Luật sư tư vấn:

Vấn đề chức năng của nhà nước thông qua các kiểu nhà nước được đề cập đến khi nghiên cứu môn lý luận nhà nước và pháp luật trong trường đại học. Căn cứ vào các tài liệu hiện nay, bạn có thể tham khảo các thông tin dưới đây, phân tích và làm sâu sắc thêm vấn đề cần nghiên cứu:

1. Chức năng kinh tế

Trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước, chức năng kinh tế có tầm quan trọng, nội dung, phương thức thực hiện khác nhau. Từ khi hoà bình, thống nhất đất nước, chức năng tổ chức và quản lí kinh tế trở thành chức năng quan trọng nhất của nhà nước. Hiện nay, Việt Nam phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vì vậy nội dung, cách thức thực hiện chức năng này có những điểm khác với trước đây. Thực tiễn đòi hỏi nhà nước phải có những chính sách và hoạt động phù hợp để phát triển kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ngày càng nâng cao mức sống của nhân dân. Chức năng kinh tế của Nhà nước ta bao gồm hai mặt là tổ chức kinh tế và quản lí kinh tế.

Trước hết, nhà nước thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế đang vận động và phát triển trong nền kinh tế. Nhà nước khẳng định:

“Nền kình tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tể; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” (khoản 1 Điều 51 Hiến pháp năm 2013).

Điều đó nhằm phát huy mọi nguồn lực, tận dụng được nhiều yếu tố tích cực của các thành phần kinh tế. Mặc dù các thành phần kinh tế đều bình đẳng, tuy nhiên, thông qua vai ữò chủ đạo cùa thành phân kinh tế nhà nước, nhà nước có thể giữ vai trò chủ động trong quản lí và điều hành nền kinh tế quốc dân. Trong thời gian vừa qua, nhà nước tiến hành cổ phần hoá các công ti, xí nghiệp của nhà nước, trong đó nhà nước vẫn giữ tỉ lệ cổ phần đủ đảm bảo sự chi phối của nhà nước trong những lĩnh vực ngành nghề quan trọng. Đe đảm bảo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển ổn định, lành mạnh, cân đối, bền vững theo quy luật của thị trường, nhà nước quản lí kinh tế một cách vĩ mô thông qua hoạt động tạo lập môi trường cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, thông qua việc định hướng, hướng dẫn cho các hoạt động kinh tế, thông qua hoạt động điều tiết và thông qua hoạt động kiểm soát của nhà nước đối với các hoạt động kinh tế.

Nhà nước có chính sách ưu tiên phát triển đối với những ngành nghề mang lại lợi nhuận thấp; thực hiện việc khuyến khích đối với những cá nhân, tổ chức kinh tế tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao động hay họ sử dụng được những người lao động yếu thế (người khuyết tật, thể trạng kém).

Nhà nước thực hiện quản lí kinh tế thống nhất nhưng cũng đã chú trọng tới những vùng địa phương có điều kiện tự nhiên, địa lí đặc biệt. Từ đó xây dựng những vùng đặc quyền kinh tế, khu kinh tế để phát huy được thế mạnh của các địa phương.

Tùy vào tình hình thực tiễn, nhà nước sử dụng các công cụ tài chính – tiền tệ tác động có hiệu quả vào nền kinh tế, sử dụng chúng làm đòn bẩy kích thích kinh tế tăng trưởng. Nhà nước đã sử dụng hợp lí thuế, phí để điều tiết nền kinh tế; quy định về phân phối sản phẩm xã hội, về giá, lương, tiền hợp lí để đảm bảo công bằng xã hội…

2. Chức năng chính trị

Đây là chức năng rất quan trọng của Nhà nước ta hiện nay khi mà các thế lực thù địch vẫn nuôi dưỡng âm mưu chống đối nhà nước, chống đối công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội một cách tinh vi, phức tạp. Nhà nước phải kiên quyết nghiêm trị mọi sự phản kháng của bất cứ lực lượng chống đối nào nhằm bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững an ninh chính trị, đảm bảo ổn định trật tự xã hội, phát triển đất nước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Tuỳ theo đặc điểm tình hình cụ thể mà nhà nước có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó, cần phát huy sức mạnh của toàn xã hội, hết sức chú trọng xây dựng các lực lượng vũ trang chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.

Trong điều kiện ngày nay, đòi hỏi Nhà nước ta phải không ngừng đề cao cảnh giác, kịp thời phát hiện và xử lí nghiêm minh bất cứ hành vi phản kháng, chống đối nào.

3. Chức năng xã hội

Chức năng xã hội của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam rất phát triển và được tiến hành với nhiều nội dung phong phú.

– Về văn hoá

Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một đất nước nghèo nàn lạc hậu, trình độ dân trí thấp. Vì thế, một trong những nhiệm vụ quan trọng của nhà nước là xây dựng nền văn hoá mới, con người mới nhằm phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh. Đẻ thực hiện nhiệm vụ trên, trước hết nhà nước đã bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể. Bằng việc bảo vệ, tôn tạo các di tích văn hoá, danh lam thắng cảnh, phát triển các lễ hội nhà nước đã góp phần nâng cao sự hiểu biết cho nhân dân, làm cho nhân dân ý thức được trách nhiệm của mình trước cộng đồng. Bên cạnh đó, việc hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa là việc làm được nhà nước quan tâm đặc biệt. Nhà nước thường xuyên chăm lo đến đời sống tinh thần của người dân nhằm hình thành nhân cách tốt cho thế hệ trẻ, có tấm lòng bao dung, sẵn sàng sẻ chia để từ đó có lối sống lành mạnh, góp phần giảm thiểu những hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Tuy nhiên, việc xây dựng nền văn hoá mới, con người mới phải được thực hiện thống nhất, hài hoà trong phạm vi cả nước, tránh việc làm tràn lan gây lãng phí của cải xã hội.

– Về giáo dục

Mặc dù nhà nước đã có rất nhiều cố gắng trong việc tổ chức và quản lí nền giáo dục quốc dân, tuy nhiên thực trạng nền giáo dục Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều bất cập. Chương trình học của cấp tiểu học cũng như các cấp phổ thông hiện đang quá tải đối với học sinh. Hoạt động giáo dục nặng về trang bị kiến thức lí thuyết mà chưa chú trọng đúng mức đến việc rèn luyện thể lực, kĩ năng sống, cũng như thực hành. Giáo dục đại học cũng còn nhiều hạn chế, có quá nhiều cơ sở đào tạo và tình trạng chồng chéo ngành nghề dẫn đến sự lãng phí trong xã hội. Việc đổi mới phương pháp giáo dục chậm thực hiện và chưa xứng tầm với thời đại… Thực hiện việc tổ chức và quản lí giáo dục hiện nay, nhà nước phải tiến hành một cách toàn diện, từ nội dung, chương trình học, đến thời gian học cũng như phương pháp dạy và học hiện nay. Nhà nước phải chú trọng việc đào tạo và chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với đội ngũ giáo viên; tạo ra những người thày có phẩm chất, năng lực sư phạm và trình độ chuyên môn vững vàng để thúc đẩy sự nghiệp giáo dục ngày càng đi lên. Nhà nước phải tiếp tục thực hiện chính sách phổ cập giáo dục phổ thông; thực hiện xã hội hoá trong giáo dục; có chính sách học phí, học bổng thỏa đáng; đẩy mạnh hợp tác quốc tế về giáo dục…

– Về tế và phát triển nguồn nhân lực:

Nhà nước đã và đang mở rộng mạng lưới y tế, chú trọng đào tạo đội ngũ thầy thuốc; hiện đại hoá các cơ sở khám chữa bệnh, kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền; đảm bảo vệ sinh và an toàn thực phẩm… Nhà nước có chính sách dân số hợp lý, tránh gia tăng dân số quá nhanh, nhưng phải đảm bảo mức sinh thay thế; bảo đảm việc làm đồng thời cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động; giải quyết đúng đắn vấn đề thu nhập của người lao động; thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội toàn dân…

– Về khoa học công nghệ

Hiện nay những thành tựu tiến bộ của khoa học và công nghệ thế giới đã tạo ra những bước đột phá cho việc phát triển nhiều lĩnh vực của xã hội. Để theo kịp thời đại, Nhà nước ta phải đầu tư một cách thỏa đáng cho việc phảt triển khoa học, công nghệ; xây dựng các cơ sở nghiên cứu khoa học, nhất là những trung tâm nghiên cứu khoa học lớn; bồi dưỡng những người làm công tác nghiên cứu khoa học; phát hiện tài năng ừẻ để đào tạo, đồng thời phải thực hiện chính sách đãi ngộ họp lí đối với những người tài, khuyến khích họ tận tâm nghiên cứu khoa học, phục vụ đất nước, tránh tình trạng lãng phí, chảy máu chất xám đã từng xảy ra. Đồng thời, cần phải thực hiện tốt việc hợp tác với các nước khác để tiếp thu những tiến bộ của khoa học công nghệ tiên tiến của nước ngoài, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ vào việc phát triển đất nước.

– Về vấn đề dân tộc, tôn giáo

Nhà nước có chính sách tôn giáo, dân tộc hợp lí, đảm bảo sự phát triển hài hoà của mọi vùng miền trong cả nước. Đặc biệt là chính sách ưu tiên phát triển ở những vùng sâu, vùng xa, nơi sinh sống của nhiều đồng bào thiểu số.

– Về bảo vệ môi trường, phòng chổng thiên tai, ứng phó thảm họa

Đây là chức năng rất quan trọng của nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Nhà nước xác định bảo vệ môi trường là điều kiện sống còn, nhà nước quy định nghĩa vụ của mọi tổ chức, cá nhân, nhất là các doanh nghiệp trong việc bảo vệ môi trường. Nhà nước có chính sách khai thác và sử dụng tài nguyên một cách hợp lý, tiết kiệm; chống ô nhiễm và suy thoái môi trường; bảo vệ môi trường, cải thiện môi trường. Nhà nước quy định các biện pháp chế tài nghiêm khắc đối với các hành vi gây ô nhiễm môi trường… Nhờ có các biện pháp tổng thể và đồng bộ mà sự phát triển kinh tế đã được kết hợp chặt chẽ với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội.

Nhà nước hoạch định chủ trương, chính sách nhằm ngăn ngừa những hiện tượng dẫn đến khủng hoảng kinh tế – xã hội, đồng thời, chủ động, tích cực khắc phục khủng hoảng kinh tế xã hội cũng như ứng phó với những thảm họa có thể xảy ra. Nhà nước thực hiện rất nhiều chính sách hỗ trợ khi xảy ra những thiệt hại cho nhân dân trong nông, lâm, ngư nghiệp…

Tóm lại, chức năng xã hội là một trong những chức năng cơ bản, chủ yếu, thể hiện rõ nét bản chất của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mục đích của thực hiện chức năng này là mang lại lợi ích cho đại bộ phận nhân dân lao động.

4. Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật, quyền và lọi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xã hội

Đe đạt được mục tiêu xây dựng xã hội ngày càng dân chủ văn minh, nhà nước Việt Nam luôn chú trọng đến hoạt động bảo vệ pháp luật nhằm đảm bảo sự ổn định của xã hội cũng như bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức trong xã hội.

Thực hiện chức năng này, trước tiên nhà nước ban hành pháp luật quy định cách thức xử sự của tất cả các thành viên trong xã hội khi tham gia vào các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh. Pháp luật quy định cho các chủ thể những hành vi được làm, những hành vi phải làm cũng như những hành vi bị cấm. Đồng thời pháp luật cũng quy định trách nhiệm của nhà nước trong việc tổ chức thực hiện và đảm bảo cho quy định của pháp luật được thực hiện trong thực tế. Cùng với việc quy định trong pháp luật, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền còn tích cực, chủ động thực thi nhiệm vụ của mình, đảm bảo các điều kiện thực tế cho các chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ. Đồng thời, các cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền luôn kịp thời phát hiện và xử lí nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích họp pháp của nhà nước, của cộng đồng cũng như của mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội.

Bên cạnh đó nhà nước còn tiến hành nhiều hoạt động khuyến khích, động viên công dân tích cực tham gia phòng, chống các hiện tượng vi phạm pháp luật; kiểm tra giám sát hoạt động của nhà nước trong thực hiện các quyền lợi của công dân, qua đó phát huy sức mạnh to lớn của mọi tầng lớp nhân dân trong việc xây dựng một xã hội ổn định và phát triển.

5. Chức năng bảo vệ đất nước

Bất kì nhà nước nào cũng luôn phải chú trọng thực hiện chức năng bảo vệ đất nước. Trong điều kiện tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp, nguy cơ chiến tranh xâm lược vẫn tồn tại, nhà nước Việt Nam cũng như toàn xã hội đều phải luôn nâng cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống có thể xảy ra. Thực tế cho thấy, chức năng bảo vệ đất nước luôn được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm ở bất cứ giai đoạn lịch sử nào. Để thực hiện chức năng này, nhà nước phải không ngừng củng cố nền quốc phòng toàn dân; xây dựng lực lượng quân đội chính quy, tinh nhuệ, hiện đại và tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với nhân dân; quy định nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc đối với công dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; xây dựng thế trận an ninh nhân dân; kết hợp kinh tế với quốc phòng an ninh, quốc phòng an ninh với kinh tế; sử dụng các diễn đàn quốc tế để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước…

6. Chức năng quan hệ vói các nước khác

Từ những năm cuối của thế kỉ XX đến nay, tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp, cục diện thế giới thay đổi. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã, chiến tranh lạnh giữa hai phe chấm dứt, đối thoại thay cho đối đầu, thế giới hai cực được thay thế bằng thế giới đa cực… Trước thực tế đó, đường lối ngoại giao của Việt Nam đã có những thay đổi căn bản để thích nghi. Với quan điểm chỉ đạo, lợi ích dân tộc cao hơn hết thảy, Nhà nước ta đã đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Nhà nước thực hiện chính sách hoà bình, hợp tác với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, hoà bình, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, các bên bình đẳng cùng có lợi.

Khi tham gia bất cứ diễn đàn quốc tế nào Nhà nước ta cũng luôn xem xét trước tiên đến lợi ích của quốc gia để cân nhắc việc tham gia ở mức độ phù hợp. Hợp tác, hoà nhập để phát triển nhưng vẫn giữ vững độc lập, chủ quyền, tránh phụ thuộc về kinh tế có thể dẫn đến phụ thuộc về chính trị. Nhiều vấn đề rất nhạy cảm mà Việt Nam phải giải quyết trong quan hệ quốc tế, như diễn biến phức tạp của vấn đề biển Đông, vấn đề hợp tác trong phòng chống khủng bố, về tương trợ tư pháp, dẫn độ tội phạm…

Hiện nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác với khoảng hơn một trăm quốc gia và vùng lãnh thổ, không phân biệt sự khác nhau về chế độ chính trị xã hội. Sự hợp tác này diễn ra trên khắp các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hoả xã hội, an ninh, môi trường… Cùng xu thế hội nhập và phát triển, công dân Việt Nam làm ăn, sinh sống, học tập ở nước ngoài ngày một đông. Việt Nam phải thiết lập quan hệ với nhiều nước để giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền lợi của người Việt Nam ở nước ngoài như: vấn đề hợp tác xuất khẩu lao động, vấn đề hôn nhân có yếu tố nước ngoài, vấn đề du học sinh Việt Nam, vấn đề cứu nạn tàu thuyền gặp tai nạn do bão lũ… Điều kiện thế giới ngày càng diễn biến phức tạp, khó lường, đòi hỏi nhà nước và toàn xã hội phải hết sức tỉnh táo trong quan hệ đối ngoại, đảm bảo hợp tác, phát triển mà vẫn giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia.

Luật LVN Group (biên tập)