1. Bảo hiểm tín dụng thương mại
Tín dụng: Là khái niệm thể hiện mối quan hệ giữa người cho vay và người vay. Trong quan hệ này, người cho vay có trách nhiệm chuyển giao quyền sử dụng tiền hoặc hàng hóa cho vay cho người đi vay trong một khoảng thời gian nhất định. Người đi vay có trách nhiệm hoàn trả lại tiền hoặc hàng hóa đã vay sau khi hết hạn vay có kèm hoặc không kèm khoản lãi vay nhất định.
Tín dụng thương mại: Là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp, được thực hiện dưới hình thức mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp hàng hóa. Khi đến thời hạn nhất định theo thỏa thuận, doanh nghiệp mua phải hoàn trả cả vốn gốc và lãi cho doanh nghiệp bán với hình thức tiền tệ.
Bảo hiểm tín dụng thương mại là loại bảo hiểm hướng tới các doanh nghiệp có nhu cầu bảo vệ cho các khoản phải thu từ việc bán hàng hóa và dịch vụ theo phương thức trả chậm, bảo vệ doanh nghiệp trước rủi ro chậm thanh toán hoặc mất khả năng thanh toán của người mua, mang đến cho doanh nghiệp rất nhiều lợi ích thiết thực, hỗ trợ doanh phát triển, vươn xa.
2. Các bên trong tranh chấp
– Các bên:
+ Nguyên đơn: Một ngân hàng Bỉ (X) và một công ty Pháp (Y)
+ Bị đơn: Hãng bảo hiểm (Z)
– Các vấn đề được đề cập:
+ Quyền khởi kiện
+ Luật áp dụng cho hợp đồng
+ Bảo hiểm thông thường hay bảo hiểm tín dụng?
+ Sự kiện bảo hiểm và tính không lường trước được của hợp đồng bảo hiểm
+ Tình trạng phá sản của một bên trong tố tụng trọng tài
3. Tóm tắt vụ việc:
Công ty Y ký hợp đồng bán nguyên vật liệu cho một ngưồi mua châu Phi. Hai bên thoả thuận tiền hàng phải được thanh toán bằng tín dụng chứng từ không huỷ ngang, có xác nhận, trong đó quy định trả 90% giá trị lô hàng sau mỗi lần giao hàng, 10% còn lại sẽ thanh toán khi bên bán xuất trình “Các thư giải phóng hàng” mà người mua phải phát hành 60 ngày sau khi chuyến hàng cuối cùng về đến điểm giao hàng. Việc mua bán này được thực hiện bằng nguồn tài chính của ngân hàng Bỉ (X)
Một hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết giữa X, Y và hãng bảo hiểm z theo đó z cam kết trả cho người bán khoản bảo hiểm trong trường hợp người mua không thanh toán 10% giá trị lô hàng khi các chứng từ lấy hàng đã được xuất trình. Thời gian bảo hiểm kéo dài từ ngày 1 tháng 11 năm 1988 đến ngày 31 tháng 3 năm 1989 và thời hạn đòi thanh toán tiền bảo hiểm là 510 ngày kể từ ngày xảy ra sự kiện bảo hiểm. Theo bản Phụ lục của Hợp đồng, ngân hàng X, người sẽ trực tiếp trả phí bảo hiểm, sẽ được hưỏng tiền bảo hiểm.
Ngày 2/2/1989, công ty Y thông báo cho hãng bảo hiểm z rằng việc dỡ hàng của chuyến tàu cuối cùng đã thực hiện vào ngày 26/11/1988 mà công ty này vẫn chưa nhận được “Các thư giải phóng hàng” đáng ra đã phải được ký phát chậm nhất là vào ngày 25/1/1989 tức là 60 ngày sau khi dỡ lô hàng cuôì cùng để người bán có thể nhận được khoản thanh toán 10% còn lại. Công ty Y cũng thông báo cho hãng bảo hiểm z rằng họ đã và đang tiến hành xác minh việc không thanh toán này tại nước của người mua và qua ngân hàng đã xác nhận tín dụng chứng từ nói trên. Hãng bảo hiểm z trả lời rằng họ ghi nhận việc “Các thư giải phóng hàng” vẫn chưa được ký phát và họ chờ đợi kết quả tiếp theo của vụ việc.
Sau đó, hãng z nhận thấy rằng công ty Y đã thoả thuận với khách hàng của mình kéo dài thêm thời hạn tín dụng đến ngày 31/5/1989 mà không có sự đồng ý của hãng z và thời hạn của hợp đồng bảo hiểm vì thế cũng bị ảnh hưởng. Trên cơ sở các căn cứ chấm dứt bảo hiểm, hãng z cho rằng mình được giải phóng khởi trách nhiệm bảo hiểm.
Ngân hàng X (với tư cách là người kiện chính) và Công ty Y (với tư cách là người kiện phụ trợ) đã kiện ra trọng tài yêu cầu Hãng z trả tiền bảo hiểm như thoả thuận.
4. Phán quyết của trọng tài:
4.1. Về tư cách khởi kiện của công ty Y:
Trong Bản giải trình gửi cho trọng tài, Bị đơn đã đề nghị trọng tài xem xét tính hợp pháp của quyền khởi kiện của bên nguyên thứ hai. Trọng tài cho rằng yêu cầu này là hợp lý và chấp nhận xem xét giải quyết.
Phụ lục của hợp đồng bảo hiểm ký ngày 30 tháng 11 năm 1988 quy định : “theo đề nghị của người được bảo hiểm, quyền hưỏng bảo hiểm khi sự cố xảy ra sẽ được chuyển cho ngân hàng X; Phụ lục này đã được cả Y, z và X ký.
Công ty Y không lập luận rằng các bên đã thoả thuận một phụ lục mới thay đổi nội dung bản phụ lục ký ngày 30 tháng 11 năm 1988, cũng không khẳng định mình được ngân hàng chấp thuận cho lấy lại quyền nhận tiền bảo hiểm. Trong khi đó khiếu kiện của ngân hàng chỉ nhằm một mục đích duy nhất là đòi hãng z trả bảo hiểm đã quy định trong hợp đồng bảo hiểm. Công ty Y cũng không đưa ra được một chứng cứ pháp lý nào chứng minh cho lập luận về tư cách “nguyên đơn bổ trợ” mà Nguyên đơn đã đưa ra bỏi vì chính Ông …., cán bộ phụ trách thủ tục phá sản của công ty Y, đại diện công ty này, đã viết rằng khoản tiền bồi thường trị giá … phải được trả cho ngân hàng X, đơn vị đã cấp tín dụng cho khoản tiền 10% côn lại của hợp đồng bán hàng.
Do đó, trọng tài kết luận rằng công ty Y không có quyền khởi kiện và vì vậy bác đơn kiện của công ty Y.
4.2. về bản chất của hợp đồng bảo hiểm:
Các bên có quan điểm khác nhau về bản chất của Hợp đồng bảo hiểm mà các bên đã ký kết. Đôì vổi các Nguyên đơn, đó là một hợp đồng bảo hiểm thông thưòng và được điều chỉnh bồi Bộ luật Bảo hiểm Pháp, trong khi đó Bị đơn lại coi đây là một Bảo hiểm tín dụng:
Hợp đồng bảo hiểm, phần Mỏ đầu của Các Điều kiện chung quy định: “hợp đồng bảo hiểm này được điều chỉnh bởi Luật của quốc gia thuộc Cộng đồng chung châu Âu được nêu trong phần Các Điều kiện đặc biệt”. Trong Các Điều kiện đặc biệt này có một điều khoản trọng tài trong đó quy định một cách chung chung là luật của Pháp sẽ là luật áp dụng cho hợp đồng. Không một quy định nào trong các Điều kiện chung hay Điều kiện đặc biệt dẫn chiếu cụ thể đến Bộ luật Bảo hiểm hay một quy định pháp quy khác của hệ thống luật Pháp.
Tuy nhiên, khoản cuối của Điều 1 phần Các Điều kiện chung có quy định: “Các văn bản sau đây là bộ phận không tách rời của Hợp đồng bảo hiểm: bản hợp đồng này, các phụ lục của Các Điều kiện chung, các Điều kiện đặc biệt và bản hỏi đáp đã được người đề nghị bảo hiểm điền và ký tên gắn kèm hợp đồng thương mại”.
Tại trang 10 của bản hỏi đáp do hãng z lập và công ty Y ký tên có đoạn lưu ý người ký rằng việc khai không chính xác “tuỳ từng trường hợp có thể dẫn đến những hình thức phạt quy định trong các Điều L. 113-8 và L. 113-9 Bộ luật Bảo hiểm”. Chứng cứ này do các bên Nguyên đơn đưa ra và được uỷ ban trọng tài chấp nhận.
Do bản hỏi đáp này là một bộ phận của hợp đồng bảo hiểm nên rõ ràng là hợp đồng này thuộc sự điều chỉnh của Bộ luật Bảo hiểm mà Bị đơn buộc phải tuân thủ. Do đó, không nhất thiết phải xem xét thêm vấn đề liệu các bên trong hợp đồng có thoả thuận ký kết một hợp đồng bảo hiểm tín dụng theo định nghĩa của Jean Bastin (mà cả hai bên đương sự cùng viện dẫn) hay không. (Jean Bastin định nghĩa như sau: bảo hiểm tín dụng là “một hệ thống bảo hiểm cho phép các chủ nợ có thể thu hồi được các khoản nợ, thông qua khoản tiền bảo hiểm, trong trường hợp những người có nghĩa vụ trả nợ đã nêu đang trong tình trạng mất khả năng thanh toán và do đó không thể thanh toán được khoản nợ”).
Theo điều II của Các điều kiện chung của Hợp đồng bảo hiểm, tất cả các thiệt hại phát sinh trực tiếp hay gián tiếp từ: “sự mất khả năng tài chính của người được bảo hiểm hay của người mua/người bán của người được bảo hiểm” không thuộc phạm vi được bảo hiểm. (Theo quy định của hợp đồng bảo hiểm, việc thanh toán bảo hiểm sẽ được thực hiện nếu bên bán không được thanh toán số tiền hàng 10% còn lại do lỗi của người mua hàng không thực hiện nghĩa vụ ký phát các chứng từ lấy hàng). Điều này trái với định nghĩa của Jean Bastin về bảo hiểm tín dụng nên có thể kết luận bản hợp đồng ký kết giữa Nguyên đơn và Bị đơn năm 1988 không phải là một bảo hiểm tín dụng. Và vì thế không cần phải xem xét lập luận của BỊ đơn rằng trong trường hợp này tồn tại sự mất khả năng thanh toán và rằng đây là trường hợp được loại trừ khởi việc bảo hiểm.
Trọng tài kết luận rằng Hợp đồng bảo hiểm này được điều chỉnh bởi Bộ luật Bảo hiểm và tất cả các điều kiện chung và điều kiện đặc biệt quy định trong Hợp đồng đó.
4.3. Về nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm:
BỊ đơn lập luận rằng mình không có bất cứ một nghĩa vụ nào đốì với bên Nguyên đơn vì lý do trên thực tế phí bảo hiểm chỉ được thanh toán vào ngày 8/2/1989, tức là sau khi xảy ra sự kiện bảo hiểm (tiền hàng không được thanh toán do người mua châu Phi không ký phát các chứng từ cần thiết để người bán nhận tiền hàng) vào ngày 26/1/1989.
Nguyên đơn thừa nhận rằng đúng là theo Điều V của Các Điều kiện chung của Hợp đồng bảo hiểm, Hợp đồng này ‘chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm thanh toán phí bảo hiểm. Tuy nhiên, phần Các Điều kiện đặc biệt lại quy định rằng “dù cho ngày có hiệu lực theo quy định tại Các Điều kiện đặc biệt này là ngày nào, việc bảo hiểm chỉ được thực hiện nếu bên được bảo hiểm đã trả phí bảo hiểm. Nếu phí bảo hiềm không được trả, người bảo hiềm có quyền huỷ hợp đồng mà vẫn bảo lưu quyền đòi phí bảo hiểm”.
Theo Uỷ ban trọng tài, các Nguyên đơn đã rất có lý khi dẫn chiếu đến điều khoản này của Các Điều kiện đặc biệt, bởi vì Hợp đồng bảo hiểm quy định rõ rằng trong trường hợp có sự bất đồng trong cách hiểu, thì Các Điều kiện đặc biệt sẽ có hiệu lực ưu tiên hơn tất cả các quy định khác của Hợp đồng. Như vậy, các Điều kiện đặc biệt sẽ là cơ sở để trọng tài xem xét giải quyết bất đồng này của các bên.
Uỷ ban trọng tài thừa nhận đây là một điều khoản không mấy rõ ràng. Tuy nhiên điều khoản này không thể được hiểu là cho phép người được bảo hiểm chỉ trả tiền phí bảo hiểm sau khi đã xảy ra sự kiện được bảo hiểm; điều khoản này chỉ có thể được hiểu một cách thiện chí và trung thực, phù hợp với ý chí của các bên, là có thể trả phí bảo hiểm sau ngày hợp đồng có hiệu lực, tức là sau ngày 10 tháng 11 năm 1988, thời điểm bắt đầu thời hạn bảo hiểm, nhưng phải trước ngày xảy ra sự kiện được bảo hiểm. Bản chất của hợp đồng bảo hiểm là tính không thể dự đoán trước. Điều này cũng được Nguyên đơn thừa nhận. Nếu các Nguyên đơn được phép thanh toán phí bảo hiểm sau khi sự kiện được bảo hiểm đã xảy ra thì rõ ràng là hợp đồng bảo hiểm mất đi tính chất “không thể dự đoán trước được” này.
Do vậy, trọng tài cho rằng: phí bảo hiểm được thanh toán vào ngày 8/2/1989, sau khi thời hạn 2 tháng để người mua ký phát các chứng từ lấy hàng đã kết thúc (vào ngày 25/1/1989), tức là sau thời điểm xuất hiện sự kiện được bảo hiểm, do đó Bị đơn không có nghĩa vụ thực hiện việc bảo hiểm, và khiếu kiện của các Nguyên đơn là không có căn cứ.
3.4. Về trách nhiệm nộp phí trọng tài:
Khi đơn kiện bị bác thì phí trọng tài và các phí khác đương nhiên sẽ do các nguyên đơn trả. Tuy nhiên, việc Y đang trong giai đoạn tiền phá sản đặt ra một vấn đề đặc biệt mà trọng tài xử lý như sau :
Các Nguyên đơn hoàn toàn không có cơ sồ khởi kiện yêu cầu Bị đơn thanh toán tiền bảo hiểm, do đó, phải chịu trách nhiệm trả toàn bộ phí trọng tài. Tuy nhiên, vì Nguyên đơn Y đang trong giai đoạn tiến hành thủ tục phá sản nên Uỷ ban trọng tài không thể buộc các Nguyên đơn trả các phí xét xử (Phán quyết của Toà Dân sự Toà Phá án ngày 8 tháng 3 năm 1988 trong vụ Công ty Thinet kiện Labrely, Tạp chí Trọng tài năm 1989, trang 473).
Do đó, uỷ ban trọng tài quyết định các Nguyên đơn (X và Y) phải chịu trách nhiệm chung và liên đới đôì với toàn bộ phí trọng tài nhưng không ra quyết định buộc các Nguyên đơn phải trả ngay khoản phí này.
5. Một vài nhận xét về các quyết định trong phán quyết:
5.1. về quyền khởi kiện của Công ty Y:
Đây là một trường hợp ít gặp trong thực tiễn xét xử: trong số hai nguyên đơn, một người hành động vối tư cách là nguyên đơn phụ trợ trong khi nguyên đơn chính lại đưa ra một khiếu kiện hoàn toàn không có cơ sở.
Thực tế trong vụ việc này, chính Công ty Y và Ngân hàng X cũng lưỡng lự về quyền khởi kiện đòi người bảo hiểm thanh toán tiền bảo hiểm mà hai chủ thể này tin là họ có quyền được hưỏng sau khi người mua không thanh toán tiền hàng.
Ngân hàng, người được bảo hiểm và người bảo hiểm trên thực tế đều nhất trí rằng trong trường hợp có sự cố, tiền bồi thường sẽ được trả trực tiếp cho ngân hàng. Điều này thể hiện sự cẩn trọng hợp lý của bên cấp tài chính, người đã ứng trước số tiền mà bên mua phải trả cho bên bán. Quy định này thưòng đi đôi với việc chuyển cho ngân hàng quyền thụ hưởng đối với tín dụng chứng từ mà người mua phát hành để thanh toán tiền hàng. Nhưng, trong một trưồng hợp như thế này, việc chuyển dịch đó có dẫn tới việc chuyển dịch luôn quyền khởi kiện không? Liệu đây có thể được coi là một hình thức thế quyền (tương đối hoặc tuyệt đốỉ), một trường hợp ký kết hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba hay một uỷ nhiệm thanh toán (giữa Y và X) như quy định tại Điều 1277 Bộ luật Dần sự Pháp không?
Do còn phân vân về điều này nên ngần hàng và người được bảo hiểm đã cùng khởi kiện, để cho trọng tài quyết định xem việc khởi kiện của ai là hợp lý, đơn kiện của ngân hàng với tư cách là bên khỗi kiện chính hay đơn của Công ty Y vổi tư cách là bên khởi kiện phụ trợ. Trọng tài rõ ràng đã chọn phương án đầu tiên, bỏi vì họ cho rằng giữa người được bảo hiểm và người bảo hiểm không còn mối quan hệ hợp đồng nữa.
Cách giải quyết này của uỷ ban trọng tài gây nhiều tranh cãi bởi việc ký kết một hợp đồng bảo hiểm cho bên thứ ba hưỗng lợi vốh được coi như là một hình thức ký kết hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba (Xem H.L. và J. Mazeaud, F. Chabas, Giáo trình Luật dân sự, Tập 2: Nghĩa vụ, trang 907), tức là người ký hợp đồng bảo hiểm vẫn được coi là một bên trong hợp đồng dù không được nhận tiền bảo hiểm, và do đó người ký bảo hiểm vẫn có quyền kiện người bảo hiểm nếu có tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm. Nhưng đúng là sự khác nhau giữa hình thức thế quyền và ký hợp đồng vì quyền lợi của người thứ ba là rất nhỏ, thê quyền tồn tại khi “khi bên thứ ba tham gia vào việc ký kết hợp đồng vì lợi ích của mình và chấp nhận việc hưởng lợi bắt đầu từ thời điểm ký kết đó” (Giáo trình luật Dân sự đã dẫn, trang 1270). Điều này đã xảy ra trong vụ việc đang xét bởi chính ngân hàng đã tham gia vào việc ký kết hợp đồng bảo hiểm cùng vối công ty Y và hãng bảo hiểm z đồng thời cam kết sẽ tự mình trả phí bảo hiểm. Do đó, người được bảo hiểm ban đầu đã mất hoàn toàn mọi quyền khởi kiện đôì vối người bảo hiểm.
5.2. Hợp đồng bảo hiểm thông thường hay Bảo hiểm tín dụng?
Khoản 3, Điều L. 111-1 của Bộ luật Bảo hiểm có quy định rằng ba đề mục đầu tiên của quyển I Bộ luật Bảo hiểm, liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, không áp dụng cho các giao dịch về bảo hiểm tín dụng.
Để quyết định rằng hợp đồng bảo hiểm đang xem xét này không phải là một hợp đồng bảo hiểm tín dụng, trong khi nó rất giống như vậy, trọng tài đã phải tiến hành hai bước.
Xác định xem luật nào trong bản thân hệ thông pháp luật nội địa của Pháp có thể áp dụng cho hợp đồng đang xét (điều này có vẻ hơi lạ vì thông thưồng việc lựa chọn luật áp dụng chỉ được tiến hành khi có xung đột pháp luật giữa hai hay nhiều nưổc). Trọng tài đã quyết định rằng bản hợp đồng này được điều chỉnh bởi Bộ luật Bảo hiểm bỏi vì các bên muốn như vậy chứ không xác định bản chất của hợp đồng trên cơ sồ các đặc điểm của hoạt động bảo hiểm mà các bên thoả thuận. Mong muốn này của các bên được thể hiện thông qua việc dẫn chiếu đến hai điều khoản của Bộ luật Bảo hiểm trong bản hỏi đáp mẫu và là một bộ phận không tách rời của hợp đồng bảo hiểm, hoàn toàn giông như từ việc một số điều khoản của Bộ luật dân sự Pháp được nêu lên trong một bản hợp đồng quốc tế, một trọng tài có thể suy đoán là các bên muôn dùng luật của Pháp để điều chỉnh hợp đồng đó.
Việc làm này của trọng tài nhằm xác định ý chí của các bên là hoàn toàn đúng đắn, nhưng liệu trong một hệ thống pháp luật nội địa các bên vẫn có quyền tự do lựa chọn áp dụng luật này hay luật khác để áp dụng cho hợp đồng của mình giông như trong một hợp đồng quốc tế không? Trong hệ thông pháp luật nội địa, quan hệ hợp đồng do các bên thiết lập phải tuân thủ các quy phạm bắt buộc không phụ thuộc vào việc xác định bản chất của quan hệ đó. Vì vậy, việc các bên tự thoả thuận trưóc với nhau về bản chất của quan hệ hợp đồng phải hết sức thận trọng. Tuy nhiên, trong phán quyết này, các trọng tài lại cho điều này là thứ yếu và từ việc phân tích hợp đồng bảo hiểm bị tranh chấp, Uỷ ban trọng tài đã đi đến kết luận rằng đây không phải là một bảo hiểm tín dụng.
Quan niệm về hợp đồng tín dụng của trọng tài theo đó bảo hiểm tín dụng chỉ giới hạn ở các hợp đồng bảo hiểm khi người phải thanh toán nợ mất khả năng thanh toán có vẻ là quá hẹp. Trong vụ việc này uỷ ban trọng tài đã đi đến kết luận rằng hợp đồng phải được điều chỉnh bởi Bộ luật bảo hiểm Pháp. Nhưng liệu kết luận này của trọng tài có cần thiết không khi thực ra một hợp đồng bảo hiểm tín dụng vẫn có thể thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Bảo hiểm Pháp, hoặc chính xác hơn là một phần của Bộ luật này (trừ phần không áp dụng cho bảo hiểm tín dụng).
5.3. Về tính không thể dự đoán trước của hợp đồng bảo hiểm:
Trọng tài khẳng định chắc chắn rằng hợp đồng bảo hiểm là một hợp đồng không thể dự đoán trước được (việc thực hiện bảo hiểm phụ thuộc vào sự xuất hiện của sự kiện được bảo hiểm). Tuy nhiên tính chất này không phải là tuyệt đối, ít nhất là từ phía người bảo hiểm bởi khi nhận bảo hiểm người bảo hiểm phải có những số liệu thống kê và những tính toán về xác suất xảy ra sự cố làm căn cứ để tính phí bảo hiểm (CF. J. Carbonnier, Luật dân sự, T.4, số 11, trang 38).
Tuy vậy, nếu so với các loại hợp đồng khác thì rõ ràng là trong hợp đồng bảo hiểm, yếu tố ngẫu nhiên có vai trò quan trọng và do đó tính không thể dự đoán trước vẫn được coi là một đặc tính của loại hợp đồng này. Vì thế quan điểm cho rằng người thụ hưởng bảo hiểm có thể làm cho hợp đồng có hiệu lực sau khi xảy ra sự kiện được bảo hiểm bằng cách thanh toán phí bảo hiểm là không thể chấp nhận được. Trong trưồng hợp này, yếu tố ngẫu nhiên không còn tồn tại đối với người được bảo hiểm cũng như đối với người bảo hiểm.
5.4. Về quyết định liên quan đến việc nộp phí trọng tài:
Khi một bên tham gia vụ kiện mà đang trong giai đoạn tiến hành các thủ tục phá sản, bên đó không thể bị các trọng tài buộc thanh toán một khoản tiền. Như p. Ancel đã nhấn mạnh trong phần nhận định của mình tại bản án của Toà Phá án ngày 8 tháng 3 năm 1988 (Tài liệu đã dẫn, trang 473) và được uỷ ban trọng tài nhắc lại trong phán quyết của mình, khi một bên đương sự đang trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản, quyết định của trọng tài về một khoản nợ đối với bên đó (trong vụ việc này là khoản phí trọng tài) chỉ có thể quyết định trên nguyên tắc và xác định về mức tiền, chứ không bắt buộc phải thanh toán. Toà Phá án trên thực tế đã cho rằng nguyên tắc về việc hoãn các khoản truy nợ đổì vối cá nhân do phá sản không chỉ là trật tự công cộng quốc gia mà còn là một nguyên tắc của trật tự công cộng quốc tế. Do đó, có thệ nói cách giải quyết của các trọng tài viên trong trường hợp này là hoàn toàn đúng về mặt nguyên tắc. Tuy nhiên, điểm khác biệt trong quyết định này là ỏ chỗ trọng tài đã quyết định rằng phí trọng tài sẽ thuộc trách nhiệm chung và liên đới giữa công ty Y và Ngân hàng X và không quyết định về việc phải thanh toán phí này vì có vấn đề thủ tục phá sản. Quyết định này của trọng tài cũng gây tranh cãi bởi trong số hai nguyên đơn, Ngân hàng X không ỏ trong tình trạng phá sản, như vậy liệu việc Ngân hàng X cũng được đối xử như Công ty Y có phải là công bằng không?