1. Khái niệm

Chính sách xã hội đối với phụ nữ được hiểu là hệ thống các chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước có liên quan đến phụ nữ đã được thể chế hóa nhằm tạo điều kiện cho người phụ nữ phát huy năng lực của mình trên mọi lĩnh vực của cuộc sống và đảm bảo công bằng xã hội giữa phụ nữ và nam giới.

Quán triệt quan điểm giải phóng phụ nữ gắn liền với giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, các chính sách xã hội đối với phụ nữ và gia đình ở nước ta đã sớm được hoạch định ngay từ ngày đầu tiên của Nhà nước. Tại điều 62, Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã nêu rõ: “Mọi công dân, nữ cũng như nam đều có quyền bình đằng trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và trong gia đình. Mọi hành vi phân biệt đối xử và vi phạm nhân quyền của phụ nữ đều bị cấm. Phụ nữ và nam giới làm việc như nhau thì hưởng lương ngang nhau. Lao động nữ có quyền nghỉ đẻ”.

Với quy định này, Việt Nam là một trong số ít quốc gia đi đâì trong việc thể chế hóa và đưa vào cuộc sống các nguyên tắc nam nữ bình quyền. Theo đó, Việt Nam cũng là nước Châu Á đầu tiên ký công ước quốc tế về chống mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ. Sự tiến bộ và công bằng xã hội không chỉ được thể hiện thông qua Hiến pháp mà còn trong Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bình đẳng giới, Bộ Luật Lao động…

2. Vị trí, vai trò của chính sách đổi với phụ nữ

Chính sách xã hội đối với phụ nữ ở nước ta thể hiện một số vai trò rõ rệt như sau:

– Chính sách xã hội đối với phụ nữ góp phần đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội trong mọi lĩnh vực và đảm bảo cho sự phát triển toàn diện của phụ nữ. Công bằng và tiến bộ xã hội đối với phụ nữ là công bằng, tiến bộ về quyền con người và tạo điều kiện thực hiện cấc quyền đó của phụ nữ, tạo ra cơ hội phát triển và năng lực thực hiện các cơ hội phát triển của phụ nữ ở mỗi quốc gia.

– Hoạch định, thực thi chính sách còn xử lý và điều tiết các mối quan hệ bất bình đẳng giới trong xã hội trên các mặt chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục,… tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển một cách toàn diện và có cơ hội ngang nhau khi tiếp cận với các nguồn lực trong xã hội.

– Hoạch định và thực thi chính sách xã hội đối với phụ nữ có vai trò quan trọng trong thực hiện hòa nhập xã hội cho phụ nữ, tạo điều kiện và cơ hội để phụ nữ nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật, phát huy khả năng, nội lực của phụ nữ, thu hút phụ nữ vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh, vào lãnh đạo, quản lý xã hội.

– Chính sách xã hội đốii với phụ nữ còn có vai trò đảm bảo cho người phụ nữ phát triển bền vững của các gia đình và xã hội nhờ nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội. Các chính sách hướng vào giải quyết việc làm cho phụ nữ, tăng thu nhập, xóa bỏ bạo lực, tao cơ hội cho phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội…

3. Một số chính sách đối với phụ nữ

Đến thời điểm hiện nay, Việt Nam cũng đã xây dựng và hình thành hệ thống chính sách xã hội đối với phụ nữ cơ bản đầy đủ, cụ thể như sau:

Hiến pháp năm 1992

Về cơ bản, quyền của phụ nữ trong Hiến pháp năm 1992 kế thừa những quy định tiến bộ của Hiến pháp năm 1980, nhung nhấn mạnh thêm: “Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ” (Điều 63).

Hiến pháp sửa đổi năm 2013

+ Điều 26 Hiến pháp nhấn mạnh: Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt; Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội; nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.

+ Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 có hiệu lực ngày 1/1/2016, phụ nữ được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội như: Chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất, thất nghiệp, mất sức lao động… Bên cạnh đó, Luật còn quy định quyền lợi mang tính đặc thù đối với người phụ nữ như: Lao động nữ được hưởng các chế độ khám thai (nghỉ việc có hưởng lương trợ cấp), nghỉ việc hưởng lương trợ cấp sinh đẻ bằng 100% tiền lương, dưỡng sức sau khi sinh nếu sức khỏe yếu. Ngoài ra, các đối tượng xã hội là phụ nữ cũng được hưởng trợ giúp vật chất với tư cách đối tượng cứu trợ xã hội.

+ Luật hôn nhân và gia đình 2014;

+ Luật phòng chống bạo lực gia đình 2007;

+ Bộ Luật Lao động 2019 dành một chương (chương X) quy định riêng về Lao động nữ;

+ Luật bình đẳng giới được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2006 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2007;

+ Chiến lược Quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ;

+ Chính sách chống buôn bán phụ nữ và trẻ em;

+ Chính sách đối với nữ thanh niên xung phong;

+ Chính sách đối với phụ nữ nhiễm HIV trong thời kỳ mang thai;

+ Chính sách đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nữ;

+ Chính sách thai sản cho phụ nữ nông thôn;

+ Nghị quyết 57/NQ ngày 01 tháng 12 năm 2009 ban hành chương trình hành động của chính phủ giai đoạn đến năm 2020 thực hiện nghị quyết 11 – NQ/ TW ngày 27 tháng 4 năm 2007 của bộ chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

+ Nghị định số 39/2015/NĐ- CP ngày 27 tháng 4 năm 2015;

+ Quy định chính sách hỗ trợ cho phụ nữ thuộc hộ nghèo là người dân tộc thiểu số khi sinh con đúng chính sách dân số.

4. Thực trạng thực hiện chính sách đối với phụ nữ

* Thành tựu

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước thực hiện nhiều bước đột phá về nhận thức và hành động, từ khía cạnh luật pháp, chính sách đến thực tiễn và đạt được nhiều thành tựu quan trọng về bình đẳng giới và chính sách xẫ hội đối với phụ nữ. Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong vòng 20 năm qua. Điểm nổi bật trong việc bảo đảm quyền lợi về giới ở Việt Nam là việc hoàn thiện khung luật pháp, chính sách về bình đẳng giới.

Theo Báo cáo Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ 2013 (MDG 2013), mục tiêu bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho phụ nữ là một trong 3 mục tiêu thiên niên kỷ đã được hoàn thành trước thời hạn năm 2015.

Việt Nam đã đạt được một số thành tựu quan trọng trong việc thúc đẩy quyền phụ nữ như xây dựng và ban hành các văn bản pháp quy thể hiện nguyên tắc về bình đẳng giới, không phân biệt đối xử theo quy định của Luật Bình đẳng giới 2006 và Công ước của Liên hợp quốc về xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ, lồng ghép bình đẳng giới trong việc xây dựng và thực thi pháp luật.

Việt Nam cũng ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 với mục tiêu nâng cao nhận thức, thu hẹp khoảng cách về giới và nâng cao vị thế của phụ nữ; tích cực thực hiện các sáng kiến quốc tế và khu vực nhằm thúc đẩy việc bảo vệ quyền của phụ nữ và chống phân biệt đối xử đối với phụ nữ.

Trong Báo cáo quốc gia của Việt Nam về việc thực hiện quyền con người theo cơ chế kiểm điểm định kỳ phổ cập của Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc mà Việt Nam là thành viên cho thấy, chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ được tập trung triển khai ở những vùng và khu vực có sự bất bình đẳng và nguy cơ bất bình đẳng cao. Điều này đã góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn bán phụ nữ và bạo lực trong gia đình, tạo điều kiện để phụ nữ tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu công việc, nhiệm vụ.

Chính phủ cũng triển khai các giải pháp trong việc thực thi pháp luật cũng như hợp tác quốc tế nhằm vượt qua những thách thức chủ yếu liên quan tới nhận thức về bình đẳng giới; xóa bỏ bạo lực giới và bạo lực gia đình; khoảng cách về việc làm, thu nhập, địa vị xã hội…

Tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội khóa XIII (2011-2016) đạt 24,4%, đưa Việt Nam nằm trong nhóm nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao ở khu vực và thế giới (đứng thứ 43/143 nước trên thế giới và thứ 2 trong ASEAN). Phụ nữ đảm nhiệm nhiều vị trí lãnh đạo chủ chốt của đất nước như Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, Bộ trưởng; 14/30 Bộ hoặc cơ quan trực thuộc Chính phủ có Thứ trưởng là nữ. Ở các địa phương, nhiều phụ nữ giữ vai trò chủ chốt ở các cấp, các ngành, góp phần giải quyết các vấn đề quan trọng. Nữ doanh nhân là người dân tộc thiểu số tăng, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số được phát huy.

Hiện nay, tỷ lệ lao động có việc làm là nữ giới chiếm 49%. Tính đến hết năm 2011, tỷ lệ phụ nữ biết chữ là 92%; khoảng 80% trẻ em gái ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số được đi học đúng tuổi. Tỷ lệ nữ sinh viên chiếm trên 50%, tỷ lệ thạc sỹ là nữ chiếm hơn 30% và 17,1% tiến sỹ là nữ giới.

Nỗ lực bảo đảm bình đẳng giới của Việt Nam đã được quốc tế ghi nhận, theo xếp hạng năm 2012 của Liên hợp quốc về chỉ số bất bình đẳng giới, Việt Nam xếp thứ 47/187 quốc gia, so với vị trí 58/136 quốc gia năm 2010 (thứ hạng càng gần 0 càng thể hiện sự bình đẳng cao)..

* Hạn chế:

Trong thời gian qua, Nhà nước cơ bản đã ban hành tương đối đầy đủ chính sách pháp luật về phụ nữ. Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện cho thấy vẫn còn một số hạn chế, bất cập nhất định. Đây là những vấn đề cản trở việc thực thi pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật.

Từ thực tiễn cuộc sống cho thấy, một số quy định còn tạo bất bình đẳng giữa nam và nữ như quy định tuổi nghỉ hưu đối với nữ là 55, nam là 60; hay việc chậm ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện dẫn đến các chính sách, quy định chậm đi vào cuộc sống. Đơn cử, Nghị định số 39/2015/NĐ-CP quy định chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nghèo là người dân tộc thiểu số khi sinh con đúng chính sách dân số. Cụ thể, sau 9 năm kể từ khi Luật Bình đẳng giới được ban hành, chính sách này vẫn chưa được thực hiện; nghị định được ban hành nhung còn phải chờ Thông tư hướng dẫn. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, khoản 4 Điều 14 Luật Bình đẳng giới quy định “Nữ cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới 36 tháng được hỗ trợ theo quy định của Chính phủ” hay trong lĩnh vực chính trị, tại điểm a khoản 5 Điều 11 Luật Bình đẳng giới quy định “Bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước phù họp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới”. Tuy nhiên, đến thời điểm này, sau 10 năm luật này có hiệu lực, các quy định trên rất khó thực thi do chưa có các văn bản hướng dẫn.

Thực tiễn cũng cho thấy, một số chính sách, biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới đã được ban hành nhưng không phát huy hiệu quả. Chẳng hạn, như quy định “Các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ được ưu đãi về thuế và tài chính theo quy định của pháp luật” (điểm a khoản 2 Điều 12) là một biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, nhưng trong thực tiễn, hầu hết các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ không được hưởng lợi. Nguyên nhân là do các quy trình, thủ tục để được hưởng các chính sách ưu đãi về thuế đối với doanh nghiệp khá phức tạp, số tiền được giảm thuế chưa bù đắp được các chi phí khi áp dụng các ưu đãi đành cho lao động nữ, vì vậy, các doanh nghiệp thường ngại hoặc không muốn tiếp cận với chính sách ưu đãi này.

Ngoài ra, một số quy định còn mang tính định tính, khó định lượng (tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc hội; tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước); quy định nguồn tài chính cho hoạt động bình đẳng giới. Định kiến giới vẫn còn tồn tại khá phổ biến trong đời sống xã hội với danh nghĩa là các giá trị truyền thống, các phong tục tập quán. Vì vậy, việc thực thi pháp luật về bình đẳng giới, bảo đảm người phụ nữ được thụ hưởng các quyền luật định gặp rất nhiều khó khăn trong thực tiễn, nhất là ở vùng nông thôn, vùng kinh tế khó khăn.

Vấn đề khác cũng cần được quan tâm là rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật và chính sách gây bất lợi đối với phụ nữ trong các lĩnh vực; bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi văn bản quy phạm pháp luật, tăng các chính sách bù đắp dành riêng cho phụ nữ theo từng nhóm. Cụ thể, đối với nữ cán bộ, công chức, viên chức cần có các chính sách, quy định pháp luật về tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại, quy hoạch, bổ nhiệm, các vấn đề an sinh xã hội hỗ trợ hài hòa công việc xã hội, gia đình và tuổi lao động. Đối với phụ nữ nông thôn liên quan chính sách, quy định pháp luật bảo đảm cơ hội và tạo điều kiện để xóa đói, giảm nghèo, từng bước vươn lên làm giàu; tổ chức tốt cuộc sống gia đình, chăm sóc, nuôi dạy con tốt; bảo hiếm xã hội (thai sản, tuổi già); an toàn và vệ sinh lao động. Đổi với lao động nữ (nhất là lao động trong khu công nghiệp, khu chế xuất, lao động ngoài nhà nước) cần tập trung đề ra những chính sách, quy định pháp luật về nhà ở, nhà trẻ, mẫu giáo, việc làm ổn định, tiền lương và thu nhập. Đối với phụ nữ làm chủ doanh nghiệp, chủ hộ kinh doanh cá thể cần có chính sách, quy định pháp luật bảo đảm cơ hội và tạo điều kiện thúc đẩy thương mại, xuất khẩu hàng hóa và có giảm thuế trong thời gian nghỉ sinh con.

Việc ban hành và thực thi các biện pháp mạnh để xóa bỏ định kiến giới; tăng cường các biện pháp khôi phục hương ước lành mạnh; coi trọng công tác đào tạo và bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho phụ nữ cần được coi trọng hơn nữa. Tăng cường việc tập huấn, bồi dưỡng kiến thức giới, lồng ghép vấn đề bình đẳng giới cho đội ngũ cán bộ làm công tác hoạch định chính sách, cán bộ pháp chế của các bộ, ngành, địa phương. Chú trọng và nâng cao hiệu quả việc tổ chức thi hành pháp luật nhằm bảo đảm các quy định của pháp luật sớm được thực thi và thực thi đúng. Quan tâm chỉ đạo, đẩy mạnh kiểm tra, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật.

5. Định hướng hoàn thiện chính sách xã hội đối với phụ nữ

Quyền của phụ nữ được ghi nhận trong các bản Hiến pháp, đặc biệt là Điều 26 Hiến pháp năm 2013: “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”.

Tuy nhiên, khác với nam giới, phụ nữ phải đảm nhiệm nhiều vai trò: Vừa là lao động, vừa là vợ, là mẹ, có nghĩa vụ, bổn phận chăm sóc gia đình. Do đó, cần thiết phải có những quy định riêng nhằm mục đích bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ và đinh hướng hoàn thiện chính sách xã hội đối với phụ nữ. Các quy định dành riêng cho phụ nữ được quy định tập trung tại Luật Bình đẳng giới năm 2006, Bộ luật Lao động năm 2019 (BLLĐ), Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Hình sự năm 2015, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.

Chính sách hỗ trợ, khuyến khích

– Nhà nước bảo đảm quyền làm việc bình đẳng của lao động nữ, khuyến khích người sử dụng lao động tạo điều kiện để lao động nữ có việc làm thường xuyên, áp dụng rộng rãi chế độ làm việc theo thời gian biểu linh hoạt, làm việc không trọn thời gian, giao việc làm tại nhà và có biện pháp tạo việc làm, cải thiện điều kiện lao động, nâng cao trình độ nghề nghiệp, chăm sóc sức khoẻ, tăng cường phúc lợi về vật chất và tinh thần của lao động nữ nhằm giúp lao động nữ phát huy có hiệu quả năng lực nghề nghiệp, kết hợp hài hòa cuộc sống lao động và cuộc sống gia đình.

– Người sử dụng lao động, có sử dụng nhiều lao động nữ được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về thuế. Các khoản chi tăng thêm cho lao động nữ được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của Bộ Tài chính. Nhà nước có kế hoạch, biện pháp tổ chức nhà trẻ, lớp mẫu giáo ở nơi có nhiều lao động nữ.

Nghĩa vụ của người sử dụng lao động đối với lao động nữ

Theo quy định tại Bộ Luật lao động 2019 thì người sử dụng lao động khi sử dụng lao động nữ phải tuân theo một số nghĩa vụ sau đây:

– Bảo đảm thực hiện bình đẳng giới và các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương và các chế độ khác. Cụ thể: người sử dụng lao động có trách nhiệm thực hiện quyền bình đẳng giữa lao động nữ và lao động nam trong tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, tiền lương, khen thưởng, thăng tiến, trả công lao động, các chế độ về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, điều kiện lao động, an toàn lao động, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, các chế độ phúc lợi khác về vật chất và tinh thần.

– Tham khảo ý kiến của lao động nữ hoặc đại diện của họ khi quyết định những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của phụ nữ. Bảo đảm có đủ buồng tắm và buồng vệ sinh phù họp tại nơi làm việc.

– Giúp đỡ, hỗ trợ xây dựng nhà trẻ, lớp mẫu giáo hoặc một phàn chi phí gửi trẻ, mẫu giáo cho lao động nữ. Căn cứ điều kiện cụ thể, người sử dụng lao động xây dựng phương án, kế hoạch giúp đờ, hỗ trợ, xây dựng nhà trẻ, lóp mẫu giáo hoặc hỗ trợ một phần chi phí gửi trẻ, mẫu giáo đối với lao động nữ có con trong độ tuổi gửi trẻ, mẫu giáo bằng tiền mặt hoặc hiện vật. Mức và thời gian hỗ trợ do người sử dụng lao động thỏa thuận với đại diện lao động nữ.

Chế độ làm việc, chế độ chính sách đối với lao động nữ khi mang thai, sinh nở

– Theo quy định tại người sử dụng lao động và các văn bản bản hướng dẫn thi hành, người sử dụng lao động không được sử dụng lao động nữ làm việc ban đêm, làm thêm giờ hoặc đi công tác xa trong trường họp: (i) Lao động nữ mang thai từ tháng thứ 7, hoặc (ii) đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

– Lao động nữ làm công việc nặng nhọc khi mang thai từ tháng thứ 7, được chuyển làm công việc nhẹ hơn hoặc được giảm bớt 1 giờ làm việc hàng ngày mà vẫn hưởng đủ lương. Người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động nữ vĩ lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết hoặc người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động. Trong thời gian mang thai, nghỉ hưởng chế độ khi sinh con theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, lao động nữ không bị xử lý kỷ luật lao động.

– Lao động nữ trong thời gian hành kinh được nghỉ mỗi ngày 30 phút, tối thiểu là 03 ngày trong một tháng; trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi, được nghỉ mỗi ngày 60 phút trong thời gian làm việc để cho con bú, vắt, trữ sữa, nghỉ ngơi. Thời gian nghỉ vẫn được hưởng đủ tiền lương theo hợp đồng lao động.

– Điều 139 Bộ Luật lao động năm 2019 quy định: “Lao động nữ được nghỉ trước và sau khi sinh con là 06 tháng”. Trong thời gian nghỉ thai sản, các chế độ áp dụng đối với lao động nữ được thực hiện theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, trong đó, chế độ hưởng nguyên lương là quan trọng nhất, bảo đảm quyền lợi về mặt vật chất cho người lao động nữ.

– Hết thời gian nghỉ thai sản 06 tháng, nếu có nhu cầu, lao động nữ có thể nghỉ thêm một thời gian không hưởng lương theo thỏa thuận với người sử dụng lao động. Hoặc lao động nữ có thể đi làm sớm hơn thời gian nghỉ thai sản theo quy định, tuy nhiên, Điều 139 Bộ Luật lao động năm 2019 quy định: “ Trước khi hết thời gian nghỉ thai sản theo quy định tại khoản 1 Điều này, lao động nữ có thể trở lại làm việc khi đã nghỉ ít nhất được 04 tháng nhưng người lao động phải báo trước, được người sử dụng lao động đồng ý và có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về việc đi làm sớm không có hại cho sức khỏe của người lao động”.

– Ngoài ra, lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ; người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi; lao động nữ đặt vòng tránh thai, thực hiện các biện pháp kế hoạch hóa gia đình đều là những trường hợp được hưởng chế độ thai sản theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.

Quyền đơn phương chẩm dứt, tạm hoãn hợp đồng lao động của lao động nữ mang thai

Lao động nữ mang thai nếu có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về việc tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi thì có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc tạm hoãn thực hiện họp đồng lao động nhưng phải báo trước cho người sử dụng lao động, kèm theo ý kiến đề nghị của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về việc tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi. Thời hạn báo trước để đơn phương chấm dứt, tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động theo thời hạn mà cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền chỉ định.

Trường hợp tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, thời gian tạm hoãn do người lao động thỏa thuận với người sử dụng lao động, nhưng tối thiểu phải bằng thời gian do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền chỉ định tạm nghỉ. Trường hợp không có chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về thời gian tạm nghỉ thì hai bên thỏa thuận về thời gian tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động.

Quyền lợi của phụ nữ trong thi hành án

– Nữ phạm nhân phạm tội bị xử án tử hình mà có thai thì sẽ được chuyển sang chung thân.

Khoản 2, 3 và khoản 4 Điều 40 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; Không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này hoặc trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm, thì hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân”.

– Không xử lý hình sự đối với trường họp nữ hiếp dâm nam:

Tiếp nối tinh thần của pháp luật hình sự năm 1999, Bộ luật Hình sự năm 2015 không phân biệt rõ chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi hiếp dâm là nam giới hay nữ giới. Bất kỳ “người nào” thực hiện hành vi thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại Điều 141 của Luật mới đều phải bị xử lý. Tuy nhiên do xuất phát từ hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao về đường lối xét xử của loại tội này từ năm 1967 (từ khi chưa có Bộ luật Hình sự ra đời) cũng như từ thực tiễn xét xử đã tạo ra lối mòn tư duy và tiền lệ cho đến nay rằng chủ thể của tội hiếp dâm đa phần là nam giới.

– Người chồng ngoại tình dẫn đến ly hôn sẽ bị phạt tù, quy định cụ thể tại Điều 182 Bộ luật Hình sự năm 2015 như sau:

“Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường họp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đén 01 năm:

a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;

b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

Phạm tội thuộc một trong các trường họp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đén 03 năm:

a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;

b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó”.

Quyền lợi của phụ nữ quy định trong Luật Bình đẳng giới và các chiến lược quốc gia, chương trình hành động của Chính phủ, bộ, ngành, địa phương về bình đẳng giới và bảo vệ phụ nữ, trẻ em

– Xử lý chênh lệch lương hưu của lao động nữ nghỉ hưu trước và sau thời điểm 01/01/2018 theo Điều 56, Điều 74 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014. Bởi hiện nay vẫn còn hạn chế trong quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 là đối với nam thì việc điều chỉnh được thực hiện theo lộ trình, nhưng đối với nữ thì không theo lộ trình, dẫn đến tạo chênh lệch giữa mức hưởng lương hưu của lao động nữ có cùng thời gian đóng bảo hiểm xã hội (có dưới 30 năm đóng bảo hiểm xã hội) nghỉ hưu trước và sau thời điểm 01/01/2018.

– Giải quyết vấn đề bạo lực, buôn bán, xâm hại phụ nữ và trẻ em thông qua việc tiếp tục đẩy mạnh triển khai chương trình Phòng, chống mua bán người giai đoạn 2016 – 2020 của Chính phủ; Đề án Phòng ngừa và ứng phó bạo lực trên cơ sở giới của Bộ Lao động Thương binh và xã hội…

Như vậy, các quy định của pháp luật lao động Việt Nam về bảo vệ lao động nữ hiện nay là khá đầy đủ. Tuy nhiên, để các chính sách mới nêu trên thực sự đi vào cuộc sống một cách thiết thực, hiệu quả, người sử dụng lao động phải có trách nhiệm thực hiện đầy đủ pháp luật lao động bảo đảm quyền lợi cho lao động nữ, trong quá trình thực hiện có điều bất cập cần kiến nghị với Nhà nước để sửa đổi. Người lao động nữ cũng cần phải ý thức được tầm quan trọng của việc hiểu biết pháp luật lao động, một mặt để đóng góp xây dựng doanh nghiệp mặt khác tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Cùng với đó vai trò và trách nhiệm của tổ chức đại diện cho lao động nữ, cần nhanh chóng thành lập các tổ chức công đoàn và Ban nữ công trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Công đoàn trong các doanh nghiệp phải độc lập với chủ doanh nghiệp về tài chính và con người, chỉ có như vậy mới thực sự là tổ chức đại diện bảo vệ quyền lợi của người lao động nói chung và lao động nữ nói riêng. Công đoàn – Ban nữ công cần nắm chắc kiến thức về giới và pháp luật lao động để phổ biến các kiến thức về giới, bình đẳng giới và pháp luật cho lao động nữ nhằm nâng cao nhận thức của lao động nữ để họ tự bảo vệ quyền lợi và đóng góp cho xã hội