Tuy nhiên, việc xây dựng Luật về tố cáo và giải quyết tố cáo đang có khá nhiều vấn đề vướng mắc.
Trong những năm gần đây, các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo thường xuyên được sửa đổi, bổ sung. Điều đó thể hiện việc cố gắng hoàn thiện cơ chế luật pháp để tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của mình. Tuy nhiên, sự thay đổi thường xuyên các quy định của pháp luật chưa phát huy hiệu quả của nó trên thực tế và nhất là, nó thể hiện sự lúng túng của Nhà nước trong việc định ra những cơ chế và phương thức có hiệu quả để giải quyết vấn đề khiếu nại, tố cáo. Nếu như những quy định liên quan đến khiếu nại được sửa đổi liên tục và ngày càng tỏ ra rối rắm, khó thực hiện thì các quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo lại tỏ ra mờ nhạt trong các văn bản pháp luật và rất ít khi được “đụng” đến trong những lần sửa đổi pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Ngay hiện nay, khi Nhà nước đã quyết định sẽ ban hành đạo luật riêng về tố cáo thì không ít người băn khoăn vì chưa hình dung đạo luật đó sẽ nhằm giải quyết vấn đề gì và sẽ phải bao gồm những nội dung chủ yếu nào, khi mà các quy định về vấn đề này đã nằm rải rác trong không ít các văn bản có liên quan. Với mục đích góp phần luận giải những khó khăn đang đặt ra trong quá trình nghiên cứu nhằm đổi mới cơ chế giải quyết tố cáo hiện nay, chúng tôi xin đưa ra một cái nhìn tổng thể về sự hình thành và phát triển của các quy định pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo, từ đó nhận định về bản chất hay nguyên nhân của những vướng mắc đặt ra trong cơ chế giải quyết tố cáo hiện nay và những suy nghĩ về giải pháp khắc phục trong thời gian tới.
1. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về tố cáo và sự phân biệt giữa khiếu nại và tố cáo
1.1. Quá trình hình thành pháp luật về tố cáo
Văn bản pháp lý đầu tiên quy định về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo là Sắc lệnh số 64/SL ngày 23/11/1945 về thành lập Ban Thanh tra đặc biệt. Bản Sắc lệnh gồm 8 điều:
“Điều thứ nhất: Chính phủ sẽ lập ngay một Ban thanh tra đặc biệt, có uỷ nhiệm là đi giám sát tất cả các công việc và các nhân viên của uỷ ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ cần thiết cho việc giám sát
Điều thứ hai: Ban thanh tra đặc biệt có toàn quyền:
– Nhận các đơn khiếu nại của nhân dân…”
Như vậy, ngay trong văn bản này chỉ có khái niệm khiếu nại, chưa hề xuất hiện khái niệm tố cáo hoặc khái niệm tương tự (tố giác, phản ánh, tin báo tội phạm…). Nhưng vì sao chúng tôi vẫn khẳng định quy định này liên quan đến việc giải quyết tố cáo? Đó là vì xuất phát từ sự phân tích bối cảnh và mục tiêu của việc ra đời Ban thanh tra đặc biệt lúc đó cũng như các quyền hạn trao cho nó trong Sắc lệnh số 64 là “điều tra, hỏi chứng… đình chức, bắt giam bất cứ nhân viên nào… Tịch biên hoặc niêm phong những tang vật và dùng mọi cách điều tra… Truy tố tất cả các việc…” thì có thể thấy rằng, Ban thanh tra được trao những quyền hạn hết sức rộng lớn với mục đích là giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước lúc bấy giờ và đương nhiên là có quyền tiếp nhận và giải quyết các phát hiện tố giác của người dân đối với việc làm vi phạm pháp luật của những người trong bộ máy chính quyền. Điều này càng được khẳng định khi chúng ta xem xét hoạt động của Ban thanh tra đặc biệt “Nhiệm vụ của Ban Thanh tra đặc biệt là thường xuyên nghiên cứu và giải quyết các đơn thư khiếu nại, phản ánh của các tầng lớp nhân dân từ khắp các địa phương gửi lên Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh…
Đầu tháng 2 năm 1946, Ban Thanh tra đặc biệt tiến hành thanh tra vụ tham ô của ông Chủ tịch tỉnh X. Sau khi nghiên cứu kỹ đơn, thư phản ảnh, tố giác của nhân dân và một số nhân sỹ về hành vi tham ô công quỹ của ông Chủ tịch nói trên, Ban Thanh tra đã trực tiếp đi điều tra vụ việc tại tỉnh X…
Cuối tháng 5 năm 1946, Ban thanh tra đặc biệt nhận được nhiều đơn, thư của cán bộ, nhân viên và một số quần chúng nhân dân ở tỉnh Y. phản ảnh về việc cán bộ lãnh đạo tỉnh này có những hành động cửa quyền, lợi dụng quyền lực để ức hiếp quần chúng, trù dập những người dưới quyền… Ban Thanh tra đặc biệt đã về điều tra trực tiếp tại chỗ và chỉ rõ những hành động sai trái của một số lãnh đạo trong bộ máy chính quyền tỉnh Y…”1.
Những hoạt động trên đây chính là việc giải quyết các vụ việc tố cáo hiện nay mà chúng ta đang tiến hành. Tuy nhiên vào thời điểm đó, và cả thời gian rất lâu sau đó, chúng ta chưa có sự phân biệt giữa khiếu nại, tố cáo, mà với nhiều cách gọi khác nhau, hoạt động này được nhìn nhận chung như là việc tiếp nhận những thông tin, phản ánh, thắc mắc của người dân về việc làm sai trái của chính quyền hay của cán bộ, nhân viên nhà nước và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết, hoặc là để đòi lại lợi ích cho mình (khiếu nại), hoặc là vì phát giác để xử lý người vi phạm (tố cáo).
Ngày 13/9/1958, Thủ tướng Chính phủ có Thông tư số 436 Quy định trách nhiệm, quyền hạn và tổ chức của các cơ quan chính quyền trong việc giải quyết loại thư khiếu nại, tố giác (gọi tắt là thư khiếu tố) của nhân dân.
Thông tư này bắt đầu thể hiện sự phân biệt về khái niệm giữa khiếu nại và tố cáo (tố giác) nhưng trong văn bản này chưa tìm thấy chỗ nào thể hiện có sự khác nhau giữa khiếu nại và tố cáo (thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết), và được gọi chung là đơn thư khiếu tố.
Hiến pháp năm 1959 lần đầu tiên quy định quyền khiếu nại, tố cáo của công dân tại Điều 29: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền khiếu nại, tố cáo với bất cứ cơ quan nào của Nhà nước về những hành vi vi phạm của nhân viên cơ quan nhà nước. Những việc khiếu nại và tố cáo phải được xét và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại vì hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan nhà nước có quyền được bồi thường”. Như vậy, bắt đầu từ đây, khái niệm tố cáo đã được chính thức sử dụng trong các văn bản của Nhà nước. Tuy nhiên, cũng chưa có sự phân định giữa khiếu nại và tố cáo.
Hiến pháp năm 1980 mở rộng đối tượng của khiếu nại, tố cáo hơn một chút, không chỉ cơ quan nhà nước mà cả “tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân”, nhưng vào thời kỳ này, các đối tượng này cũng không khác mấy so với cơ quan nhà nước, nên về cơ bản, không có sự thay đổi nhiều.
Ngày 22/5/1971, Uỷ ban Thanh tra ban hành Thông tư số 60-UBTTr Hướng dẫn trách nhiệm của các ngành, các cấp trong việc xét và giải quyết đơn thư khiếu nại và tố cáo của công dân, trong đó lần đầu tiên có sự phân biệt giữa khiếu nại và tố cáo cũng như cách xử lý đối với từng loại đơn.
“… 3. Phân loại đơn để giải quyết:
– Đơn khiếu nại là để chỉ những sự việc của đương sự khiếu vì quyền lợi bị thiệt hại, yêu cầu cơ quan có trách nhiệm giải quyết (đơn đề đạt nguyện vọng xếp vào loại đơn khiếu nại);
– Đơn tố cáo là đơn nói những hành vi sai phạm của cán bộ, cơ quan làm sai chế độ, chính sách, pháp luật gây thiệt hại cho lợi ích của tập thể và của Nhà nước.
– Trường hợp đơn vừa khiếu nại vừa tố cáo thì xem xét việc nào là chủ yếu mà xếp vào việc đó.
4. Đơn khiếu nại chủ yếu do thủ trưởng cơ quan trực tiếp có trách nhiệm phải giải quyết đến nơi đến chốn.
Đơn tố cáo thì tuỳ nội dung sự việc và đối tượng bị tố cáo mà thủ trưởng cấp trên hoặc cơ quan chuyên môn, chịu trách nhiệm xét, giải quyết theo chức năng đã được Nhà nước quy định.
5. Những đơn khiếu nại của công dân về đời sống kinh tế và chính trị; bị uy hiếp nghiêm trọng và cấp thiết; đơn của quân nhân, gia đình quân nhân và gia đình liệt sỹ được giải quyết trước.
Đơn tố cáo tài sản, chính sách, chế độ nhà nước và tập thể bị xâm phạm nghiêm trọng, phải tập trung giải quyết để kịp thời ngăn chặn”.
Ngày 29/3/1973, Uỷ ban Thanh tra đã ban hành hai Thông tư: Thông tư số 67-UBTTr/ XKT Hướng dẫn việc xét, giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo ở cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương và Thông tư số 68-UBTTr/XKT Hướng dẫn việc xét, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo ở cấp huyện. Tại hai Thông tư này đều có quy định về phân loại xử lý đơn thư: “Khi nghiên cứu cần làm rõ, phân loại như sau: Đơn khiếu nại hay tố cáo và các loại đơn khác”. Đặc biệt, Thông tư 68 còn đề cập rõ hơn về việc xử lý đơn tố cáo “Không giao nguyên đơn tố cáo cho người bị tố cáo, hoặc cơ quan, đơn vị bị tố cáo xét, giải quyết. Người giữ đơn tố cáo để xét, giải quyết không được để lộ tên, địa chỉ của người tố cáo. Đơn tố cáo nặc danh, nếu nói rõ sự việc cũng phải xét, giải quyết chu đáo, phải giao đơn cho Trưởng, Phó ngành, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban hành chính xã, Trưởng, Phó ban Kiểm soát hợp tác xã…”.
Ngày 27/11/1981, Nhà nước ta đã ban hành Pháp lệnh quy định việc xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân. Đây là văn bản pháp lý cao nhất từ trước đến nay quy định về vấn đề này, trong đó quy định trình tự, thủ tục, xác định thẩm quyền và trách nhiệm giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Tiếp đó, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 58 ngày 29/3/1982 quy định về việc thi hành Pháp lệnh kể trên. Nhìn một cách tổng quát thì Pháp lệnh này đã có nhiều quy định cụ thể hơn, nhưng vẫn chưa đưa ra định nghĩa về hai khái niệm khiếu nại và tố cáo. Sự phân biệt chủ yếu vẫn là về thẩm quyền giải quyết đối với từng loại đơn.
Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991 (thay thế cho Pháp lệnh năm 1981) đã đánh dấu một sự thay đổi căn bản trong việc phân định giữa khiếu nại và tố cáo. Ngay tại Điều 1 của Pháp lệnh đã chia thành hai khoản khác nhau, khoản một là về khiếu nại, khoản 2 là về tố cáo. Đồng thời cũng quy định phạm vi điều chỉnh khiếu nại chỉ bao gồm đối tượng là cơ quan hành chính nhà nước, còn “Quyền khiếu nại của công dân đối với quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, dân sự, trọng tài kinh tế do pháp luật tố tụng hình sự, dân sự, trọng tài kinh tế quy định”. Pháp lệnh quy định khiếu nại, tố cáo thành hai vấn đề khá độc lập với nhau: Chương II Khiếu nại và việc giải quyết khiếu nại, Chương III Tố cáo và việc giải quyết tố cáo.
Hiến pháp năm 1992, trên cơ sở tiếp thu những quy định của Pháp lệnh năm 1991 đã quy định “Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo…” và như vậy, sự phân biệt giữa khiếu nại và tố cáo đã được khẳng định.
Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 (sau đó đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 2004 và 2005) đã tiếp tục thể hiện tinh thần này và cho đến nay, chúng ta đang xây dựng hai đạo luật riêng biệt: Luật Khiếu nại và giải quyết khiếu nại; Luật Tố cáo và giải quyết tố cáo.
1.2. Khái niệm tố cáo và sự phân biệt giữa khiếu nại và tố cáo theo quy định của pháp luật hiện hành
Tố cáo theo nghĩa chung nhất là “vạch rõ tội lỗi của kẻ khác trước cơ quan pháp luật hoặc trước dư luận’’. Đây là một quyền chính trị cơ bản của công dân, nó ngày càng được quy định rõ ràng, cụ thể và chặt chẽ. Khoản 2, Điều 2 Luật Khiếu nại, tố cáo ghi: “Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức”. Từ đó cho thấy, mặc dù khiếu nại và tố cáo cùng được ghi nhận là một quyền, được quy định ở cùng một văn bản, thậm chí cùng một điều luật, nhưng giữa chúng có những khác biệt về cả nội dung lẫn cách thức giải quyết. Cụ thể:
– Thứ nhất, theo quy định tại Điều 2 Luật Khiếu nại, tố cáo thì chủ thể của khiếu nại là cơ quan Nhà nước, tổ chức và công dân, còn chủ thể của tố cáo chỉ là công dân.
– Thứ hai, đối tượng của khiếu nại là quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật đối với cán bộ, công chức. Còn tố cáo có đối tượng rộng hơn rất nhiều, đó là “hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại tới lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức’’.
– Thứ ba, mục đích của khiếu nại hướng tới bảo vệ và khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại, còn mục đích của tố cáo không chỉ nhằm bảo vệ và khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo, mà còn hướng tới lợi ích của Nhà nước và xã hội.
– Thứ tư, cách thức thực hiện của khiếu nại là việc người khiếu nại “đề nghị’’ người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại “xem xét lại’’ các quyết định hành chính, hành vi hành chính… trong khi đó, cách thức thực hiện tố cáo là việc người tố cáo “báo’’ cho người có thẩm quyền giải quyết tố cáo “biết’’ về hành vi vi phạm pháp luật.
– Thứ năm, giải quyết khiếu nại là việc xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết của người giải quyết khiếu nại. Trong khi đó, giải quyết tố cáo là việc người giải quyết tố cáo xác minh, kết luận về nội dung tố cáo. Từ đó áp dụng biện pháp xử lý cho thích hợp với tính chất và mức độ sai phạm của hành vi chứ không ra quyết định giải quyết tố cáo.
2. Cơ chế giải quyết tố cáo hiện nay và những vấn đề đang đặt ra
Cơ chế giải quyết tố cáo là phương thức tiếp nhận và giải quyết các tố cáo của các cơ quan nhà nước. Nó bao gồm các quy định những vấn đề về thẩm quyền và trách nhiệm; về trình tự và thủ tục; về mối quan hệ giữa các cơ quan, tổ chức… trong một chu trình giải quyết một vụ việc tố cáo.
Về mặt pháp luật, hiện nay chúng ta đang tồn tại cùng lúc:
– Cơ chế giải quyết tố cáo chung được quy định trong pháp luật về khiếu nại và tố cáo, nhất là trong Luật Khiếu nại, tố cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành;
– Cơ chế giải quyết tố giác và tin báo tội phạm trong pháp luật về tố tụng hình sự, chủ yếu là trong Bộ luật Tố tụng hình sự;
– Cơ chế giải quyết tố cáo tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng, nhất là trong Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005.
Ngoài ra, không thể không nhắc đến cơ chế giải quyết tố cáo đối với cán bộ, công chức là đảng viên theo các quy định của Đảng về vấn đề này.
Như vậy, cùng lúc chúng ta có nhiều cơ chế trong khi đối tượng xử lý có rất nhiều nguy cơ trùng nhau (đều có thể là cán bộ, công chức là đảng viên) cho nên việc trùng chéo giữa các yếu tố của cơ chế, sự kém hiệu quả trong công tác giải quyết là tất yếu và đây chính là điều mà chúng ta cần phải nghiên cứu để có những giải pháp triệt để.
2.1. Về cơ chế giải quyết tố cáo chung
Những quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo về vấn đề này được coi như văn bản “gốc” để xác định cách thức giải quyết mọi tố cáo. Chính vì tính chất chung như vậy cho nên Luật chỉ có thể đưa ra những quy định chung nhất về tiếp nhận và xử lý đơn thư tố cáo và xác định thẩm quyền theo những nguyên tắc nhất định:
“ …Điều 59
Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật mà người bị tố cáo thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức nào thì cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết.
Tố cáo hành vi vi phạm quy định về nhiệm vụ, công vụ của người thuộc cơ quan, tổ chức nào thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết.
Tố cáo hành vi vi phạm quy định về nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu cơ quan, tổ chức nào thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết.
Điều 60
Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật mà nội dung liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của cơ quan nào thì cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết.
Tố cáo hành vi phạm tội do các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự”…
Có thể nói rằng, phần quy định về tố cáo là rất nghèo nàn và những người tham gia soạn thảo cũng chẳng thể làm được gì hơn. Các cuộc thảo luận khi thông qua cũng vậy, ngoại trừ một vấn đề luôn nóng bỏng, đó là thái độ và cách xử lý đối với đơn thư tố cáo nặc danh. Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 đã qua hai lần sửa đổi vào các năm 2004 và 2005 nhưng cả hai lần, nội dung sửa đổi đều chỉ liên quan đến phần khiếu nại, còn phần tố cáo thì không được “đụng” đến, đơn giản vì chẳng thể quy định gì hơn những cái đã có, đó là những nguyên tắc về thẩm quyền. Quy định về thẩm quyền và trách nhiệm của các tổ chức thanh tra trong Luật cũng trở nên lạc lõng, vì thực tế, thanh tra chỉ giúp thủ trưởng xem xét các tố cáo thuộc phạm vi thẩm quyền của thủ trưởng cơ quan hành chính, vả lại khi luật quy định mọi loại tố cáo thì tại sao lại quy định trách nhiệm xem xét cho một loại tố cáo mà thôi? Điều này ai cũng thấy nhưng rồi cũng đành “lờ” đi mỗi khi sửa đổi, bổ sung Luật. Điều này càng rõ ràng hơn khi chúng ta có những quy định về tố cáo trong Luật phòng, chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn thi hành.
2.2. Về cơ chế giải quyết tố cáo trong Luật Phòng, chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn thi hành
Trong Luật Phòng, chống tham nhũng, những quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo – như là một trong những giải pháp nhằm phát huy vai trò của công dân trong việc nâng cao hiệu quả phát hiện tham nhũng – gồm 4 điều, từ điều 64 đến điều 67: Điều 64. Tố cáo hành vi tham nhũng và trách nhiệm của người tố cáo; Điều 65. Trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết tố cáo; Điều 66. Trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân; Điều 67. Khen thưởng người tố cáo.
Những quy định này hoàn toàn không có gì khác so với quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo. Những quy định trong Nghị định số 120 hướng dẫn thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng cũng chỉ cụ thể hoá các hình thức tố cáo để tạo thuận lợi cho người tố cáo chứ cũng không đưa ra những quy định về việc phân định thẩm quyền giải quyết tố cáo. Một điểm duy nhất hiện nay có sự không thống nhất ngay trong Nghị định 120 và không thống nhất với quy định của Nghị định 136 hướng dẫn thi hành Luật khiếu nại, tố cáo là vấn đề xử lý đơn thư tố cáo nặc danh. Tinh thần chung của Luật Khiếu nại, tố cáo là không xem xét đơn thư tố cáo nặc danh và điều này được thể hiện trong Nghị định 136 “Những tố cáo về hành vi tham nhũng mà người tố cáo mạo tên, nội dung tố cáo không rõ ràng, thiếu căn cứ, những tố cáo đã được cấp có thẩm quyền giải quyết nay tố cáo lại nhưng không có bằng chứng mới thì không được xem xét, giải quyết”.
Quy định này được chép lại y nguyên tại Khoản 3 Điều 41 của Nghị định 120. Tuy nhiên tại Điều 43 Khoản 4 lại có quy định “4. Đối với những tố cáo không rõ họ, tên, địa chỉ người tố cáo nhưng nội dung tố cáo rõ ràng, bằng chứng cụ thể, có cơ sở để thẩm tra, xác minh thì các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền nghiên cứu, tham khảo thông tin được cung cấp để phục vụ công tác phòng, chống tham nhũng”.
Quy định này thể hiện sự thay đổi về thái độ và nhận thức đối với đơn thư tố cáo nặc danh và điều đáng lưu ý là nó phù hợp với tinh thần của Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng.
Tuy nhiên, dù giải thích thế nào đi chăng nữa, thì rõ ràng đã có sự mâu thuẫn giữa hai văn bản luật đối với việc xử lý đơn thư tố cáo nặc danh.
2.3. Về cơ chế giải quyết tố cáo trong pháp luật về tố tụng hình sự
Trong Bộ luật Hình sự có quy định về tố giác và tin báo về tội phạm. Điều 101 quy định: “Công dân có thể tố giác tội phạm với cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Toà án hoặc với cơ quan, tổ chức khác. Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho cơ quan điều tra bằng văn bản”.
Thực ra, giữa tố giác, tin báo về tội phạm với tố cáo chỉ khác nhau ở một điểm: tố cáo thì đối tượng là mọi hành vi vi phạm pháp luật, còn tố giác và tin báo về tội phạm thì đối tượng chỉ bao gồm tội phạm, hành vi vi phạm pháp luật có tính nguy hiểm cao và được quy định trong Bộ luật Hình sự. Nhưng phân biệt hành vi vi phạm đến mức nào là tội phạm là vấn đề cực kỳ khó khăn, nhất là đối với người dân đi tố cáo hay tố giác. Với quy định như hiện nay, khi phát hiện một hành vi vi phạm pháp luật, người dân hoàn toàn có thể thực hiện việc tố cáo theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo mà cũng có thể tố giác theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự mà giữa hai văn bản này lại có nhiều điểm không thống nhất. Đây có thể coi là một trong những nguyên nhân gây ra sự chồng chéo trong hoạt động của các cơ quan thanh tra, điều tra, viện kiểm sát, giữa cơ quan quản lý và cơ quan tiến hành tố tụng.
2.4. Giải quyết tố cáo đối với đảng viên
Về nguyên tắc, đảng viên bị tố cáo khi vi phạm Điều lệ Đảng và thuộc thẩm quyền giải quyết của uỷ ban kiểm tra hoặc các cấp uỷ đảng. Tuy nhiên, ở nước ta, đa số cán bộ, công chức lại là đảng viên và theo quy định thì vi phạm pháp luật cũng là vi phạm Điều lệ Đảng. Như vậy, sai phạm của một đảng viên hoàn toàn có thể bị tố cáo đến các cơ quan nhà nước (cơ quan quản lý) hoặc tố giác với cơ quan tiến hành tố tụng và cũng đồng thời có thể bị tố cáo đến cơ quan kiểm tra của Đảng. Điều này lại làm phát sinh thêm sự chồng chéo về thẩm quyền giữa cơ quan nhà nước và cơ quan Đảng trong việc giải quyết tố cáo đối với cán bộ, công chức là đảng viên. Để xử lý vấn đề này, một số văn bản đã được quy định, chẳng hạn như Quy định số 52/QĐ/TW ngày 05/5/1999 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về giải quyết tố cáo đối với đảng viên thuộc diện Trung ương quản lý, tiếp đó là Quy chế số 79 QC/KTTW ngày 09/5/2000 của Uỷ ban kiểm tra Trung ương về phối hợp giải quyết tố cáo đối với đảng viên thuộc diện Trung ương quản lý. Tuy nhiên, trên thực tế, người tố cáo không thể biết được đâu là cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc mà mình muốn tố cáo, nên các cơ quan luôn phải chuyển đi chuyển lại đơn tố cáo.
Chẳng hạn, từ tháng 6/1999 đến tháng 5/2008, Thanh tra Chính phủ đã tiếp nhận 337 đơn tố cáo liên quan đến cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, đã chuyển đến Ủy ban Kiểm tra Trung ương xem xét giải quyết. Cũng trong thời gian này, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương đã chủ trì giải quyết 851 đơn thư tố cáo, trong số đó có những tố cáo vi phạm nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng và vi phạm chính sách, pháp luật và phẩm chất, lối sống.
Nhiều nội dung tố cáo cho thấy, khó có thể xác định được thẩm quyền giải quyết đối với các tố cáo đó. Trong khi đó, Luật Khiếu nại, tố cáo không phân biệt đến cấp nào bị tố cáo thì thuộc thẩm quyền của cơ quan Đảng.
3. Một số suy nghĩ về hoàn thiện cơ chế giải quyết tố cáo và việc xây dựng luật tố cáo và giải quyết tố cáo
Những bất cập của cơ chế giải quyết tố cáo hiện nay đang dẫn đến tình trạng chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động của các cơ quan nhà nước khi xử lý các loại đơn thư này. Nhu cầu nghiên cứu sửa đổi quy định liên quan đến việc tiếp nhận và xử lý các vụ việc tố cáo là tất yếu. Việc tách khiếu nại, tố cáo ra thành hai vấn đề để xử lý cho phù hợp là một quyết định, theo chúng tôi, là cần thiết. Tuy nhiên, có nên xây dựng một đạo luật riêng về tố cáo hay không thì lại là việc phải cân nhắc. Hãy thử hình dung các khả năng xảy ra tố cáo và từ đó “định vị” được các loại tố cáo để xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Để làm được điều này, theo chúng tôi, có ba vấn đề cần giải quyết:
– Phân định giữa tố cáo hành vi vi phạm của cán bộ, công chức khi thực hiện công vụ với hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cá nhân nào với tư cách công dân;
– Phân định giữa tố cáo tội phạm và tố cáo hành vi vi phạm pháp luật khác chưa đến mức độ tội phạm;
– Phân định giữa tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức và hành vi vi phạm của công chức, cán bộ đó với tư cách là một đảng viên đã vi phạm Điều lệ Đảng.
Tất nhiên đây sẽ là một vấn đề cực kỳ phức tạp và phương án giải quyết nào cũng sẽ có những điểm hạn chế, mâu thuẫn. Xin nêu ra đây mốt số giải pháp bước đầu:
Trước hết, điều quan trọng nhất là xác định đối tượng bị tố cáo và tính chất hành vi bị tố cáo. Theo chúng tôi nên chia làm hai loại:
Loại thứ nhất: đối tượng tố cáo là công dân bình thường và hành vi vi phạm của họ không liên quan đến nhân thân, nghề nghiệp của họ. Chẳng hạn hành vi đánh bạc, đua xe máy hay buôn lậu… có thể xảy ra với bất kỳ ai. Đối với đối tượng và loại hành vi này thì cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố cáo là cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực đó (chẳng hạn cơ quan giải quyết chuyện đánh bạc là cảnh sát, giải quyết tố cáo buôn lậu là cơ quan thuế…), nếu những hành vi này đến mức độ tội phạm thì cơ quan tố tụng hình sự có thẩm quyền giải quyết. Giữa hai loại cơ quan này có mối quan hệ qua lại để xử lý vụ việc tuỳ theo tính chất và mức độ nguy hiểm của nó. Nếu cơ quan quản lý thấy đến mức độ tội phạm thì chuyển cơ quan điều tra và ngược lại, nếu cơ quan điều tra nhận được tố cáo nhưng xét thấy hành vi đó chưa đến mức độ tội phạm thì gửi sang cơ quan quản lý để xử lý bằng các biện pháp hành chính.
Loại thứ hai: đối tượng bị tố cáo là cán bộ, công chức và hành vi bị tố cáo liên quan đến việc thực thi nhiệm vụ, công vụ. Đây là vấn đề phức tạp nhất. Theo chúng tôi chỉ có một cách khả dĩ có thể tránh được sự phức tạp chồng chéo khi giải quyết loại tố cáo này là giao cho cơ quan thanh tra nhà nước, bởi vì về bản chất, cơ quan thanh tra chính là cơ quan giám sát việc thực thi nhiệm vụ, công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức (Điều 1 của Sắc lệnh số 64 ngày 23/11/1945 đã thể hiện rõ điều này và đây chính là tư tưởng của Hồ Chí Minh về công tác thanh tra). Phương án này sẽ dễ dàng thực hiện với sự đổi mới toàn diện tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước theo hướng, thanh tra sẽ thực hiện chức năng giám sát hành chính, việc giải quyết khiếu nại hành chính sẽ giao cho cơ quan chuyên trách (cơ quan tài phán hành chính như hiện nay đang nghiên cứu xây dựng), việc thanh tra các doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức ngoài nhà nước (thường được gọi là thanh tra kinh tế – xã hội) sẽ do các bộ, ngành đảm nhiệm theo chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của bộ, ngành đó trên các lĩnh vực mà họ được phân công phụ trách, bởi vì bất cứ lĩnh vực nào cũng đều đã có một bộ chịu trách nhiệm quản lý mà công tác thanh tra, kiểm tra là một khâu trong công tác quản lý của bộ ngành đó.
Tiếp đó nếu cán bộ, công chức đó là đảng viên thì phải giải quyết mối quan hệ giữa cơ quan thanh tra nhà nước và cơ quan kiểm tra kỷ luật của Đảng. Chúng ta nên nhớ rằng, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ (Điều 4 Pháp lệnh Cán bộ, công chức và nguyên tắc đầu tiên về quản lý cán bộ, công chức là “Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam” (Điều 5 Luật Cán bộ, công chức có hiệu lực từ 01/01/2010). Giải quyết tố cáo chắc chắn sẽ dẫn đến việc xử lý cán bộ (nếu tố cáo đó là đúng).
Trong việc xử lý cán bộ thì ý kiến của cơ quan đảng có tính chất quyết định, vì vậy, công tác giải quyết các tố cáo của các tổ chức thanh tra nhà nước phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan kiểm tra của Đảng (theo chúng tôi, tốt nhất là cơ quan kiểm tra và kỷ luật của Đảng). Phương thức kết hợp có thể như sau:
– Đối với cán bộ, công chức là đảng viên bình thường thì cơ quan thanh tra tiến hành xem xét, xác minh tố cáo về những vi phạm pháp luật của người này, sau đó kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý kỷ luật (nếu đến mức độ hình sự thì chuyển cho cơ quan tố tụng hình sự), đồng thời báo cáo cơ quan kiểm tra, kỷ luật đảng để xử lý về mặt Đảng.
– Đối với cán bộ công chức là đảng viên thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý thì có thể cơ quan kiểm tra kỷ luật của Đảng chủ trì phối hợp với cơ quan thanh tra nhà nước xem xét giải quyết tố cáo đó. Hoặc có thể trong quá trình xem xét giải quyết tố cáo một đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý trong cơ quan nhà nước, cơ quan kiểm tra kỷ luật của Đảng có thể yêu cầu cơ quan thanh tra tiến hành xem xét làm rõ một hoặc một số vấn đề liên quan đến trách nhiệm của người bị tố cáo, sau đó báo cáo kết quả cho cơ quan kiểm tra kỷ luật của Đảng để cơ quan này quyết định xử lý đối với cán bộ, đảng viên đó. Cơ quan kiểm tra, kỷ luật của Đảng sau khi đã có kết luận và xử lý về mặt Đảng sẽ yêu cầu cơ quan nhà nước xử lý theo pháp luật đối với người bị tố cáo.
Để thực hiện sự phối hợp này thì phương án kết hợp giữa cơ quan thanh tra nhà nước và cơ quan kiểm tra, kỷ luật của Đảng theo mô hình “một nhà hai cửa” của Trung Quốc sẽ là tối ưu.
(1) Lịch sử Thanh tra Việt Nam 1945-2005, Thanh tra Chính phủ, Nxb.Chính trị quốc gia , Hà Nội, 2005, tr. 17.
Đinh Văn Minh – Phó Viện trưởng Viện Khoa học thanh tra