1. Mở đầu vấn đề

Bán phá giá trong thương mại quốc tế là hiện tượng xảy ra khi một loại hàng hóa được xuất khẩu (bán sang thị trường nước khác) với giá thấp hơn giá bán của mặt hàng đó tại thị trường nước xuất khẩu.Như vậy có thể hiểu một cách đơn giản là nếu giá xuất khẩu (giá XK) của một mặt hàng thấp hơn giá nội địa (giá thông thường) của nó thì sản phẩm đó được coi là bán phá giá tại thị trường nước nhập khẩu sản phẩm đó.
Bán phá giá là một hiện tượng xảy ra khi một loại hàng hoá được xuất khẩu sang thị trường khác (Thị trường nhập khẩu) lại có giá thấp hơn nhiều, bán phá giá sẽ xảy khi gặp phải một trong ba trường hợp sau giá bán thực tế trên thị trường thế giới nhỏ hơn chi phí sản xuất, giá xuất khẩu thấp hơn giá nội địa nhưng cao hơn chi phí sản xuất, giá xuất khẩu thấp hơn giá thấp nhất đang được bán trên thị trường thế giới. Khi xuất khẩu sang thị trường nước ngoài, sản phẩm xuất khẩu sẽ phải cạnh tranh với những sản phẩm đã sẵn có trong nội địa. Nhưng tuỳ thuộc vào cách sản xuất, phương pháp, nguyên vật liệu, nhân công ở các nước khác nhau mà giá trị gốc sẽ khác nhau đáng kể. Nếu không quy định về bán phá giá sẽ xảy ra hiện tượng hàng hoá của các nước nhập khẩu có giá thấp hơn rất nhiều so với sản phẩm nội địa đã có từ trước. Điều đó gây nhũng nhiễu thị trường, làm mất cân bằng sản phẩm, thành phần kinh tế và đặc biệt gây tổn hại nặng nề với những doanh nghiệp trong nước.

Những điều khoản của Hiệp định Bổ sung đề ra thủ tục công bằng và hợp lý mà các cơ quan áp dụng quốc gia phải tuân theo. Những điều khoản này có the chia thành nhóm trong các giai đoạn sau: (a) đệ đơn, (b) điều tra, (c) quyết định, (d) biện pháp áp dụng sau quyết định.

Dưới đây chúng ta sẽ nghiên cứu cụ thể từng giai đoạn trong từng mục sau.

 

2. Giai đoạn đệ đơn

Về nguyên tắc, cơ quan có thẩm quyền quốc gia chỉ mở một cuộc điều tra về những hoạt động phá giá căn cứ vào đơn đề nghị đuợc viết bởi hoặc nhân danh một ngành công nghiệp nước nhập khẩu. Đơn này phải kèm theo bằng chứng rõ ràng về sự có mặt của 3 yếu tố được nêu dưới đây. Điều 5 của Hiệp định Bổ sung quy định rõ ràng về nhũng thông tin cần phải cung cấp.

Những quy tắc quốc tế hiện có về phá giá chủ yếu là Điều VI của Hiệp định GATT và những điều khoản trong Hiệp định WTO 1994 về việc thi hành, đều nhằm mạc đích kiểm tra xem:

– Một sản phẩm được “đưa vào thị trường một nước khác với giá trị thấp hơn giá trị thông thường của nó”;

– Một ngành kinh tế nội địa ở nước nhập khẩu bị thiệt hại, đe doạ bị thiệt hại hay sự hình thành của ngành kinh tế đó bị chậm lại;

– Thiệt hại thực sự hay đe doạ bị thiệt hại do việc nhập khẩu vói giá thấp hơn giâ bình thường.

Mỗi thành tố này được quy định chi tiết hơn trong Hiệp định Bổ sung 1994 và được bổ sung thêm nhũng yêu cầu về thủ tục để chỉ đạo những cuộc điều tra chống phá giâ ở các nước. Hơn nữa, những quy tắc của WTO/GATT quy định vai trò của WTO trong việc giâm sát luật quốc gia và các cuộc điều tra quốc gia chống phá giá cũng như trong việc giải quyết các ttanh chấp giữa các bên ký kết trong việc thi hành các quy tắc của Hiệp định.

Bổ sung (i): Theo định nghĩa tại Điều 2 của Hiệp định Bổ sung 1994, “giá trị thông thường” là giá có thể so sánh được trong quâ trình mua bán bình thường của một sản phẩm tương tự được tiêu thụ ở nước xuất khẩu. Nếu không có giâ so sánh được tại thị trường của nước xuất khẩu thì giấ cả sẽ được phân tích dựa vào giá xuất khẩu tới một nước thứ ba hoặc là các chi phí sản xuất cộng với chi phí quản lý, chi phí bán hàng, câc chi phí chung và lọi nhuận. Khi đã được xác định, giá trị thông thường này được so sánh với giá bị coi là giá “phá giá” để xác định cái gọi là “biên độ phá giá”. “Sản phẩm tương tự” là sản phẩm giống hoặc dù không giống ở mọi khía cạnh thì cũng có những đặc trưng rất giống với những đặc trưng của sản phẩm đang xem xét.

Bổ sung(ii): Đối với thành tố thứ hai, việc xác định mức độ thiệt hại cần được kiêm tra độc lập xem liệu có sự gia tăng đáng kể về khối lượng hàng nhập khẩu không và liệu sự gia tăng này có ảnh hưởng đến giá cả của các mặt hàng tương tự ở thị trường trong nước không. Trong những hoàn cảnh đặc biệt thì lãnh thổ của một Nhà nước có thể được chia thành nhiều thị trường nhỏ mang tính cạnh tranh và các nhà sản xuất ở mỗi thị trường đó có thể được coi là một ngành kinh tế riêng biệt.

Bổ sung(iii): Thành tố thứ ba là mói liên kết nhân quả, có nghĩa là sự gia tăng hàng nhập khẩu phải là két quả của sự thay đổi về giá cả trên thị trường. Để xác định được mối liên kết này cần tính đến hàng loạt cấc nhân tố có liên quan và một số nhân tố đã được liệt kê với tính cách hướng dẫn trong Hiệp định Bổ sung 1994. Đặc biệt khi có sự đe dọa về thiệt hại vật chất thì việc xác định này tạo nên quyền tự do đáng kể cho cơ quan điều tra quốc gia.

 

3. Giai đoạn điều tra

Các cơ quan có thẩm quyền phải kiểm tra “độ chính xác cũng như sự đầy đủ của bằng chứng đã cung cấp” để xác định xem đơn đề nghị có đáng mở một cuộc điều tra hay không. Sự kiểm tra này có liên quan đến cùng những nội dung khác một câu hỏi là liệu đơn đề nghị này có thật sự do hoặc nhân danh ngành công nghiệp trong nước viết hay không? Các nhà quản lý sẽ không công khai về đơn đề nghị này cho đến khi có quyết định tiến hành điều tra. Vào lúc này, những nước có sản phẩm bị kiểm tra sẽ được thông báo và được công bố rộng rãi. Những điều khoản tiếp sau đưa ra các quy tắc mang tính thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan cần được giám sát trong qúa trình điều tra. Theo thông lệ, các cuộc điều tra phải kết thúc trong vòng 1 năm và trong bất kỳ trường hợp nào cũng không quá 18 tháng.

 

4. Giai đoạn quyết định

Để tránh những thiệt hại cho thị trường trong nước trong qúa trình điều tra và nếu những điều kiện khác đều được thoả mãn thì các nhà chức trách có thể áp dụng các biện pháp tạm thời. Những biện pháp này có thể gồm một mức thuế tạm thời hoặc một khoản ký quỹ bảo đảm.

Cuộc điều tra có thể kết thúc nếu như nhà xuất khẩu có liên quan đưa ra một cam kết tự nguyện và thỏa đáng “xem xét lại giá cả hoặc ngừng xuất khẩu sang khu vực đang điều tra với giá bán phá giá (gọi là cam kết giá cả). Các chi tiết được giải thích rõ ràng tại Điều 8 của Hiệp định Bổ sung.

Nếu tất cả các yêu cầu cần thiết đều được thoả mãn và không có một cam kết giá cả nào được đưa ra, thì nhà chức trách có thể quyết định áp dụng thuế chống phá giá đủ bù toàn bộ biên độ phá giá hoặc có thể ít hơn nhưng không được nhiều hơn.

Các biện pháp sau quyết định

Thuế chống phả giá được rà soát lại, hoặc theo sáng kiến nhà chức trách hoặc theo yêu cầu của bên liên quan, về nguyên tắc, mức thuế xác định sẽ không được áp dụng quá 5 năm, song cũng có những ngoại lệ đối với nguyên tắc này nếu như một số yêu cầu được đáp ứng.

 

5. Biện pháp chống bán phá giá 

Trong thương mại quốc tế, khi hàng hoá bị xem là bán phá giá thì chúng có thể bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá (antiduming) như thuế chống phá giá, đặt cọc hoặc thế chấp, can thiệp hạn chế định lượng hoặc điều chỉnh mức giá của nhà xuất khẩu nhằm triệt tiêu nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước nhập khẩu, trong đó thuế chống bán pháp giá và biện pháp phổ biến nhất hiện nay.

– Thuế chống bán phá giá là một loại thuế nhập khẩu bổ sung đánh vào những hàng hoá bị bán phá giá ở nước nhập khẩu nhằm hạn chế những thiệt hại do việc bán phán giá đưa đến cho ngành sản xuất của nước đó nhằm bảo đảm sự công bằng trong thương mại (nói chính xác đó là một sự bảo hộ hợp lý cho sản xuất trong nước). Thuế này đánh vào các nhà sản xuất riêng lẻ chứ không phải là thuế áp đặt chung cho hàng hoá của một quốc gia.

Nguyên tắc chung nêu ra những Hiệp định của WTO là không được phân biệt đối xử khi áp dụng thuế chống phá giá, tức là nếu hàng hoá bị bán phá giá được xuất khẩu từ những quốc giá khác nhau với cùng biên độ phá giá như nhau thì sẽ áp đặt mức thuế chống phá giá thuộc vào biên độ phá giá của từng nhà xuất khẩu chứ không phải áp dụng bình quân (ngay cả khi các nhà xuất khẩu từ cùng một quốc gia) và không được phép vượt quá biên độ phá giá đã được xác định.

Tuy nhiên, không phải bất kỳ trường hợp bán phá giá nào cũng bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá. Theo quy định của WTO và luật pháp của rất nhiều nước thì thuế chống bán phá giá chỉ được áp đặt khi hàng hoá được bán phá giá gây thiệt hại đáng kể hay đe doạ gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất ở nước nhập khẩu.

=> Như vậy, nếu một hàng hoá được xác định là có hiện tượng bán phá giá nhưng không gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất mặt hàng đó ở nước nhập khẩu thì sẽ không bị áp đặt thuế chống bán phá giá và các biện pháp chống bán phá giá khác. Thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước được hiểu là tình trạng suy giảm đáng kể về số lượng, mức tiêu thụ trong nước, lợi nhuận sản xuất, tốc độ phát triển sản xuất, việc làm cho người lao động, đầu tư tới các chỉ tiêu khác của ngành sản xuất trong nước hoặc dẫn đến khó khăn cho việc hình thành sản xuất trong nước. Bán phá giá được xác định dựa vào 2 yếu tố cơ bản là: Một là biên độ phá giá từ 2% trở lên; hai là số lượng, trị giá hàng hoá bán phá giá từ một nước vượt quá 3% tổng khối lượng hàng nhập khẩu (ngoại trừ trường hợp số lượng nhập khẩu của các hàng hoá tương tự mới nước có khối lượng dưới 3%, nhưng tổng số các hàng hoá tương tự của các nước khác nhau được xuất khẩu vào nước bị bán phá giá chiếm trên 7%).

Theo quy định của WTO, biên độ phá giá được xác định thông qua việc so sánh với mức giá có thể so sánh được của hàng hoá tương tự được xuất khẩu sang một nước thứ ba thích hợp, với điều kiện là mức giá có thể so sánh được này mang tính đại diện, hoặc được xác định thông qua so sánh với chi phí sản xuất tại nước xuất xứ hàng hoá cộng thêm khoản chi phí hợp lý cho quản trị, bán hàng, các chi phí chung khác và một khoản lợi nhuận. Như vậy, có thể hiểu rằng biên độ phá giá là mức chênh lệch giá thông thường của hàng hoá tương tự với mức giá xuất khẩu hiện tại. Việc xác định giá thông thường được tính toán rất phức tạp dựa trên cơ sở sổ sách và ghi chép của nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất là đối tượng đang được điều tra với điều kiện là sổ sách này phù hợp với các nguyên tắc kế toán được chấp nhận rộng rãi và phản ánh được một cách hợp lý của chi phí.

Theo quy định trong Hiệp định về chống bán pháp giá của WTO thì việc điều tra chỉ được tiến hành khi có đơn yêu cầu bằng văn bản của ngành sản xuất trong nước hoặc của người dân dành cho ngành sản xuất trong nước. Đơn yêu cầu sẽ được coi là đủ tư cách đại diện cho ngành sản xuất trong nước nếu như đơn này nhận được sự ủng hộ bởi các nhà sản xuất chiếm tối thiểu 50% tổng sản lượng của sản phẩm tương tự được bắt đầu nếu như các nhà sản xuất bày tỏ ý kiến tán thành điều tra chiếm ít hơn 25% tổng sản lượng của sản phẩm tương tự được ngành sản xuất trong nước làm ra.

 

Trên đây là nội dung Luật LVN Group sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

Luật LVN Group (Sưu tầm và biên tập).