Từ thực tiễn ấy, chúng ta đã nhận ra những hạn chế trong nhận thức và kinh nghiệm của các doanh nghiệp cũng như sự thụ động của các Hiệp hội, các cơ quan hữu trách. Để làm rõ vấn đề hơn nữa, chúng tôi tập trung phân tích về mặt lý luận và nhận thức những hạn chế cơ bản được coi là nhân tố ảnh hưởng đến khả năng ứng phó của doanh nghiệp trong các vụ việc về bán phá giá.

1. Những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng ứng phó của doanh nghiệp Việt Nam

1.1 Chưa nhận thức đúng đắn về bản chất pháp lý của hiện tượng bán phá giá

Có lẽ, vấn đề bán phá giá và pháp luật chống bán phá giá sẽ không tạo ra sự quan tâm của xã hội và luật pháp nếu không có sự kiện các sản phẩm cá tra, cá basa của Việt Nam nhập khẩu vào Hoa Kỳ bị cho là bán phá giá nên bị áp thuế chống bán phá giá đe dọa đến sự thịnh vượng của nhiều ngành kinh tế đang phát triển như chăn nuôi, chế biến … trong những năm đầu của thiên niên kỷ mới. Khoa học pháp lý Việt Nam đã tiếp nhận các lý thuyết về bán phá giá, pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu trong bối cảnh doanh nghiệp của chúng ta đang là bị đơn. Pháp luật chống bán phá giá được xây dựng không từ nhu cầu thực tế thị trường mà từ sức ép của quá trình hội nhập với tâm trạng bất bình về những tổn thất do biện pháp chống bán phá giá được các nước áp dụng đang gây ra cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam. Vì vậy, sự hạn chế trong hiểu biết về bản chất pháp lý của hành vi bán phá giá là điều tất yếu. Thực trạng pháp luật về chống bán phá giá đủ để chứng minh cho nhận định trên.

Những yếu tố làm giảm khả năng ứng phó của Việt Nam trong các vụ kiện bán phá giá

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoạigọi:  1900.0191

Trong pháp luật hiện hành tồn tại hai khái niệm bán phá giá được quy định trong Pháp lệnh Giá năm 2002 và Pháp lệnh Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004. Khoản 3 Điều 4 Pháp lệnh Giá coi “bán phá giá là hành vi bán hàng hoá, dịch vụ với giá quá thấp so với giá thông thường trên thị trường Việt Nam để chiếm lĩnh thị trường, hạn chế cạnh tranh đúng pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khác và lợi ích của Nhà nước”. Vì Pháp lệnh này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam nên quy định về bán phá giá trên không chỉ áp dụng cho sản phẩm nội địa mà còn có thể áp dụng với những sản phẩm nhập khẩu được mua bán trên thị trường Việt Nam. Mặc dù được đánh giá là văn bản pháp luật đầu tiên điều chỉnh bán phá giá, song Pháp lệnh Giá đã đưa ra một định nghĩa ngây thơ và mơ hồ về bán phá giá. Từ định nghĩa trên, có hai căn cứ để xác định về hiện tương bán phá giá: thứ nhất, giá bán của hàng hóa, dịch vụ quá thấp so với giá thông thường trên thị trường Việt Nam; thứ hai, mục đích của doanh nghiệp thực hiện hành vi là chiếm lĩnh thị trường, hạn chế cạnh tranh đúng pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khác và lợi ích của Nhà nước. Các căn cứ trên dù được chi tiết hóa thì cũng khó có thể xác định rõ ràng và công bằng. Bởi, (i) Pháp luật thực sự gặp khó khăn khi xác định giá thông thường của hàng hóa, dịch vụ trên thị trường Việt Nam của một sản phẩm cụ thể để điều tra về hiện tượng bán phá giá. Riêng với hàng hóa nhập khẩu, sẽ là vô lý nếu sử dụng giá bán của chúng tại thị trường Việt Nam và giá thông thường cũng trên thị trường Việt Nam để quy kết chúng bán phá giá. Nếu làm như vậy chắc chắn sẽ tạo ra những xung đột lớn trong quan hệ thương mại với các nước có liên quan; (ii) Quy định mơ hồ về mức quá thấp của giá bán thực tế so với giá trị thông thường của hàng hóa, dịch vụ. Cho đến nay, các văn bản hướng dẫn Pháp lệnh Giá vẫn né tránh, không chi tiết hóa được nội dung của khái niệm bán phá giá. Do đó, chúng ta không thể hiểu được giá bán của hàng hóa, dịch vụ thấp hơn giá thông thường đến mức nào thì được coi là quá thấp để kết luận có bán phá giá; (iii) Mặt khác, khi sử dụng mục đích chiếm lĩnh thị trường, hạn chế cạnh tranh và khả năng gây thiệt hại cho các doanh nghiệp khác, cho Nhà nước là một trong hai căn cứ để kết luận về hành vi bán phá giá đã làm cho việc điều tra thêm phức tạp và không phù hợp với pháp luật về bán phá giá trong thương mại quốc tế. Có thể nói, quy định về bán phá giá trong Pháp lệnh Giá dường như chỉ có giá trị lịch sử mà thiếu điều kiện để phát huy hiệu lực thực tế.

Còn theo Điều 2 Pháp lệnh Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, thì : “Hàng hoá có xuất xứ từ nước hoặc vùng lãnh thổ bị coi là bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam nếu hàng hoá đó được bán với giá thấp hơn giá trị thông thường”. “Giá trị thông thường của hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam là giá có thể so sánh được của hàng hóa tương tự đang được bán trên thị trường nội địa của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường”. Khái niệm này đã kế thừa trọn vẹn quy định về bán phá giá trong Hiệp định Chống bán phá giá của WTO năm 1994. Tuy nhiên, sự tiếp nhận của pháp luật Việt Nam chỉ đơn giản là kế thừa những thành quả pháp lý đã qua phát triển trên dưới một thế kỷ mà chưa tích lũy đủ nhận thức lý luận và kinh nghiệm thực tế về bán phá giá.

Thực chất, pháp luật chống bán phá giá của WTO cũng chịu ảnh hưởng lớn và là sự thừa hưởng những thành tựu phát triển từ pháp luật chống bán phá giá của các nước phát triển. Quá trình phát triển của pháp luật chống bán phá giá ở các nước tiên phong chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Trong đó, sự thay đổi trong quan niệm về tính bất chính của hiện tượng bán phá giá, sự phát triển của quá trình tự do hóa thương mại và nhu cầu bảo hộ ngành sản xuất nội địa ngày càng cao, sự giảm sút năng lực cạnh tranh trên thương trường quốc tế và sự phát triển không ngừng của các thị trường đang phát triển … là những nhân tố cơ bản.

Vào thời sơ khai, quan niệm về tính bất chính của hiện tượng bán phá giá gắn liền với lý thuyết về định giá cướp đoạt (định giá hủy diệt – predatory pricing). Vì vậy, các chuẩn mực của lý thuyết cạnh tranh về hành vi định giá cướp đoạt được pháp luật chống bán phá giá sử dụng nhằm kết luận có hay không hiện tượng bán phá giá. Theo đó, để kết luận về hiện tượng bán phá giá, cơ quan điều tra phải xác định hai căn cứ: (i) giá xuất khẩu thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm tương tự tại nước xuất khẩu; và (ii) ý định phá hoại hoặc gây tổn hại tới ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu. Với quan niệm này, pháp luật chống bán phá giá thực sự mang sứ mệnh bảo vệ sự cạnh tranh lành mạnh trong thương mại quốc tế. Tuy nhiên, do lý thuyết về định giá cướp đoạt được nghiên cứu và hình thành từ các diễn biến cạnh tranh trên thị trường nội địa của một quốc gia, nên khi nó được sử dụng làm cơ sở lý luận cho pháp luật điều chỉnh quan hệ cạnh tranh trong thương mại quốc tế đã gây ra những phức tạp và khó khăn cho quá trình áp dụng. Việc điều tra xác định mức giá của sản phẩm nhập khẩu được bán phá giá mang tính cướp đoạt dường như khó thực hiện bởi có quá nhiều khác biệt về quan niệm, tập quán về chi phí sản xuất, chuẩn mực kế toán … Bối cảnh đó làm cho pháp luật chống bán phá giá ít được áp dụng ở thời kỳ đầu mới hình thành.

Khi tự do hoá thương mại phát triển, những áp lực từ thị trường như sự kêu đòi được bảo vệ từ các doanh nghiệp nội địa, nghiệp đoàn lao động … đã buộc các quốc gia phải tìm kiếm phương thức bảo hộ hợp pháp và hợp lý. Các nước phát triển, đặc biệt là Hoa Kỳ đã có những cải tiến trong việc đưa ra các căn cứ xác định bán phá giá, quá trình điều tra bán phá giá nhằm phụng sự cho mục đích của họ.

Sự thay đổi của pháp luật về chống bán phá giá tập trung vào việc tách khả năng hủy diệt ra khỏi phạm vi khái niệm bán phá giá. Các luận thuyết về thương mại quốc tế cũng đã có thay đổi tương tự. Theo đó, “điểm trung tâm ban đầu về sự khác biệt giá cả có thể mô tả như trọng điểm về “phân biệt đối xử qua giá”. Hình như có một khái niệm cho rằng bán cho những người khác nhau những giá khác nhau là ít nhiều bất chính. Có lẽ, đây là di sản của các khái niệm thời trung cổ về giá cả công bằng[1]. Như vậy, bán phá giá chỉ còn là hiện tượng khác biệt giữa giá thông thường của hàng hóa tương tự tại thị trường quốc gia xuất khẩu và giá xuất khẩu của hàng hóa nhập khẩu. Nếu giá xuất khẩu thấp hơn giá thông thường thì kết luận có bán phá giá và ngược lại. Với sự thay đổi này, việc xác định về hiện tượng bán phá giá có vẻ đơn giản hơn nếu đã xác định được hai mức giá làm cơ sở cho sự so sánh. Sự phức tạp chỉ còn là quá trình xác định giá xuất khẩu và giá thông thường của sản phẩm nhập khẩu. Nhưng khi quan niệm bán phá giá chỉ là sự khác biệt về giá thì chưa đủ cơ sở để kết luận rằng hàng hóa bán phá giá có khả năng gây hại cho ngành sản xuất nội địa của nước nhập khẩu; chưa đủ để khẳng định về khả năng cạnh tranh ưu việt về giá của hàng hóa đã bán phá giá như quan niệm về giá cướp đoạt. Thế cho nên, chưa phát sinh quyền tự vệ của nước nhập khẩu dù kết luận điều tra là đã có hiện tượng bán phá giá.

Trong khi đó, cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để hình thành pháp luật chống bán phá giá là quyền tự vệ và quyền được bảo hộ ngành sản xuất nội địa của quốc gia nhập khẩu trước khả năng cướp đoạt thị phần một cách bất chính của các doanh nghiệp nước ngoài. Chỉ khi hàng hóa nhập khẩu có năng lực cạnh tranh ưu việt không do lợi thế so sánh mà do ý thức chấp nhận thiệt hại ngắn hạn bằng cách bán phá giá thì mới coi là bất chính trong cạnh tranh. Với nguyên tắc đó, dù đã thay đổi quan niệm về bán phá giá, nhà nước và pháp luật vẫn phải đảm bảo không xâm hại đến tự do kinh doanh và không ngăn trở những hành vi cạnh tranh hợp pháp, lành mạnh cho dù có tổn hại đến ngành sản xuất nội địa có năng lực cạnh tranh kém hơn. Vì thế, lý thuyết về định giá cướp đoạt vẫn được giữ lại một phần giá trị bằng quy định về các điều kiện tiên quyết để áp dụng biện pháp chống bán phá giá là: (i) có hiện tượng hàng hóa nhập khẩu bán phá giá; (ii) ngành sản xuất nội địa kinh doanh sản phẩm tương tự với hàng hóa nhập khẩu đã bị tổn hại hoặc bị đe dọa gây tổn hại; (iii) có quan hệ nhân quả giữa bán phá giá và thiệt hại. Dường như, các nhà hoạch định chính sách thương mại quốc tế đã kỳ vọng là gắn kết bản chất cạnh tranh bất chính bằng sự phân biệt giá với mục tiêu cướp đoạt thị trường nhập khẩu và coi đó là nền tảng lý luận cho pháp luật chống bán phá giá.

Những thay đổi kể trên đã tạo ra những khoảng trống pháp lý để các nước thực hiện các chiến lược bảo hộ ngành sản xuất nội địa trước sức ép cạnh tranh từ hàng hóa nhẩp khẩu hơn là chống lại cạnh tranh bất chính trong thương mại quốc tế. Có thể luận giải kết luận này từ những đánh giá:

Trước hết, trong lý thuyết về phân biệt giá, sự bất chính được diễn giải từ quyền được đối xử bình đẳng giữa các khách hàng có điều kiện giao dịch như nhau và những suy đoán về mục đích của hành vi như chiếm thị trường bằng chiến lược đòn bẩy, tối đa hóa doanh thu … Song, vẫn tồn tại những quan điểm bênh vực cho rằng, phân biệt giá là chiến lược kinh doanh lành mạnh bởi việc áp dụng giá khác nhau có thể do khả năng trả giá của khách hàng hoặc do sức ép cạnh tranh không giống nhau trên các vùng thị trường khác nhau … Tình trạng xung đột về quan điểm nêu trên đã buộc chính sách và pháp luật cạnh tranh của một quốc gia phải có cơ chế để sàng lọc những hành vi phân biệt giá lành mạnh ra khỏi phạm vi của sự phân biệt giá bất chính – công việc không hề đơn giản trong quan hệ thương mại quốc tế. Khi bán phá giá được hiểu đơn giản là sự phân biệt giá thì hiện tượng giá xuất khẩu thấp hơn giá trị thông thường tại nước xuất khẩu vẫn có thể là kết quả của sự cạnh tranh lành mạnh về giá. Vì vậy, sự đơn giản trong điều tra bán phá giá bằng cách so sánh giữa giá xuất khẩu và giá trị thông thường của hàng hóa nhập khẩu để điều tra hành vi bán phá giá chưa đủ để sàng lọc những trường hợp khác biệt về giá nhưng không bất chính do điều kiện khách quan. Nếu bị lạm dụng, pháp luật chống bán phá giá có thể được sử dụng để đánh đồng hành vi xuất khẩu hàng hóa với giá thấp là kết quả của cạnh tranh lành mạnh với bán phá giá để cạnh tranh bất chính.

Để sàng lọc, chính sách và pháp luật về chống bán phá giá đã đặt ra các căn cứ, các chuẩn mực rất chặt chẽ, phức tạp trong việc điều tra về giá trị thông thường, giá xuất khẩu và các nguyên tắc trong so sánh giá. Tuy nhiên, một lần nữa, sự phức tạp lại ẩn khuất các toan tính bảo hộ bởi khả năng lạm dụng việc điều tra để tính toán ra những căn cứ so sánh giá phản cạnh tranh và phi thực tế. Ví dụ, quy định về việc lựa chọn giá bán của sản phẩm tương tự tại quốc gia thứ ba có điều kiện phát triển như nước nhập khẩu làm giá trị thông thường để so sánh có thể sẽ bị lạm dụng để dễ dàng kết luận có hiện tượng bán phá giá. Sự phức tạp trong quá trình điều tra các loại giá vẫn chưa đủ để tìm nguyên nhân của hiện tượng khác biệt về giá – mà nguyên nhân lại là yếu tố hết sức quan trọng được lý thuyết về phân biệt giá sử dụng để kết luận về sự bất chính của hành vi. Như vậy, ngay từ quan niệm về bán phá giá đã hàm chứa khả năng bị lạm dụng để chống lại hiện tượng hàng hóa nhập khẩu được bán rẻ trên thị trường nhập khẩu.

Sau nữa, để có thể lên án hành vi phân biệt giá trong thương mại quốc tế, pháp luật chống bán phá giá quy định về việc điều tra thiệt hại mà ngành sản xuất sản phẩm cạnh tranh của nước nhập khẩu gánh chịu do bán phá giá gây ra. Theo đó, thiệt hại có thể là sự suy giảm thực tế về doanh thu, thị phần, lợi nhuận, sản lượng … Pháp luật chống bán phá giá của WTO và của các nước phát triển luôn đặt ra những nguyên tắc như “việc xác định thiệt hại hay sự đe dọa gây thiệt hại về vật chất phải được tiến hành dựa trên các chứng cứ thực tế và không được phép chỉ căn cứ vào phỏng đoán, suy diễn hoặc một khả năng mơ hồ”[2];hoặc luôn yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia phải cân nhắc, phân tích mi nhân tố có thể gây ra những thiệt hại nói trên cho ngành sản xuất nội địa để tránh quy kết một cách chủ quan cho hành vi bán phá giá. Tuy nhiên, khi tách việc điều tra thiệt hại ra khỏi phạm vi của việc điều tra về hiện tượng bán phá giá đã có thể tạo ra những khả năng quy kết bất lợi cho hàng hóa nhập khẩu. Theo đó, (i) đương nhiên là khi hàng hóa nhập khẩu thực sự có lợi thế cạnh tranh về giá so với hàng hóa nội địa của nước nhập khẩu chắc chắn sẽ gây sự suy giảm thực tế hoặc tiềm năng cho các doanh nghiệp của nước nhập khẩu cho dù có bán phá giá hay không. Vì thế, chỉ cần kết quả điều tra khẳng định có bán phá giá (giá xuất khẩu thấp hơn giá trị thông thường của hàng hóa nhập khẩu) thì biện pháp chế tài có thể được áp dụng ngay cả khi giá xuất khẩu được hình thành từ môi trường cạnh tranh lành mạnh. Điều này có thể thấy rõ qua quy định về biên độ thiệt hại (price underselling) trong pháp luật chống bán phá giá của Liên minh Châu Âu (EU)[3]. Cơ quan điều tra của EU sẽ xác định mức giá bán lý thuyết trong EU (là tổng giữa chi phí sản xuất, chi phí tiêu thụ và lợi nhuận hợp lý) để so sánh với giá của hàng hóa nhập khẩu; đồng thời, tiến hành so sánh với giá bán hàng hóa tương tự của các doanh nghiệp nội địa với mức giá lý tưởng để xem xét tình trạng chịu lỗ của ngành sản xuất nội địa. Mặc dù lý do được đưa ra là để xem xét tình hình giá cả thực tế của thị trường và đảm bảo việc bảo vệ ngành sản xuất trong nước phải tỷ lệ với thiệt hại gây ra hoặc đe dọa gây ra, song điều đó cũng cho thấy nhu cầu bảo vệ các doanh nghiệp nội địa được đặt trên nhiệm vụ duy trì sự lành mạnh của thị trường cạnh tranh. (ii) Vì là những nội dung điều tra khá độc lập, nên khi gắn kết thiệt hại mà ngành sản xuất nội địa phải gánh chịu với hiện tượng bán phá giá bằng mối quan hệ nhân quả đã luôn tồn tại độ chênh và những đánh giá có tính chủ quan của cơ quan điều tra. Để lên án bán phá giá, buộc phải chứng minh về thiệt hại thực tế hoặc tiềm năng mà ngành sản xuất nội địa gánh chịu. Tuy nhiên, sự suy giảm hay không phát triển của một ngành sản xuất có thể do hành vi bán phá giá hoặc những tác động khách quan trên thị trường như sự thay đổi nhu cầu tiêu dùng của khách hàng … Cho nên, pháp luật chống bán phá giá luôn đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyển phải điều tra, phân tích những tác động khách quan từ thị trường đến tình hình phát triển của ngành sản xuất nội địa, song việc lắp ghép thiệt hại với hiện tượng bán phá giá bằng quan hệ nhân quả vẫn tồn tại nhũng sai lệch nhất định mà ở đó có thể có sự chủ quan, suy đoán.

Có thể nói, sự thay đổi trên đã làm cho pháp luật về bán phá giá dễ dàng được áp dụng trong thực tế. Tuy nhiên, điều đó cũng đã tạo ra khoảng trống pháp luật dung dưỡng những toan tính bảo hộ thị trường nội địa trước sự cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu cho dù lành mạnh. Bi quan hơn, có quan điểm cho rằng: pháp luật chống bán phá giá đã là biện pháp bảo hộ kiểu mới được thừa nhận hợp pháp và có thể làm cản trở tiến trình tự do hóa thương mại. Thế cho nên, đã có nhiều tranh luận chưa đến hồi kết trong các cuộc đàm phán gần đây về thương mại quốc tế như các phiên đàm phán trong vòng Doha giữa các nước phát triển và đang phát triển[4].

1.2. Sự phức tạp trong pháp luật chống bán phá giá của WTO và của các quốc gia

Cho đến nay, pháp luật về bán phá giá được coi là một trong những phần phức tạp nhất của hệ thống pháp luật thương mại quốc tế. Điều đó đã tạo cơ hội cho những toan tính bảo hộ bởi những quy định chi tiết, rắc rối có thể cản trở khả năng kháng kiện của các bị đơn. Có thể chứng minh nhận định này qua các luận điểm sau:

Một là, các tiêu chí xác định giá trị thông thường, giá xuất khẩu, sản phẩm tương tự trên thị trường nước xuất khẩu và nước nhập khẩu,… được điều chỉnh chi tiết song vẫn mở rộng thẩm quyền của cơ quan điều tra và xử lý vụ việc. Pháp luật của các quốc gia đã quy định thống nhất về định nghĩa bán phá giá, các căn cứ xác định bán phá giá và điều kiện áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. Song, trong các quy định của pháp luật luôn chứa đựng những nội dung dự phòng bằng cách sử dụng câu chữ chung chung, khái quát mà muốn làm rõ phải thực hiện hàng loạt các bước phân tích phức tạp, đòi hỏi kỹ năng chuyên sâu về kế toán, kiểm toán, phân tích tài chính, thị trường, pháp lý …. Ví dụ, Điều 2.1 của Hiệp định chống bán phá giá nêu: “giá trị thông thường là giá có thể so sánh được trong điều kiện thương mại thông thường, đối với sản phẩm tương tự khi được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác”. Những tiêu chí không rõ ràng được sử dụng trong điều trên như giá có thể so sánh được, điều kiện thương mại thông thường buộc pháp luật và cơ chế thực thi phải làm rõ. Tuy nhiên, khi giải thích, pháp luật lại tiếp cận vấn đề từ mặt trái, theo đó, “trong trường hợp không có các sản phẩm tương tự được bán trong nước theo các điều kiện thương mại thông thường tại thị trường nước xuất khẩu hoặc trong trường hợp việc bán trong nước đó không cho phép có được sự so sánh chính xác do điều kiện đặc biệt của thị trường đó hoặc do số lượng hàng bán tại thị trường trong nước của nước xuất khẩu hàng hóa quá nhỏ, biên độ bán phá giá sẽ được xác định thông qua so sánh với mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được xuất khẩu sang một nước thứ ba thích hợp, với điều kiện là mức giá có thể so sánh được này mang tính đại diện, hoặc được xác định thông qua so sánh với chi phí sản xuất tại nước xuất xứ hàng hóa cộng thêm một khoản hợp lý chi phí quản lý, chi phí bán hàng, các chi phí chung và lợi nhuận”[5]. Với hai tình huống dự phòng và các điều kiện để áp dụng nó, pháp luật chống bán phá giá đã trao quyền kết luận và lựa chọn cho cơ quan điều tra và xử lý vụ việc.

Cũng trong quy định trên, một nội dung rất quan trọng là việc quyết định một sản phẩm là sản phẩm tương tự với hàng hóa nhập khẩu. Đây là yếu tố hết sức quan trọng trong bất kỳ vụ việc điều tra nào vì nó không chỉ xác định sản phẩm nào (đại diện cho ngành công nghiệp nội địa) thuộc phạm vi để phân tích thiệt hại, mà còn liên quan đến xác định sản phẩm nào của thị trường nước xuất khẩu sẽ được sử dụng để xác định giá trị thông thường. Như vậy, việc xác định chính xác hay sai lầm về phạm vi của sản phẩm tương tự tất yếu sẽ ảnh hưởng đến tính đúng đắn của kết luận điều tra về biên độ phá giá và tình trạng thiệt hại[6]. Hiệp định của WTO không đưa ra bất kỳ một sự hướng dẫn nào ngoài định nghĩa tại Điều 2.6. Theo thông lệ, các quốc gia thường sử dụng những tiêu chí sau để xác định sản phẩm tương tự, bao gồm: các đặc tính vật lý của hàng hóa, mức độ chuyển đổi thương mại của các sản phẩm, các nguyên liệu thô đựơc sử dụng trong sản xuất, những phương thức sản xuất và công nghệ sản xuất, những chức năng và mục đích sử dụng cuối cùng của hàng hóa, phân loại ngành công nghiệp, giá cả, chất lượng. Việc lựa chọn những tiêu chí nào kể trên hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của cơ quan điều tra – quyết định ấy có thể chứa đựng sự tuỳ tiện và những toan tính nhất định. Là bị đơn, doanh nghiệp Việt Nam không thể dự liệu được những tiêu chí nào sẽ được cơ quan điều tra sử dụng. Khi đó, chúng ta sẽ rơi vào thế bất lợi và rất vất vả cho quá trình chứng minh.

Hai là, một trong những nguyên tắc quan trọng mà pháp luật của WTO và của các quốc gia đặt ra là đảm bảo tính minh bạch, khách quan và công bằng. Theo đó, tất cả các bên quan tâm đều được tạo điều kiện, cơ hội đầy đủ để bảo vệ quyền lợi của mình như quyền được biết các thông tin mà cơ quan điều tra sử dụng có liên quan đến quyền lợi của mình (trừ những thông tin mật); quyền được chuẩn bị phần trình bày trên cơ sở những thông tin đó. Đặc biệt, các bên đều có quyền và trách nhiệm phải trả lời các câu hỏi do cơ quan có thẩm quyền đặt ra trong thời hạn nhất định và cung cấp các tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu. Bản câu hỏi và chứng cứ do các bên cung cấp được coi là căn cứ khá quan trọng nhằm xác định về bán phá giá và tình trạng thiệt hại. Tuy nhiên, một thực tế là : mặc dù không có những thay đổi lớn về các khái niệm như: thế nào là bán phá giá, giá trị thông thường, giá xuất khẩu hay thiệt hại thực tế hoặc tiềm năng … nhưng pháp luật của các nước như Hoa Kỳ, EU, Canada… luôn có sự sửa đổi, bổ sung, thay đổi về nội dung của bản câu hỏi điều tra. Trong thời gian không dài, dường như bản câu hỏi ngày càng phức tạp và đỏi hỏi quá nhiều về lượng thông tin cần cung cấp về việc bán hàng tại thị trường nội địa, bán hàng tại nước thứ ba … Ví dụ, vào năm 1987, bản câu hỏi dài 52 trang, thì sang năm 1988 đã tăng lên 73 trang, năm 1989 là 128 trang và đến năm 1990 thì số trang lên đến 158 trang[7].

Thêm nữa, mỗi quốc gia còn tự đặt ra các tiêu chuẩn về số hóa, hiện đại hóa hệ thống sổ sách kế toán, chứng từ tài liệu để chứng minh. Những yêu cầu nói trên dù được lý giải là để đảm bảo sự khách quan, đúng đắn và công bằng, song thực tế cho thấy điều ngược lại. Các doanh nghiệp nước ngoài khi tham gia vụ việc khó có thể chủ động đối phó để kháng kiện khi các chuẩn mực luôn thay đổi, thậm chí vượt quá khả năng chứng minh trong khoảng thời gian quá ngắn. Lúc đó, với quyền được sử dụng dữ liệu sẵn có, cơ quan có thẩm quyền của nước điều tra có thể có những động thái gây bất lợi cho bên có hàng hóa bị điều tra.

Ba là, nội dung của pháp luật chống bán phá giá còn nhiều khoảng trống có thể bị lạm dụng khi điều tra, từ đó tạo thuận lợi để kết luận có bán phá giá, có thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa nhằm dễ dàng áp dụng các biện pháp chế tài. Minh chứng điển hình là quy định về phương pháp cộng dồn thị phần xuất khẩu của các nước cùng xuất khẩu sản phẩm bị kiện vào nước nhập khẩu và phương pháp zeroing khi xác định biên độ phá giá.

Về phương pháp cộng dồn: Hiệp định chống bán phá giá của WTO và pháp luật của các nước đều quy định về khối lượng hàng hóa nhập khẩu không đáng kể để đình chỉ vụ điều tra[8]. Lập luận được đưa từ một nguyên lý cơ bản của lý thuyết về định giá cướp đoạt. Theo đó, một mức giá bất thường được đặt ra để cướp đoạt thị phần của đối thủ thì người thực hiện hành vi chỉ đạt được mục đích khi họ đủ khả năng chi phối thị trường. Khả năng nói trên thường được xác định từ thị phần của doanh nghiệp trên thị trường. Với số lượng không đáng kể, hàng hóa nhập khẩu cho dù có bán phá giá cũng không đủ khả năng gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa của nước nhập khẩu. Tuy nhiên, đoạn tiếp theo của Điều 5.8 của Hiệp định chống bán phá giá cũng như pháp luật của các nước lại cho phép cộng gộp thị phần xuất khẩu của các nước cùng xuất khẩu sản phẩm bị kiện vào nước nhập khẩu. Theo đó, cơ quan có thẩm quyền của các nước sẽ không đình chỉ vụ việc cho dù “số lượng nhập khẩu của các sản phẩm tương tự từ mỗi nước có khối lượng dưới 3% song tổng số các sản phẩm tương tự nhập khẩu từ những nước này chiếm trên 7% tổng nhập khẩu sản phẩm tương tự vào nước nhập khẩu”. Việc cộng gộp thị phần đã mở rộng cơ hội để các doanh nghiệp trong ngành sản xuất nội địa chứng minh hàng hóa nhập khẩu nói chung là nguyên nhân gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho họ. Điều đó một lần nữa cho thấy, về lý thuyết, pháp luật chỉ quan tâm đến việc ngăn chặn thiệt hại do cạnh tranh trong thương mại quốc tế gây ra cho ngành sản xuất nội địa hơn là chống lại các hành vi cạnh tranh bất chính. Từ thực tiễn chống bán phá giá của Hoa Kỳ và EU cho thấy, việc sử dụng phương pháp cộng gộp đã làm thay đổi kết quả từ phủ định sang khẳng định về thiệt hại và mối quan hệ nhân quả giữa bán phá giá và thiệt hại trong phần lớn các vụ kiện. Vì thế, pháp luật chống bán phá giá có thể được khai thác nhằm ngăn chặn sự phát triển của nguồn hàng hóa nhập khẩu chưa mạnh nhưng đang dần khẳng định trên thị trường.

Về phương pháp Zeroing khi tính biên độ phá giá: trong quá trình điều tra về việc bán phá giá, cơ quan có thẩm quyền phải thực hiện hàng loạt các phép tính để so sánh giữa giá xuất khẩu với giá trị thông thường của từng lô hàng từ các nguồn nhập khẩu khác nhau. Sau đó tổng hợp kết quả chung để xác định biên độ phá giá cho sản phẩm bằng phương pháp bình quân gia quyền. Hiệp định chống bán phá giá chỉ đặt ra những nguyên tắc cơ bản mà không quy định cụ thể về phương pháp cho việc so sánh. Pháp luật của từng quốc gia có quyền chủ động quy định hoặc trao quyền quyết định cho cơ quan có thẩm quyền sử dụng các phương pháp phù hợp trên cơ sở những nguyên tắc đó. Nhiều quốc gia đã sử dụng phương pháp zeroing để so sánh. Theo đó, khi tiến hành so sánh giá trị thông thường bình quân gia quyền của mỗi loại sản phẩm với giá xuất khẩu bình quân gia quyền của loại sản phẩm đó, nếu kết quả là âm (tức là giá xuất khẩu cao hơn giá thông thường – loại sản phẩm đó không bán phá giá – biên độ phá giá là âm) cơ quan điều tra sẽ mặc nhiên chuyển kết quả về bằng không. Thế cho nên, đến khi tổng hợp biên độ phá giá của từng sản phẩm để tính biên độ phá giá cho sản phẩm nhập khẩu nói chung, biên độ phá giá âm đã không được sử dụng để bù đắp cho biên độ phá giá dương. Kết quả tất yếu là biên độ phá giá tổng hợp sẽ cao hơn so với thực tế (so với biên độ phá giá được tính từ tổng hợp cả biên độ phá giá âm)[9]. Phương pháp tính toán này đã gây nên làn sóng phản đối từ các quốc gia có doanh nghiệp bị điều tra và nảy sinh tranh chấp thương mại quốc tế phải giải quyết bằng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO[10]. Cho đến nay, phương pháp zeroing ít được sử dụng, song cũng không có cơ sở pháp lý để ngăn chặn khả năng tạo ra các phương pháp tính toán tương tự gây bất lợi cho bên bị điều tra.

Như vậy, dù pháp luật chống bán phá giá đã được thống nhất về cơ bản, song còn rất nhiều nội dung bất định gây ra những tranh cãi về sự công bằng và khả năng lạm dụng của cơ quan có thẩm quyền để bảo hộ cho thị trưng nội địa hơn là bảo vệ cạnh tranh lành mạnh. Với tình trạng đó, doanh nghiệp Việt Nam chắc chắn cũng gặp nhiều bất lợi, khó khăn khi kháng kiện.

1.3. Vị thế thương mại của Việt Nam còn khá khiêm tốn trên thị trường quốc tế

Vị thế của Việt Nam trên thị trường chung đã có thay đổi tích cực khi chúng ta gia nhập WTO. Những khó khăn, trở ngại trong các vòng đàm phán song phương, đa phương để gia nhập WTO cho thấy sự lo ngại của các nước đối tác về tiềm năng phát triển của thị trường Việt Nam, mặt khác, nó cũng cho thấy vị thế hiện tại của Việt Nam là chưa cao. Sự tương thuộc trong thương mại vẫn là một chiều khi các sản phẩm thế mạnh và tỷ trọng giá trị thương mại của chúng ta trong các dòng mậu dịch quốc tế chưa đủ để ảnh hưởng đáng kể đến sự tăng trưởng cho khu vực và quốc tế. Trong khi đó, những biến động về chính trị, quân sự và thương mại từ thị trường chung lại có thể tác động khá lớn đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam. Với vị thế khiêm tốn đó, doanh nghiệp và các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam ít có cơ hội để tạo sức ép buộc chính quyền của các nước phải tôn trọng nguyên tắc công bằng của tự do thương mại khi họ phải chịu những áp lực chính trị, kinh tế, xã hội từ các lực lượng trên thị trường nội địa.

Chúng ta vẫn bị nhiều quốc gia xếp vào danh mục nước có nền kinh tế phi thị trường để áp dụng quy trình điều tra với các biện pháp đặc biệt trong các vụ việc chống bán phá giá. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh thêm rằng, quy chế về nền kinh tế phi thị trường chưa từng tồn tại trong pháp luật chống bán phá giá của GATT và WTO mà chỉ thuộc cấp độ pháp luật quốc gia. Cho nên, tùy thuộc vào quan niệm và nhu cầu bảo hộ ngành sản xuất nội địa mà các nước đặt ra những tiêu chí khác nhau để xác định thế nào là nền kinh tế phi thị trường. Có một số nội dung cần lưu ý khi đề cập đến vấn đề này là: (i) Khi quy chế kinh tế phi thị trường được áp dụng trong các vụ việc chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu, dù quy trình tiến hành vẫn không thay đổi về bản chất, song các công đoạn điều tra được thực hiện phức tạp, chi tiết với những quan tâm đặc biệt từ các cơ quan có thẩm quyền nói chung và các điều tra viên[11]. Thực tế đó đã nảy sinh nhiều lo ngại từ các nước có nền kinh tế chuyển đổi cho rằng tự do thương mại đã bị bóp méo bằng những chiến lược phân biệt đối xử do ảnh hưởng từ những bất đồng về chính trị khi các nước phát triển sử dụng quy chế phi thị trường đối với họ. Cuộc tranh luận chưa kết thúc, quy chế phi thị trường vẫn tồn tại và được áp dụng phổ biến cho những quốc gia đang và đã từng có nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. (ii) Vì chỉ là quan niệm của từng quốc gia, nên quy chế về nền kinh tế phi thị trường đôi khi được sử dụng để thương lượng và ngã giá trong các cuộc đàm phán về thương mại quốc tế. Ví dụ, trong thời gian vừa qua, với những nỗ lực đáng kể, Việt Nam được một số nước cam kết thừa nhận là hoạt động theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên, do vị thế thương mại còn hạn chế, chúng ta đã phải tự nguyện thừa nhận là phi thị trường để đổi lại quyền được tham gia chính thức vào các diễn đàn kinh tế thế giới[12]. Trong thời gian chưa được công nhận là có nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp Việt Nam chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc phát triển xuất khẩu nếu bị ngành sản xuất sản phẩm cạnh tranh của nước nhập khẩu khởi kiện vụ việc chống bán phá giá bởi lẽ, việc tạo ra các lập luận, bằng chứng về việc bán phá giá đối với các nước có nền kinh tế phi thị trường thường dễ dàng hơn so với các quốc gia có nền kinh tế thị trường. (iii) Sự phức tạp về pháp lý và kỹ thuật điều tra trong các vụ việc chống bán phá giá đã làm cản trở khả năng kháng kiện của các doanh nghiệp là bị đơn kể cả khi đã thực sự nỗ lực hợp tác với cơ quan có thẩm quyền. Dù pháp luật của các nước buộc phải điều chỉnh một cách hợp lý khi có những khác biệt về sản phẩm, chênh lệch chi phí, tập quán và quy trình sản xuất, kinh doanh giữa doanh nghiệp của các nước bị điều tra và nước thứ ba để kết luận điều tra là khách quan, trung thực, song những mức độ và những yếu tố cấu thành giá trị thông thường được điều chỉnh do cơ quan điều tra quyết định. Thành ra, ý kiến và những thông tin của bị đơn trong trường hợp này chỉ còn có giá trị tham khảo.

Từ những phân tích trên, có thể nhận thấy rằng, khi vị thế của Việt Nam còn khiêm tốn, việc chúng ta gặp bất lợi khi kháng kiện chống bán phá giá là tất yếu.

1.4. Sự hiểu biết về các chuẩn mực của thương mại quốc tế của doanh nhân Việt Nam còn nhiều hạn chế

Hơn hai thập niên qua, sự phát triển của các dòng thương mại tự do ra vào Việt Nam đem đến nhiều cơ hội cho thị trường phát triển với tốc độ nhanh, ổn định song cũng đủ để các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp nhận thức được sự phức tạp của giao thương quốc tế. Có lẽ, sự phức tạp nói trên có nguồn gốc từ tính chất vừa hợp tác, vừa cạnh tranh giữa các lực lượng tham gia quan hệ kinh tế quốc tế. Trong sự hợp tác, đã có nhiều chuẩn mực được đặt ra về kỹ thuật, kế toán, kiểm toán, chất lượng sản phẩm … với mục đích tạo sự tương thích cho quá trình nối kết các vùng thị trường khác nhau thành khu vực mậu dịch chung, thống nhất. Nhưng sự khác nhau về nhận thức, kinh nghiệm và lịch sử của các thị trường có trình độ phát triển không đồng đều tất yếu sẽ phát sinh nhiều phức tạp. Ngoài ra, các quốc gia luôn kêu đòi sự tôn trọng tự do thương mại nhằm mở rộng khả năng buôn bán, song mặt khác, họ luôn tìm kiếm van an toàn để bảo hộ cho sự phát triển của thị trường nội địa. Trong bối cảnh đó, các tranh chấp phát sinh là điều đương nhiên. Những chuẩn mực của thương mại tự do phần lớn chịu sự chi phối từ các quốc gia phát triển cho dù về lý thuyết chúng là sản phẩm của các cuộc đàm phán quốc tế. Cùng với vị thế thương mại khiêm tốn, những hạn chế trong nhận thức và trong thái độ tuân thủ các chuẩn mực nói trên đã làm cho doanh nghiệp của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam gặp nhiều bất lợi trong cạnh tranh và tranh chấp quốc tế, đặc biệt là các tranh chấp về bán phá giá. Thực tế cho thấy, phần lớn sổ sách kế toán của doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn cơ bản mà cơ quan điều tra đòi hỏi. Thế cho nên, những thông tin về chi phí kinh doanh, tiêu chuẩn kỹ thuật của sản phẩm, nguồn nguyên liệu, lợi thế so sánh … của thị trường Việt Nam gần như không được sử dụng làm cơ sở tính toán giá trị thông thường để điều tra về biên độ phá giá. Đâu đó vẫn còn thói quen lập sổ đen, sổ trắng trong kinh doanh thì tất yếu sẽ không có bằng chứng hợp lệ đáng tin cậy khi tham gia các vụ kiện chống bán phá giá.

1.5. Năng lực tài chính và tinh thần đoàn kết của doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế

Tham gia kháng kiện vụ việc chống bán phá giá, các doanh nghiệp bị đơn thường phải chi trả nhiều khoản phí, chủ yếu là thuê Luật sư của LVN Group tư vấn và các chi phí khác phục vụ cho việc điều tra … Riêng đối với nhu cầu tư vấn pháp lý, đội ngũ Luật sư của LVN Group Việt Nam hiện nay chưa đủ năng lực để tham gia các vụ kiện chống bán phá giá ở nước ngoài nên phải thuê Luật sư của LVN Group nước ngoài có trình độ cao, có kinh nghiệm thương trường quốc tế, có khả năng tác động đến các lực lượng thị trường và cơ quan có thẩm quyền của quốc gia nhập khẩu. Kinh nghiệm của Trung Quốc và qua thực tế của vụ việc Hoa Kỳ điều tra bán phá giá đối với sản phẩm tôm đông lạnh của Việt Nam cho thấy, nếu kết hợp được hoạt động tư vấn của Luật sư của LVN Group nước điều tra với Luật sư của LVN Group của nước bị điều tra sẽ đem lại hiệu quả khả quan cho công tác kháng kiện. Điều này đồng nghĩa với việc phía bị đơn phải gánh chịu những khoản chi phí khá lớn cho hoạt động tư vấn. Hơn nữa, với thời gian tham gia kháng kiện càng dài, các chi phí mà doanh nghiệp phải chi trả càng lớn, trong khi sản lượng xuất khẩu chắc chắn giảm dần. Tất cả những cái đó cộng lại thì trong điều kiện hiện tại, những gánh nặng tài chính nói trên dường như vượt quá khả năng của doanh nghiệp Việt Nam với đa số là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cho nên, có doanh nghiệp đã không tích cực kháng kiện để tránh các khoản tài chính kháng kiện mà chuyển hướng xây dựng thị trường xuất khẩu mới và chấp nhận mất thị trường xuất khẩu hiện tại.

Song song với những hạn chế về năng lực tài chính và kinh nghiệm thương trường, các doanh nghiệp Việt Nam chưa thực sự có được tinh thần đoàn kết trong các vụ tranh chấp về bán phá giá trong thương mại quốc tế. Vấn đề này tuy nhỏ nhưng nó cũng có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng ứng phó các vụ kiện chống bán phá giá ở nước ngoài mà hàng hoá có xuất xứ từ Việt Nam.

2. Đề xuất giải pháp

Trong các bài viết trước đây, chúng tôi đã nêu giải pháp cụ thể nhằm giảm thiểu thiệt hại của doanh nghiệp Việt Nam trong các vụ kiện bán phá giá ở nước ngoài khi doanh nghiệp Việt Nam là bị đơn. Nhưng nhìn tổng thể hơn, để tháo gỡ những trở ngại như đã phân tích, có lẽ chúng ta cần phải đồng bộ thực hiện những giải pháp sau:

Một là, nhận thức rõ ràng về bản chất của tự do hóa thương mại nói chung và pháp luật chống bán phá giá nói riêng. Không nên ngây thơ cho rằng, tự do hóa thương mại sẽ chào đón nhiệt tình những thành quả kinh doanh lành mạnh theo tinh thần cây ngay không sợ chết đứng, mà cần xác định đâu đó vẫn tồn tại nhu cầu và toan tính bảo hộ, nhất là khi các biện pháp bảo hộ truyền thống như thuế quan hoặc rào cản kỹ thuật … đang dần bị bãi bỏ theo các cam kết quốc tế. Với thực trạng trên, có nhiều khả năng pháp luật chống bán phá giá bị lạm dụng và trở thành công cụ bảo hộ hiện đại cho ngành sản xuất nội địa, nhằm giảm sức ép cạnh tranh bằng cách kìm hãm sự phát triển của hàng hóa nhập khẩu. Thế cho nên, quan niệm của các quốc gia phát triển về bán phá giá và bản chất của bán phá giá đã được thay đổi cho phù hợp với nhu cầu thực tế của họ. Với khả năng chi phối của họ, quan niệm đó đã được công nhận chính thức trong diễn đàn thương mại toàn cầu bằng Hiệp định chống bán phá giá của WTO. Vì thế, dưới góc độ chính sách, nhà nước và các hiệp hội nên xây dựng chiến lược phổ biến, đào tạo cho doanh nghiệp đã, đang và sẽ tham gia xuất khẩu hàng hóa để họ nhận thức được rằng: (i) các vụ kiện chống bán phá giá nói riêng và các tranh chấp trong cạnh tranh quốc tế nói chung là tất yếu khi chiến lược phát triển xuất khẩu thành công; (ii) quan niệm về bán phá giá trong thương mại quốc tế không phải là bán lỗ vốn, mà chỉ đơn giản là sự phân biệt giá. Doanh nghiệp xuất khẩu vẫn có thể bị kết luận là bán phá giá cho dù không có dấu hiệu của cạnh tranh không lành mạnh. Do đó, khi tham gia thương mại quốc tế, các doanh nghiệp nên xây dựng và thực hiện chiến lược cạnh tranh về giá hợp lý để vừa phát triển thị trường, vừa tránh bị quy kết là bán phá giá. Hơn nữa, một khi chúng ta không thể thay đổi quan niệm về bán phá giá thì điều phải làm khi tham gia vào các vụ kiện về bán phá giá là không dồn toàn bộ nguồn lực cho các cuộc tranh luận không hồi kết về sự công bằng trong giao thương quốc tế mà nên tìm kiếm giải pháp tức thời và lâu dài để giảm thiểu đến mức thấp nhất thiệt hại nếu kết luận khẳng định có bán phá giá.

Hai là, nâng cao khả năng kháng kiện của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần chuẩn hóa theo thông lệ quốc tế hoạt động kế toán, thống kê, sổ sách, hình thức giao dịch ngoại thương … bằng quy định của pháp luật. Nội dung này muốn được thực hiện cần có sự hợp tác từ phía cơ quan nhà nước, từ các doanh nghiệp với thái độ thượng tôn pháp luật.

Ngoài ra, phải minh bạch hóa các chính sách kinh tế của Nhà nước đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhà nước để tránh tình trạng doanh nghiệp bị quy kết là được hưởng tài trợ từ chính phủ. Dù bị coi là hoạt động trong nền kinh tế phi thị trường, song các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu vẫn còn cơ hội để thoát khỏi quy chế điều tra đặc biệt bằng cách chứng minh bản thân hoạt động theo nguyên lý thị trường. Trong đó, chứng cứ và lập luận đưa ra đủ để chứng minh doanh nghiệp đã thoát khỏi khả năng chi phối, kiểm soát từ các cơ quan nhà nước. Muốn làm được điều này, ngay từ trong quan hệ nội địa, Nhà nước cần giới hạn và công khai sự can thiệp vào tổ chức quản lý nội bộ, kế hoạch kinh doanh và các yếu tố kinh doanh cơ bản của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần lưu giữ những tài liệu, sổ sách, chứng từ, hợp đồng … làm bằng chứng cho sự độc lập của mình khi quyết định các vấn đề trong kinh doanh.

Ba là, thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp để nâng cao vị thế thương mại của Việt Nam trên thị trường khu vực và toàn cầu. Thời gian tham gia vào sân chơi chung chưa dài, song cũng đủ để doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước hiểu rằng yếu thế trong giao thương quốc tế luôn đồng nghĩa với bất lợi trong cạnh tranh và chịu thiệt thòi trong các tranh chấp. Do đó, cùng với việc tổ chức kháng kiện hợp lý trong từng vụ việc cụ thể, doanh nghiệp và nhà nước cần có chiến lược cụ thể để tăng cường vị thế thương mại của thị trường Việt Nam. Theo đó, doanh nghiệp phải củng cố ý thức kinh doanh lành mạnh, minh bạch và cạnh tranh công bằng, tôn trọng các chuẩn mực trong thương mại quốc tế đã được thừa nhận. Bên cạnh chiến lược phát triển, mở rộng thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp nên rèn luyện bản lĩnh “chịu đòn” trong mậu dịch quốc tế để có thể chủ động, kiên trì kháng kiện thay vì bỏ cuộc chấp nhận mất thị trường. Tất nhiên, để có bản lĩnh nói trên, doanh nhân không thể đơn độc mà cần đoàn kết tạo nên sức mạnh tập thể khi tham gia vụ kiện. Với các cơ quan nhà nước, không cho phép duy trì vai trò điều hành, dẫn dắt mà là hợp tác với doanh nghiệp để phát triển thị trường. Các chính sách phát triển xuất khẩu hay nhập khẩu phải luôn coi trọng vị trí trung tâm của doanh nhân. Bên cạnh đó, cần tăng cường các cuộc đàm phán song phương, đa phương ở cấp Chính phủ để góp phần nâng cao vị thế thương mại của quốc gia hoặc ít nhất là giải thoát doanh nghiệp khỏi diện bị quy kết là hoạt động trong nền kinh tế phi thị trường.


[1] John H.Jackson (2001), Hệ thống thương mại thế giới, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, tr. 345.

[2] Khoản 3.7 Điều 3 Hiệp định chống bán phá giá của WTO năm 1994.

[3] Biên độ thiệt hại được định nghĩa là niêm yết giá thấp hơn giá bán trên thị trường EU. Nói cách khác biên độ thiệt hại là sự khác biệt giữa giá hàng hóa nhập khẩu và giá bán lý thuyết trong EU.

[4] Xem thêm Đinh Thị Mỹ Loan (Chủ biên), Chủ động ứng phó với các vụ kiện chống bán phá giá trong thương mại quốc tế, Nxb. Lao động – xã hội, H. 2006. tr 17-22.

[5] Điều 2.2 Hiệp định chống bán phá giá của WTO năm 1994.

[6] Đinh Thị Mỹ Loan, sđd, tr 22-23.

[7] Đinh Thị Mỹ Loan, sđd, tr. 49.

[8] Điều 5.8 Hiệp định chống bán phá giá của WTO quy định cuộc điều tra sẽ bị đình chỉ ngay lập tức trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền xác định được khối lượng hàng nhập khẩu bán phá giá từ một nước nào đó chiếm ít hơn 3% tổng nhập khẩu các sản phẩm tương tự vào nước nhập khẩu.

[9] Xem thêm Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam, Các vụ kiện chống bán phá giá tiêu biểu, Hà Nội, 2007, tr. 17-20.

[10] Vụ tranh chấp giữa EU và ấn độ liên quan đến sản phẩm khăn lanh trải giường cotton được Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO (DSB) thụ lý và giải quyết vào năm 2001 theo Phán quyết của Ban hội thẩm WT /DS141/R đoạn 6.233.

[11] Ví dụ, Hoa Kỳ điều động 80 nhân viên của Bộ Thương mại để điều tra những vụ việc chống bán phá giá với hàng hóa của 7 nước có nền kinh tế phi thị trường (chiếm 2/3 tỗng số nhân viên trong bộ phận điều tra), trong khi chỉ cần 40 người điều tra các vụ việc chống bán phá giá của hơn 100 nước có nền kinh tế thị trường.

[12] Trong phiên đàm phán Việt Nam – Hoa Kỳ lần thứ 12 (năm 2006) về việc Việt Nam gia nhập WTO, Việt Nam và Hoa Kỳ đã có cam kết sẽ công nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường sau 12 năm kể từ thời điểm gia nhập WTO của Việt Nam – theo Đinh Thị Mỹ Loan, sđd, tr. 122.

SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP SỐ 112, THÁNG 12 NĂM 2007 – NGUYỄN NGỌC SƠN – Đại học Luật TPHCM & NGUYỄN PHI THĂNG – Sở Nội vụ Lâm Đồng