trong trường hợp người vay vốn không hoàn trả nợ không nằm ngoài mục đích cho chính những người vay vốn không ỷ lại vào tổ chức đã đảm bảo cho họ được vay vốn.

Giả sử, quy định các tổ chức xã hội phải dùng tài sản riêng của mình để thực hiện thay nghĩa vụ trả tiền cho những người không có khả năng hoàn trả thì chắc chắn hiệu quả của đồng vốn sẽ không cao, người dân không coi trọng việc trả nợ vì có người trả thay cho mình rồi.

+ Thứ ba, nguồn vốn cho vay có biện pháp bảo đảm bằng tín chấp được lấy từ Ngân sách Nhà nước, và việc tín chấp của tổ chức chính trị – xã hội cũng là thực hiện theo chủ trương, chính sách của Chính phủ nên trách nhiệm tài sản gánh cho Ngân sách hay tài sản của tổ chức chính trị – xã hội thì vẫn gây thiệt hại cho nguồn Ngân sách Nhà nước (tài sản của tổ chức chính trị – xã hội do nhà nước giao sử dụng là chủ yếu).

4.3. Quyền và nghĩa vụ bên được bảo đảm (các hộ gia đình nghèo)

– Nghĩa vụ bên vay vốn:

+ Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã cam kết.

+ Tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức tín dụng và tổ chức chính trị – xã hội kiểm tra việc sử dụng vốn vay.

+ Trả nợ đầy đủ gốc và lãi vay đúng hạn cho tổ chức tín dụng.

– Bên được đảm bảo trong tín chấp của các tổ chức xã hội (các hộ gia đình nghèo) có quyền sử dụng vốn vay đúng mục đích là “để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ” theo quy định pháp luật.

5. Sự hình thành các quy định của pháp luật về Tín chấp

Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định, tín chấp là việc tổ chức chính trị – xã hội ỏ cơ sỗ bảo đảm cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền tại tổ chức tín dụng để sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng theo quy định của pháp luật.

Chuẩn nghèo được áp dụng trong từng thời kỳ theo quy định của pháp luật. Trong giai đoạn 2016-2020, chuẩn nghèo đối với hộ nghèo được xác định nếu đáp ứng được một trong hai tiêu chí hộ nghèo theo Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg.

Bảng tổng hợp về chuẩn nghèo theo Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg

TT

Tiêu chí hộ nghèo

Khu vực nông thôn

Khu vực

thành thị

1

Có thu nhập bình quân đầu người/tháng.

< 700.000 đồng

< 900.000 đồng

2

Có thu nhập bình quân đầu người/tháng.

> 700.000 đồng

< 1 triệu đồng

> 900.000 đồng <1,3 triệu đồng

Số chỉ số thiếu hụt trong 10 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.

> 03 chỉ số

> 03 chỉ số

10 chỉ số đo lưòng mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản: tiếp cận các dịch vụ y tế; bảo hiểm y tế; trình độ giáo dục của người lốn; tình trạng đi học của trẻ em; chất lượng nhà ở; diện tích nhà ở bình quân đầu người; nguồn nước sinh hoạt; nhà tiêu hợp vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn thông; tài sản phục vụ tiếp cận thông tin.

Việc cho vay có bảo đảm bằng tín chấp phải được lập thành văn bản có xác nhận của tổ chức chính trị – xã hội bảo đảm bằng tín chấp về điều kiện, hoàn cảnh của bên vay vồn. Thỏa thuận bảo đảm bằng tín chấp phải cụ thể về số tiền, mục đích, thời hạn vay, lãi suất, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người vay, tổ chức tín dụng cho vay và tổ chức chính trị – xã hội bảo đảm bằng tín chấp.

Từ “tín chấp” được nhắc đến từ năm 1979, nhưng tín chấp được quy định như là một biện pháp bảo lãnh để vay vốn đối với các dự án nhỏ giải quyết việc làm thì xuất hiện đầu tiên vào năm 1993. Theo đó, các “hộ tư nhân, hộ gia đình, thành viên của đoàn thể, tổ chức quần chúng” được vay vốn thì “thực hiện hình thức tín chấp của ủy ban nhân dân, tổ chức đoàn thể quần chúng, hội nghề nghiệp, chủ dự án kinh tế mới”, và “ủy ban nhân dân, tổ chức đoàn thể quần chúng, hội nghề nghiệp, chủ dự án kinh tế mới phải chịu trách nhiệm vật chất trước các đối tượng đã bảo lãnh (tín chấp)”.

Cả ba Bộ luật Dân sự năm 1995, 2005 và 2015 đều quy định về biện pháp bảo đảm bằng tín chấp của tổ chức chính trị – xã hội, tuy nhiên nội dung có sự khác nhau.

Trong Bộ luật Dân sự năm 1995, biện pháp bảo đảm bằng tín chấp được coi là biện pháp bảo lãnh. Khi đó biện pháp bảo lãnh được hiểu gồm hai loại là bảo đảm bằng tài sản (cầm cố, thế chấp, cam kết khác) của người thứ ba và bảo đảm không bằng tài sản (tín chấp) của người thứ ba.

Biện pháp tín chấp đã được loại ra khỏi nhóm quy định về bảo lãnh trong Bộ luật Dân sự năm 2005. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự nâm 2005 lại dẫn đến một cách khá lắt léo rằng, không có hình thức bảo lãnh bằng cam kết suông như biện pháp tín chấp của tổ chức chính trị – xã hội, mà bảo lãnh vẫn là bằng tài sản, nhưng đồng thòi lại không gắn liền với tài sản cụ thể, không còn kèm theo việc cầm cố, thế chấp tài sản như trưốc đây. Nội dung này được thể hiện một cách mập mờ, chỉ được hiểu gián tiếp thông qua việc bỏ đi nghĩa vụ của bên bảo lãnh đã được quy định trước đây tại Bộ luật Dân sự năm 1995 “người bảo lãnh chỉ được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sỗ hữu của mình hoặc bằng việc thực hiện công việc”.

Điểm thay đổi quan trọng nhất của Bộ luật Dân sự năm 2015 khi quy định về tín chấp là ngoài việc bảo đảm vay tiền để “sản xuất, kinh doanh” thì còn thêm để “tiêu dùng”, thay vì để “làm dịch vụ” (cũng là kinh doanh) theo quy định của hai Bộ luật Dân sự năm 1995 và 2005 trước kia.

Hiện nay, chỉ có 6 tổ chức chính trị – xã hội được quyền bảo đảm bằng tín chấp, đó là: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Mặt trân Tổ quốc Việt Nam và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định khá chặt chẽ, cụ thể về việc “thỏa thuận bảo đảm bằng tín chấp phải cụ thể về số tiền, mục đích, thời hạn vay, lãi suất” cũng như quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của tổ chức chính trị – xã hội. Tuy nhiên, biện pháp bảo đảm nghĩa vụ bằng biện pháp tín chấp của các tổ chức chính trị – xã hội chỉ có ý nghĩa về mặt chính trị, xã hội, tinh thần, mà hoàn toàn vô nghĩa về trách nhiệm tài sản và giá trị pháp lý trên thực tế. Các tổ chức đoàn thể có trách nhiệm bảo đảm cho thành viên của mình vay vốn, nhưng lại hoàn toàn không gắn liền vổi trách nhiệm dân sự, không phải chịu bất kỳ trách nhiệm cụ thể nào về tài sản đối với cam kết bảo đảm của mình, không phải chịu nghĩa vụ trả nợ thay cho người vay nếu không trả được nợ, tức là trách nhiệm pháp lý là bằng không.

Việc bảo đảm bằng tín chấp thực chất là không có sự bảo đảm nào về tài sản, mà chỉ là một dạng bảo đảm gắn vối cho vay đặc thù theo chính sách của Nhà nước. Vì vậy, mặc dù luật cho phép, nhưng nó chỉ là nhiệm vụ của các Ngân hàng chính sách hoặc mỏ rộng nữa là của các tổ chức tín dụng có vốn chi phốỉ của Nhà nưổc, chứ không bắt buộc ấp dụng và không có ý nghĩa đối với các tổ chức tín dụng khác.

Cần có sự phân biệt giữa cho vay tín chấp với việc cho vay không có tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh. Trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, khác hẳn với việc cho vay tín chấp. Khái niệm cho vay tín chấp vẫn được sử dụng phổ biến trên thực tế lâu nay, không phải là hình thức cho vay tín chấp theo quy định của ba Bộ luật Dân sự, mà là cho vay không có tài sản bảo đảm trong các trường hợp khác.

Tuy nhiên, dù là cho vay không có tài sản bảo đảm đi chăng nữa thì các tổ chức tín dụng cũng phải dựa trên một sự bảo đảm nhất định nào đó về khả năng tài chính để thu hồi vốn.

Ngoài ra, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bỏ chủ thể giao dịch dân sự là “hộ gia đình” nhưng trong điều luật Ịtrên lại vẫn quy định chủ thể “hộ gia đình nghèo”, thay vì phải quy định đúng là “các thành viên của hộ gia đình nghèo”. Do đó, việc bảò đảm bằng tín chấp cho “hộ gia đình nghèo” vay vốn trong trường hợp này cần được hiểu là bảo đảm cho các thành viên của hộ gia đình nghèo vay vốn.

Nghị định số 21/2021/NĐ-CP quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức tín dụng và bên vay vốn như sau:

Thứ nhất, tổ chức chính trị – xẩ hội có nghĩa vụ: xác nhận theo yêu cầu của tổ chức tín dụng về đỉều kiện, hoàn cảnh của cá nhân, hộ gia đình nghèo khi vay vốn tại tổ chức tín dụng đó; chủ động hoặc phôi hợp chặt chẽ với tổ chức tín dụng giúp đỡ, hướng dẫn, tạo điều kiện cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn; giám sát việc sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả; đôn đốc trả nợ đầy đủ, đúng hạn cho tổ chức tín dụng;

Thứ hai, tổ chức chính trị – xã hội có quyền từ chối bảo đảm bằng tín chấp, nếu xét thấy cá nhân, hộ gia đình nghèo không có khả năng sử dụng vốn vay để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ và trả nợ cho tổ chức tín dụng;

Thứ ba, tổ chức tín dụng có nghĩa vụ phôi hợp với tổ chức chính trị – xã hội bảo đảm bằng tín chấp trong việc cho vay và thu hồi nợ;

Thứ tư, tổ chức tín dụng có quyền yêu cầu tổ chức chính trị – xã hội bảo đảm bằng tín chấp phôi hợp trong việc kiểm tra sử dụng vốn vay và đôn đốc trả nợ;

Thứ năm, bên vay vốn có nghĩa vụ: sử dụng vốn vay đúng mục đích đã cam kết; tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức tín dụng và tổ chức chính trị – xã hội kiểm tra việc sử dụng vốn vay; trả nợ đầy đủ gốc và lãi vay đúng hạn cho tổ chức tín dụng.