Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật Hình sự của Công ty luật LVN Group

>> Luật sư tư vấn pháp luật Hình sự, gọi:  1900.0191

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật của Công ty Luật Minh Khuê. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ Luật sư của LVN Group của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

Cơ sở pháp lý

Bộ luật hình sự năm 2015, luật sửa đổi bổ sung năm 2017

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

Luật sư tư vấn

1. Các trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại

Theo quy định tại Điều 155 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì những trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại:

“Điều 155. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại

1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.

2. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.

3. Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức”.

Theo quy định trên thì 10 tội danh khởi tố theo yêu cầu của bị hại bao gồm:

– Trường hợp 1: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Khoản 1 Điều 134).

– Trường hợp 2: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Khoản 1 Điều 135).

– Trường hợp 3: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Khoản 1 Điều 136).

– Trường hợp 4: Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Khoản 1 Điều 138).

– Trường hợp 5: Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Khoản 1 Điều 139).

– Trường hợp 6: Tội hiếp dâm (Khoản 1 Điều 141).

– Trường hợp 7: Tội cưỡng dâm (Khoản 1 Điều 143).

– Trường hợp 8: Tội làm nhục người khác (Khoản 1 Điều 155).

– Trường hợp 9: Tội vu khống (Khoản 1 Điều 156)

– Trường hợp 10: Tội xâm phạm quyền Sở hữu công nghiệp (Khoản 1 Điều 226).

Nguyên nhân của việc quy định những trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại cần căn cứ vào tính chất của tội phạm. Đối với tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, lợi ích của nhà nước, xã hội và của người khác và trật tự an ninh, công cộng. Theo đó, tùy theo hành vi được thực hiện mà pháp luật hình sự quy định sẽ khởi tố người thực hiện hành vi phạm tội mà không phụ thuộc vào việc người bị khởi có yêu cầu hay không để đảm bảo mục đích trừng trị tội phạm, giáo dục người phạm tội cũng như người đang có ý định thực hiện tội phạm. Còn những quy định về tội phạm theo Điều 155 căn cứ khách thể: xâm phạm đến đời sống riêng tư, danh dự, nhân phẩm họ thường có tâm lý không muốn nhiều người can thiệp, cũng như nhiều người biết. Vì vậy, pháp luật trao cho họ quyền được tự định đoạt trong vấn đề có trừng trị người phạm tội hay không.

Nhận thấy loại tội của bạn thuộc  Điều 260. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ không thuộc quy định là những tội phạm khởi tố do yêu cầu của bị hại. Nên bạn vẫn sẽ bị cơ quan công an điều tra và khởi tố.

2. Một số vướng mắc khi giải quyết các vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại

2.1 Bị hại không hợp tác trong quá trình giải quyết vụ án 

Thực tiễn giải quyết vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại, các vụ án về tội: “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác” luôn chiếm tỷ lệ cao trong các tội chỉ được khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại. Đối với vụ án cố ý gây thương tích thì yêu cầu bắt buộc đối với cơ quan điều tra phải xác định được tỷ lệ thương tích của bị hại, bởi chỉ khi xác định được phần trăm tỉ lệ thương tích của bị hại thì cơ quan điều tra mới có căn cứ để khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên, nhiều trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng không thể xử lý được vì bị hại không hợp tác, từ chối giám định để xác định tỷ lệ thương tích gây khó khăn trong việc giải quyết vụ án.

2.2 Giới hạn nội dung giải quyết vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại

Trường hợp vụ án có nhiều bị hại nhưng chỉ một hoặc một số người yêu cầu khởi tố vụ án, những người còn lại không yêu cầu khởi tố vụ án do nhiều nguyên nhân khác nhau đã phát sinh vướng mắc trong việc xác định những người không yêu cầu khởi tố vụ án có được coi là bị hại không, trường hợp này có khởi tố vụ án hình sự hay không. Nếu cơ quan tiến hành tố tụng không ra quyết định khởi tố vụ án hình sự sẽ không bảo vệ được quyền, lợi ích của người bị hại có yêu cầu khởi tố và ngược lại nếu ra quyết định khởi tố vụ án hình sự lại ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của người bị hại không có yêu cầu khởi tố.

2.3 Giải quyết thế nào khi bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án tại giai đoạn xét xử phúc thẩm

Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 không giới hạn quyền rút yêu cầu khởi tố vụ án của bị hại; bị hại có thể rút yêu cầu khởi tố vụ án ở giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm hoặc giai đoạn xét xử phúc thẩm, vấn đề là cơ quan tiến hành tố tụng phải giải quyết yêu cầu của bị hại một cách hợp lý, đúng quy định pháp luật.

 Khoản 2 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định “trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ”. Quy định này chỉ hợp lý trong trường hợp bị hại rút yêu cầu khởi tố ở giai đoạn điều tra, truy tố, trước khi mở phiên tòa sơ thẩm hoặc tại phiên tòa sơ thẩm. Căn cứ, thủ tục đình chỉ vụ án trong các trường hợp này được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 230; khoản 1 Điều 248 và khoản 1 Điều 282 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Thực tế có thể phát sinh trường hợp bị hại rút yêu cầu khởi tố trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm. Khi bị hại rút yêu cầu khởi tố ở giai đoạn xét xử phúc thẩm sẽ khó khăn cho cấp phúc thẩm trong vấn đề xử lý, bởi lẽ các quy định về xét xử phúc thẩm của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 không đề cập đến vấn đề bị hại rút yêu cầu khởi tố và hướng giải quyết yêu cầu như thế nào? Sau đây, tác giả phân tích từng trường hợp cụ thể:

Trường hợp thứ nhấtbị hại rút yêu cầu khởi tố trước khi mở phiên tòa xét xử phúc thẩm. Trường hợp này Toà án phải giải thích cho bị hại về hậu quả của việc rút yêu cầu khởi tố và Tòa án vẫn phải mở phiên tòa xét xử vụ án, không thể đình chỉ vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 282 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 như đối với thủ tục xét xử sơ thẩm được. Bởi lẽ, thủ tục xét xử phúc thẩm không quy định đình chỉ vụ án mà chỉ có đình chỉ xét xử phúc thẩm. Nếu Tòa án căn cứ vào việc rút yêu cầu của bị hại để đình chỉ xét xử phúc thẩm thì bản án sơ thẩm sẽ có hiệu lực pháp luật, khi đó việc rút yêu cầu khởi tố của bị hại sẽ không có ý nghĩa, người phạm tội vẫn phải chấp hành hình phạt theo quyết định của bản án sơ thẩm.

Trường hợp thứ hai, bị hại rút yêu cầu khởi tố tại phiên tòa phúc thẩm. Trường hợp này Tòa án cũng không đình chỉ vụ án như tại phiên tòa sơ thẩm, về nguyên tắc và thủ tục tố tụng, Tòa án phải căn cứ vào khoản 2 Điều 155; điểm d khoản 1 Điều 355 BLTTHS năm 2015 để hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Tuy nhiên, đối chiếu Điều 359 BLTTHS năm 2015 quy định về căn cứ để hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án lại không có trường hợp bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án. BLTTHS không quy định cụ thể vấn đề bị hại rút yêu cầu khởi tố ở giai đoạn xét xử phúc thẩm dẫn đến quyền rút yêu cầu khởi tố của bị hại được luật quy định, nhưng khi quyền này được thực hiện trên thực tế, cơ quan tiến hành tố tụng lại không có cơ sở pháp lý để giải quyết đúng theo nguyên tắc, thủ tục xét xử phúc thẩm.

3. Một số các kiến nghị, giải pháp 

– Thứ nhất, cơ quan có thẩm quyền cần quy định rõ nghĩa vụ của bị hại trong việc giám định thương tích; trình tự, thủ tục, điều kiện dẫn giải bị hại đi giám định thương tích nếu bị hại từ chối giám định mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan.

– Thứ hai, cơ quan có thẩm quyền cần hướng dẫn để các cơ quan tiến hành tố tụng thống nhất thực hiện các trường hợp: Vụ án có nhiều bị hại nhưng chỉ một hoặc một số người yêu cầu khởi tố vụ án, những người còn lại không yêu cầu khởi tố vụ án; vụ án có nhiều người cùng thực hiện hành vi phạm tội nhưng bị hại chỉ yêu cầu khởi tố vụ án đối với hành vi của một hoặc một số bị can, bị cáo.

– Thứ ba, cơ quan có thẩm quyền sớm có văn bản hướng dẫn cụ thể, rõ ràng trường hợp bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự ở giai đoạn xét xử phúc thẩm hoặc bổ sung thêm khoản 3 Điều 359 BLTTHS năm 2015 căn cứ để hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.

Ths LÊ ĐÌNH NGHĨA (Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 5)

Nguồn: Tạp chí Tòa án

Trên đây là tư vấn của chúng tôi.  Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Nguyễn Thị Thu Nga – Chuyên viên tư vấn pháp luật Phòng Hỗ trợ khách hàng – Công ty Luật LVN Group