1. Mở đầu vấn đề

Chủ nghĩa thực dụng, với tư cách là một trường phái triết học, đã ra đời trong các năm 1871 – 1874, khi Câu lạc bộ siêu hình học ở trường Đại học Cambrit được thành lập. Đó là một hội học thuật do một số giáo viên của trường tổ chức ra.

Người sáng lập ra chủ nghĩa thực dụng là Piếcxơ và trong số những thành viên của nó, người sau đó trở thành một trong những đại biểu chủ yếu là Giêmxơ.

Nguyên tắc căn bản trong phương pháp luận của chủ nghĩa thực dụng là lấy hiệu quả, công dụng làm tiêu chuẩn.

Một đặc điểm làm cho chủ nghĩa thực dụng khác với triết học truyền thống là nó đi vào triết học từ phương pháp. Người đại biểu chủ yếu của nó có lúc đã quy triết học chỉ còn là vấn đề phương pháp, tuyên bố chủ nghĩa thực dụng không phải là lý luận triết học có hệ thống, mà chỉ là lý luận về phương pháp.

 

2. Cách hiểu về chủ nghĩa thực dụng

Cùng với ý tưởng xây dựng một triết học không quá suy lý xa vời như những triết học kinh viện để giúp con người dùng được một cách hữu hiệu trong đời sống hiện thực đã được bàn luận rất sôi nổi trong các cuộc hội thảo ở Câu lạc bộ “Métaphysique Club” (Câu lạc bộ siêu hình học) của Trường Đại học Cambridge năm 1870. Nhưng chỉ mãi sau này với sự công bố học thuyết Về lòng tin của C.X Pierce thì những ý tưởng đó về triết học mới được đặt tên chính thức: “Pragmatisme” – chủ nghĩa thực dụng.

Sự ra đời của chủ nghĩa thực dụng đã như diều gặp gió ở nước Mỹ, phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ. Ngay từ năm 1908 người ta đã tính được có tới 13 thuyết về chủ nghĩa thực dụng của các triết gia khác nhau. Cho tới nay chủ nghĩa thực dụng đã được giới triết học thế giới đánh giá là một đóng góp rất độc đáo và thật sự quan trọng của triết học Mỹ vào kho tàng triết học của nhân loại và khi nói đến chủ nghĩa thực dụng người ta chỉ nói đến ba khuôn mặt tiêu biểu nhất là: C.X Pierce, W.James và J.Dewey.

Nhà triết học C.X Pierce với học thuyết Về lòng tin: Theo C.X Pierce muốn có lòng tin phải xây dựng được một phương pháp tư duy sáng suốt, chính xác để nhận biết những tư tưởng, lý thuyết nào đúng hay sai, tích cực hay tiêu cực trong việc tác động đến những hành động của chúng ta. Theo ông tư tưởng nào thì tạo ra hành động ấy. Nhưng tư tưởng giống nhau thì sẽ cho những kết quả giống nhau và ngược lại. Và nội dung của bất cứ tư tưởng nào cũng là tổng số của những hậu quả thực tiễn. Cho nên muốn đánh giá, muốn biết giá trị của một tư tưởng nào, một lý luận, học thuyết thì phải căn cứ vào những kết quả, những hậu quả đã được thể hiện kiểm nghiệm trong thực tiễn. Chỉ có như vậy mới xác định được tư tưởng nào, lý luận, học thuyết nào ta sẽ đặt lòng tin vào để dùng nó làm cơ sở, làm phương hướng cho hành động. Có thể hiểu chủ nghĩa thực dụng mà C.X Pierce nêu lên cũng là một thứ chủ nghĩa thực tiễn. Đây chính là một tư tưởng có tính chất phản kháng lại những chân lý mang tính chất suy lý, lý thuyết trường ốc, kinh viện từ châu Âu mang sang không thiết thực, đắc dụng với phần lớn người Mỹ, những người trong lịch sử đã rời bỏ tổ quốc, đất mẹ vượt Đại Tây Dương đến lục địa trẻ này để lập nghiệp, để tìm sự thành công để đổi đời nên chỉ nhìn cuộc sống với những con mắt hiện thực, thực tiễn để hành động. Những lý thuyết nêu trong chủ nghĩa thực dụng của C.X Pierce đã mang tính đột phá, mở đường.

Có thể nói, chỉ đến khi W.James xuất hiện với Học thuyết về chân lý mới thực sự đưa chủ nghĩa thực dụng lên địa vị đỉnh cao, sự ưu thắng đối với các trường phái triết học khác trong những thập niên đầu thế kỷ XX trong xã hội Mỹ. Nếu như C.X Pierce lấy hậu quả thực tiễn làm cơ sở xác định ý nghĩa của một tư tưởng thì W.James  lại lấy hậu quả “có ích” để xác định sự đúng, sai của những tư tưởng – tức là xác định giá trị của chúng. W.James đã so sánh tư tưởng với việc phát hành giấy bạc. Tư tưởng chừng nào còn có ích, thì còn lưu hành được, tư tưởng nào không còn giá trị ích lợi nữa sẽ cũng giống như giấy bạc khi bị xuống giá, mất giá, phá giá khó có thể tiếp tục trao đổi, lưu hành được thì phải thay giấy bạc khác, đổi đồng tiền khác. Và ông đã đưa ra một định nghĩa nổi tiếng về chân lý: “Chân lý là cái gì đem lại những hậu quả có ích”.

Khi đưa ra định nghĩa: chân lý là cái có ích, W.James nói rõ quan điểm của ông: Chân lý là những điều không phải trừu tượng, chung chung mà rất cụ thể: Chân lý cho ai? Vì vậy sẽ có chân lý của những cá nhân, những nhóm người, những tập đoàn, những giai cấp, những nhà nước, những tôn giáo… và chân lý sẽ được phân hạng tùy thuộc vào tính chất của lợi ích. Tính chất lợi ích hạn hẹp cục bộ (chân lý thuộc hạng thấp). Tính chất lợi ích rộng rãi, bền vững, lâu dài (chân lý thuộc hạng cao). Tất cả những loại chân lý này đều hiện diện trong cuộc sống và chúng sẽ cọ sát, đấu tranh với nhau để khẳng định mình. Những chân lý nào thể hiện được tính thuyết phục, tính chắc chắn, đứng vững được sẽ là những chân lý được tin cậy. Và cũng theo W.James, chân lý dựa vào tính lợi ích sẽ không bao giờ có những loại chân lý vĩnh cửu, chân lý đúng mãi mãi với hiện thực.

Theo ông tất cả mọi nhiệm vụ triết lý của ta, nói cách khác phương pháp tư duy của ta là làm thế nào tìm ra được sự khác biệt của hiện thực ở từng thời đại, thời điểm, hoàn cảnh, điều kiện khác nhau để đưa ra những lối nhìn, những cách đánh giá khác nhau về những lợi ích. Vì vậy những chân lý không còn hợp thời, hợp thức thì phải loại bỏ hay chỉnh sửa để thay đổi phù hợp với hiện thực, với cách mạng, với tiến bộ và văn minh.

Ông J.Dewey là nhà triết học, xã hội học và nghệ thuật học Mỹ nổi tiếng của trường phái Chicago. Tên tuổi ông gắn liền với bước phát triển của chủ nghĩa thực dụng ở giai đoạn cuối, nổi bật nhất là thuyết công cụ (L’Instrumentalisme). Theo J.Dewey bước vào thời đại ngày nay nhận thức phải được nhìn nhận khác trước. Những thời đại trước, các nhà triết học, các nhà khoa học coi việc nhận biết, tìm hiểu thế giới là quan trọng nhất. (nhận thức về những tính chất, bản chất, bản thể, các quy luật… của giới tự nhiên, xã hội, con người là gì?…) điều này là rất cần thiết.

Nhưng đã qua rồi thời kỳ con người mô tả thế giới, vẽ chân dung về thế giới, rồi ngắm nhìn, chiêm ngưỡng thế giới. Giờ đây nhiệm vụ nhận thức của con người là cải tạo thế giới. Tức thế giới không còn là đối tượng để quan sát nữa, mà là đối tượng để cải tạo vì lợi ích của con người. Thế giới không còn là đối tượng của trực quan nữa mà là đối tượng của thực tiễn. Vì vậy nhận thức phải trở thành những công cụ để cải tạo thế giới đem lại những hiệu quả có ích. Những công cụ nhận thức này (hiểu là sản phẩm trí tuệ, kiến thức gồm: những lý luận, những lý thuyết, những học thuyết, những tư tưởng của mọi lĩnh vực) phải được sáng tạo được “chế” ra trên cơ sở bám sát vào những hoàn cảnh, những điều kiện, những thời điểm, những yêu cầu của thực tiễn.

Có gì khác khi Chủ nghĩa Marx coi thực tiễn là mục đích của nhận thức, còn J.Dewey thì coi nhận thức phải có nhiệm vụ cải tạo thực tiễn? Nhận thức là nhận thức về mọi điều. Marx nói: “Thực tiễn là mục đích của nhận thức” là để nói về nhiệm vụ của nhận thức (hiểu là nhiệm vụ quan trọng nhất). Còn J.Dewey lại nói về tính chất của nhận thức: Nhận thức phải được coi như những công cụ (giống như những công cụ mang tính chất vật thể khác) tác động vào thế giới, cải tạo thế giới. Những công cụ nhận thức là những công cụ phi vật thể – là những công cụ tinh thần và trí tuệ có những khả năng và công hiệu rất lớn.

Vào thời J.Dewey khoa học kỹ thuật chưa phát triển rực rỡ như sau này để đưa ra khái niệm về “nền kinh tế trí thức” nhưng tư tưởng này đã đánh hơi về những khả năng siêu mạnh của “công cụ nhận thức”, “công cụ trí tuệ” sẽ có thể làm được mọi điều. Chủ nghĩa thực dụng phát triển mạnh ở nửa đầu thế kỷ XX, giai đoạn sau đó phân tán. Một bộ phận đi đến với chủ nghĩa Thomas mới, một bộ phận đi đến với chủ nghĩa chứng thực logic, chủ nghĩa hậu cấu trúc, chú ý nhiều đến việc nghiên cứu ngôn ngữ.

Riêng J.Dewey còn nghiên cứu thêm về nghệ thuật (trên cơ sở nghiên cứu ngôn ngữ). Ông cho rằng, tất cả các môn nghệ thuật đều được thể hiện, biểu lộ bằng “ngôn ngữ tín hiệu”, và quan trọng hơn, không có những quy luật chung  để hiểu ý nghĩa cho ngay cả riêng một loạt ngôn ngữ nghệ thuật. Do vậy, để hiểu thì cần phải căn cứ vào thời đại, thời điểm, điều kiện, hoàn cảnh, cũng như cần được trải nghiệm trong một cộng đồng cụ thể nào đó – tức trong những “văn cảnh” diễn ra nghệ thuật.

 

3. Phân tích chủ nghĩa thực dụng

Chủ nghĩa thực dụng (pragmatism), còn gọi là là chủ nghĩa hành động, là một thuật ngữ thông tục để chỉ lối hành xử dựa trên tình hình thực tế được biết đến, do đó hành động thiết thực được đặt trên lý lẽ có tính lý thuyết. Trong chủ nghĩa thực dụng, chân lý của một lý thuyết được đánh giá bởi thành công thực tế của nó, cho nên hành động thực dụng không gắn liền với nguyên tắc bất biến.

Trong triết học, đó là một trường phái được Charles Sanders Peirce và William James lập ra từ cuối thế kỷ 19 và được John Dewey, George Herbert Mead và George Santayana, tiếp tục triển khai trong thế kỷ 20. Những ý tưởng của Dewey và Mead cũng tạo cơ sở cho trường phái Xã hội học Chicago.

Trường phái này đã có tầm ảnh hưởng sâu rộng vào đời sống – xã hội Mỹ và trở thành học thuyết triết học đặc trưng của Mỹ thời kỳ này.

Theo chủ nghĩa thực dụng, những hậu quả thiết thực và ảnh hưởng của một hành động sống hay một sự kiện tự nhiên xác định tầm quan trọng của một tư tưởng. Theo đó kiến ​​thức của con người đối với con người thực dụng có thể sai lầm (fallibilism). Do đó chân lý của một tuyên bố hoặc ý kiến ​​(lòng tin) được xác định do kết quả mong đợi hoặc có thể có của một hành động. Việc thực hành của con người được hiểu như một nền tảng cũng như triết học lý thuyết (đặc biệt trong nhận thức luận và bản thể học), vì nó được giả định rằng, cả kiến ​​thức lý thuyết xuất phát từ việc xử lý thực tế các sự việc và vẫn còn phụ thuộc vào điều này. Trong tư tưởng căn bản triết học tồn tại giữa các vị trí của từng cá nhân thực dụng những khác biệt đáng kể, những điểm tương đồng là cùng dùng những phương pháp thực dụng hơn là những lý thuyết thống nhất. Triết gia William James cho là, muốn biết một ý tưởng đúng hay sai thì phải dựa trên kết quả thực nghiệm chứ không phải chỉ dựa trên luận lý viễn vông.

Cùng với chủ nghĩa thực chứng (positivism), chủ nghĩa cấu trúc (structuralism), chủ nghĩa duy khoa học (scientism)…trong khuynh hướng khoa học hay duy lý hiện đại, chủ nghĩa thực dụng chủ trương con đường thứ 3 trong triết học, vượt qua cả chủ nghĩa duy vật lẫn chủ nghĩa duy tâm, bác bỏ cả những vấn đề cơ bản của triết học vốn được đặt ra suốt nhiều thế kỷ qua, gắn các vấn đề của triết học với các vấn đề cụ thể của khoa học, nhất là khoa học thực nghiệm.

 

4. Quan niệm về chân lý của chủ nghĩa thực dụng

Lý luận về chân lý của chủ nghĩa thực dụng có quan hệ mật thiết với kinh nghiệm luận của nó. Lý luận này cho rằng tư duy của con người chỉ là một cách thức của kinh nghiệm, là hành vi thích ứng và chức năng phản ứng của con người. Nó không đưa lại một hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan.

Muốn xét một quan niệm nào đó có phải là chân lý hay không, thì không cần phải xem nó có phù hợp với thực tế khách quan hay không, mà phải xem nó có đem lại hiệu quả hữu dụng hay không.

=> Như vậy, hữu dụng và vô dụng đã trở thành tiêu chuẩn để phân biệt chân lý với sai lầm. “Hữu dụng là chân lý” đó là quan điểm căn bản của Giêmxơ về chân lý.

 

5. Nhận thức luận trong chủ nghĩa thực dụng

Chủ nghĩa thực dụng nói đến một phương thức tư duy đặc thù.

Phương thức tư duy đó không xem xét khái niệm ở bản thân khái niệm mà đi sâu nghiên cứu xem khi được sử dụng thì nó sản sinh ra hậu quả gì. Khái niệm và lý luận không phải là sự giải đáp về thế giới.

Các cuộc tranh luận giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học truyền thống là các cuộc đấu tranh có tính chất siêu hình, chẳng có ý nghĩa gì. Lấy hiệu quả thực tế mà xét thì dù thế giới là vật chất hay là tinh thần cũng chẳng có sự khác biệt gì.

Nếu xuất phát từ hiệu quả để khẳng định giá trị của tôn giáo và khoa học thì niềm tin khoa học và tín ngưỡng tôn giáo đều có giá trị thiết thực vì cả hai đều là công cụ để đạt đến mục đích của đời sống con người.

 

(MK LAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)

Trên đây là nội dung Luật LVN Group đã sưu tầm và biên soạn. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng. Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài gọi số: 1900.0191 hoặc liên hệ văn phòng để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật LVN Group

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

Luật LVN Group (Sưu tầm và biên tập).