1. Mở đầu vấn đề
Tư tưởng và triết học là hai khái niệm dùng để phân biệt, phân loại đối tượng nghiên cứu, từ đó lựa chọn phương pháp nghiên cứu, nhưng theo định nghĩa ở đầu bản đề dẫn thì lại rất gần nhau, khó phân biệt.
Việt Nam là một nước có nền văn hiến lâu đời, như: đời sống tinh thần phong phú và có sắc thái riêng, không chỉ là so sánh với các nước xa cách về mặt địa lí mà với cả các nước láng giềng. Tuy sử học chưa phải đã giải quyết xong xuôi về mặt lí luận nhưng hiện tượng thì vẫn là hiển nhiên: dân tộc Việt Nam hình thành sớm, sớm hơn nhiều trước thời cận đại. Trên đất nước thống nhất đó, người Việt Nam đã có cách ứng xử các quan hệ xã hội, đối phó với hoàn cảnh đấu tranh xã hội, đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc. Đặc điểm xã hội và lịch sử đã làm hình thành ở họ một bản lĩnh vững chắc, chi phối cảm xúc, suy nghĩ, làm hình thành một cách sống, một tư duy. Với vị trí địa lý thuận lợi, người Việt Nam đã tiếp cận không ít những cái của kẻ khác nhưng vẫn không bị đồng hóa, vẫn giữ được bản sắc, tồn tại và phát triển…
Cuộc sống cộng đồng lâu dài đã cho phép hình thành một ý thức hệ chung, chi phối nhiều mặt mà ta không nên gọi là triết học hay là tư tưởng. Tư tưởng triết học ở từng dân tộc đều hình thành trong lịch sử bằng những con đường khác nhau, từ những truyền thống văn hóa khác nhau, từ những cách hình dung thế giới vào buổi ban đầu khác nhau, nhất là từ những thực tế phát triển khác nhau. Cho nên việc sử dụng hai thuật ngữ đó có những lí do thực tế để chấp nhận sự co dãn, nhất là khái niệm tư tưởng – dùng với ý nghĩa để phân biệt với triết học – lại là khái niệm khó xác định khoa học.
Với cách hiểu khái niệm triết học đã có nội dung xác định, nội dung theo định nghĩa kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin. Sự phân vân lựa chọn ở đây ngoài chuyện vấn vương vì đối tượng chưa xác định còn có cả cái vấn vương khác như: Nước Việt Nam đã có 4000 năm văn hiến chẳng lẽ lại không có triết học.
2. Triết học Việt Nam
Với quan niệm “Triết học Việt Nam là những tư tưởng triết học của người Việt. Trong suốt lịch sử Việt Nam nếu theo tiêu chí của một nền triết học là phải có triết gia, triết thuyết và trường phái thì Việt Nam không có một nền triết học bản địa nào” chiếm ưu thế trong suốt mấy thập kỷ qua trong việc đánh giá hoạt động văn hóa tinh thần của đất nước.
Tuy nhiên bên cạnh đó, một số học giả, một số nhà nghiên cứu vẫn nhìn nhận rằng dân tộc Việt Nam có một nền văn hiến riêng, trong nó chứa đựng một sắc thái tư tưởng không giống với các nền văn minh lân cận. Những nghiên cứu tư tưởng dân tộc làm cho việc khẳng định có một thứ tư tưởng triết học Việt Nam dần dần trở nên tự tin hơn. Đến nay, có xu hướng còn cho rằng Việt Nam không chỉ có những tư tưởng triết học mà còn có cả những học thuyết triết học theo đúng nghĩa của nó.
Việt Nam có sự giao lưu, tiếp biến với nhiều nền văn minh trên thế giới: Tiếp biến với nền văn hóa Trung Hoa bằng việc tiếp thu Nho giáo, Lão giáo và các tư tưởng triết học khác; tiếp biến với văn minh Ấn Độ một phần do đạo Phật từ Ấn Độ du nhập sang; sau này tiếp nhận Công giáo và các trường phái triết học phương Tây khác. Những tư tưởng triết học này đã được Việt Nam tiếp nhận một cách có chọn lọc, sau đó bản địa hóa. Chính vì vậy những tư tưởng triết học Việt Nam bao gồm triết học bản địa được thể hiện qua văn học dân gian và các tác phẩm chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng triết học Trung Hoa, Ấn Độ và phương Tây được du nhập vào Việt Nam. Nhiều yếu tố triết học đã xuất hiện trong thời Cổ đại và Trung đại tại Việt Nam. Léopold-Michel Cadière quan tâm đến triết học bình dân Việt Nam (philosophie pupulaire Annamite)[3], nhiều nhà văn hoá học Việt Nam đã quan tâm đến: tín ngưỡng dân gian bản địa, tín ngưỡng phồn thực và nguồn gốc của Kinh Dịch nguyên thuỷ.
Các nhà nghiên cứu tập trung nghiên cứu các vấn đề sau đây trong triết học Việt Nam:
– Vấn đề triết học tự nhiên và nhận thức luận: bao gồm mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa con người và tự nhiên, tinh thần và vật chất (phương Tây gọi là vấn đề cơ bản của triết học). Chẳng hạn, những vấn đề như quan hệ giữa Trời và người, hình và thần, giữa tâm và vật, hữu và vô, lý và khí…
– Phương pháp tư duy: như quan hệ giữa tĩnh và động, thường và vô thường, thuận lẽ trời với lòng người…
– Vấn đề triết học chính trị: như đường lối trị nước của các triều đại, mối quan hệ giữa trị và loạn, mối quan hệ giữa vua và quan (quân thần), mối quan hệ giữa vua với dân, vấn đề sử dụng nhân tài…
– Vấn đề triết học nhân sinh: như bản chất con người, sự thành bại trong việc đào tạo, giáo dục con người, đạo làm người, các chuẩn mực đạo đức,…
Vậy triết học Voeejt nam có những đặc điểm nào? Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu dưới những mục dưới đây:
3. Triết học Việt Nam chịu ảnh hưởng từ bên ngoài
Trong quá trình giao lưu với văn hoá các nước, từ Trung Quốc, Ấn Độ, phương Tây;… tư duy triết học Việt Nam có nền tảng tư duy bản địa mạnh vẫn giữ vai trò chủ thể để tiếp biến văn hoá ngoại lai.
Ví dụ, tính vô vi xuất thế trong Phật giáo Ấn Độ, còn Phật giáo Việt Nam lại hữu vi nhập thế. Nghĩa là nhà chùa có ruộng có vườn, nhập thế cùng thế gian làm việc. Phật giáo trước khi vào Việt Nam thì vô ngã, nghĩa là không có cá nhân, không có cái tôi. Nhưng khi vào Việt Nam nó biến hiện thành sức mạnh cá nhân và phải được nhập vào sức mạnh cộng đồng.
– Đối với đạo giáo từ Trung Quốc sang. Khi còn ở Trung Quốc thì nó gắn với tầng lớp quan lại trí thức thất thế, từ bỏ chốn quan trường, xa lánh chính trị, trở về sống gần gũi với thiên nhiên, về “cõi bồng lai thiên cảnh”. Nhưng khi vào đến Việt Nam thì con người lại gắn với trời đất, thần thánh đạo giáo để giáo dục đạo đức xã hội, ổn định gia đình, gắn gia đình với cộng đồng.
Tư tưởng chủ đạo của Nho giáo là thiết lập về đức trị, nhân trị, lễ trị. Do đó có sự phân chia giai cấp, thế hệ, giới tính. Nhưng khi vào Việt Nam những chuẩn mực đó đã hòa vào thiết chế cộng đồng làng xã. Người Việt ứng xử theo kiểu: “phép vua thua lệ làng”, tính đẳng cấp có, nhưng không khắt khe. Văn hoá Nho giáo là một loại văn hoá mạnh, đồ sộ và choáng ngợp, do đó nhiều thời kỳ nó áp đặt văn hoá cho các dân tộc khác. Tuy nhiên Nho giáo sang Việt Nam lại biến đổi. Do tính bản địa mạnh nên tư duy người Việt không bị đồng hoá.
3. Triết học Việt Nam đi từ nhân sinh quan đến thế giới quan
Đối với tư tưởng triết học Việt Nam có khuynh hướng trội, đó là đi từ nhân sinh quan đến thế giới quan (trong khi đó, triết học phương Tây đi từ thế giới quan đến nhân sinh quan). Triết học Việt Nam luôn coi trọng những vấn đề về xã hội và nhân sinh, coi nhẹ những vấn đề về tự nhiên, tức là chú trọng xây dựng các vấn đề lý lẽ trong chính trị xã hội và luân lý, giáo dục đạo làm người.
Chính vì đi từ nhân sinh quan đến thế giới quan nên tư tưởng triết học Việt Nam phát triển từ những ý niệm thô sơ, chất phác về nhân sinh lên trình độ lý luận về nhân sinh và vũ trụ, nên có vẻ thiếu tính hệ thống chặt chẽ, thường là cải biến nội dung các khái niệm trong các học thuyết du nhập từ bên ngoài. Hệ thống khái niệm, phạm trù triết học trong tư tưởng triết học Việt Nam cùng loại với triết học Trung Quốc, Ấn Độ (Triết học Phương Đông), tuy nhiên vẫn có sự dị biệt. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu phải làm rõ sự dị biệt đó.
Cũng chính vì đi từ nhân sinh quan đến thế giới quan nên vấn đề cơ bản của triết học rất mờ nhạt: quan hệ giữa vật chất và ý thức, tư duy và tồn tại, tinh thần và giới tự nhiên không trải ra trên mọi vấn đề. Tư tưởng triết học Việt Nam không phân chia thành trường phái, hoặc không thể phân chia theo các vấn đề: bản thể luận, nhận thức luận, nhân loại luận.
Hình thái đấu tranh giữa duy vật và duy tâm không phân tuyến, không trực diện, không rõ ràng mà thường thể hiện qua hình thái đấu tranh giữa khách quan và chủ quan, giữa vô thần và hữu thần, dân chủ và chuyên chế, độc lập và lệ thuộc, trong đó lực lượng tiến bộ thường đại diện cho các khuynh hướng khách quan, vô thần, dân chủ, độc lập. Còn lực lượng bảo thủ thì đại diện cho các khuynh hướng chủ quan, hữu thần, chuyên chế, lệ thuộc.
4. Triết học Việt Nam hướng nội, duy tâm
Với tư tưởng triết học Việt Nam trên bình diện bác học hơi nghiêng về hướng nội, duy tâm, lấy trạng thái tinh thần để giải thích hiện tượng bên ngoài. Còn trên bình diện dân gian lại mang màu sắc duy vật chất phác.
Nhà tư tưởng Việt Nam thường xuất phát từ những định đề có sẵn hơn là từ sự phát triển khách quan để khái quát thành lý luận. Mặc dù đã có nhiều lần tổng kết lịch sử, nhưng vẫn chủ yếu xuất phát từ những định đề có sẵn do đó thường phạm vào những sai lầm như dập khuôn, giáo điều, chủ quan, kinh nghiệm, cảm tính.
Suy nghĩ của người Việt thường gắn liền với một tín ngưỡng, một tôn giáo đa thần với các thần sông, thần núi v.v… từ đó đi tới thần thành hoá các nhân vật lịch sử, những người có công với làng, với nước.
Phương pháp biện chứng trong tư duy triết học Việt Nam hơi nghiêng về thống nhất (còn phương Tây hơi nghiêng về đấu tranh), quan niệm vận động, phát triển của tư duy triết học Việt Nam là hình dung theo vòng tròn (còn trong triết học phương Tây thì vận động, phát triển theo đường xoáy trôn ốc).
5. Phạm trù trong triết học Việt Nam
Khoa học xã hội đã có những thành tựu được công bố liên quan đến hệ thống phạm trù triết học Trung đại Việt Nam, ví dụ như “Các phạm trù văn hóa Trung cổ”, “Hệ thống quan niệm văn học Trung Quốc”, “Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học Trung đại Việt Nam”… Trước hết, phương thức tiếp cận vấn đề phạm trù triết học Việt Nam Cổ trung đại không tách rời khỏi hoàn cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội Việt Nam.
Thao tác tiếp cận cần lưu ý giới hạn, chọn lọc, khu biệt những nguyên tắc vận dụng, chỉ tập trung vào những nguyên tắc có ý nghĩa, nằm ở tính hợp lý. Con người không thể tách khỏi môi trường tự nhiên, xã hội và thế giới nội tâm. Những nguồn thông tin được thu thập xuất phát từ khoa học khảo cổ, văn hóa học, lịch sử, xã hội học, từ các văn bia, lễ hội, những biểu tượng, những tác phẩm văn học dân gian, văn học viết (trong dạng thức văn – sử – triết bất phân), những khuôn mẫu được thừa nhận, những tác phẩm “văn học hóa” triết học…
Đối với văn học, cần lưu ý các tác phẩm: tục ngữ, ca dao (chứa những tư tưởng triết học rời rạc được phát biểu gần như vô thức), truyện thơ Nôm, các tác phẩm của Khương Tăng Hội, Mâu Tử, văn học đời Lý – Trần, “Thiền uyển tập anh”. Các tác phẩm của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Nguyễn Du…
Đối chiếu, chú giải các tài liệu thu được, chồng các văn bản văn – sử – triết phức hợp ấy với nhau có thể tìm ra được những ký hiệu triết học Việt Nam. Sau đó bằng các thao tác trừu tượng hóa, khái quát hóa ta có được những quan niệm phạm trù quy luật cơ bản. Những phạm trù này liên hệ với nhau theo một sơ đồ lập thể (cubism) hoặc hình mạng (network), một phạm trù có thể liên hệ với tất cả các phạm trù khác nhưng đồng thời một phạm trù cũng tương tác – tương nhập với các phạm trù khác tạo thành những hệ thống nhỏ. Từ các hệ thống nhỏ này lại liên hệ nhau tạo thành hệ thống mang tính chỉnh thể. Đạo lý tự nhiên bao giờ cũng bao trùm các phạm trù khác, thẩm thấu các phạm trù khác như Ngô Thời Nhậm đã viết “Đạo có cơ sở là cái lý tự nhiên, mà gốc là tình người”.
– Vũ trụ: là sự hiện hữu, là bức tranh đa dạng về thế giới (gồm thiên nhiên, nội tâm, ý thức, tư duy). Các phạm trù có liên quan như bản thể, bản thể luận, đại ngã, trời đất, chân – thiện – mỹ.
– Đạo: tri thức xuất phát từ chiêm nghiệm, quan sát cuộc sống, từ trực giác đến logic hoá thành khái niệm qua trừu tượng những sự vật hiện tượng. Các phạm trù có liên quan: đạo lý, đạo đức, đạo làm người.
– Mâu thuẫn: gồm các cặp phạm trù: âm – dương; hữu – vô; thiện – ác; lợi – hại; tiến – thoái… trong thế đối lập, nhưng dựa vào nhau tồn tại, chuyển hoá nhau…
– Vận động: là dạng thức sống động của trời đất, vũ trụ. Nó liên hệ với những phạm trù: dịch, sinh, chu kỳ vũ trụ. khứ (đi) – lai (về); cân bằng, quân bình, nhân quả, bản thể, thịnh – suy…
– Không gian: là môi trường cho con người và các sự vật hiện tượng tồn tại. Không gian là vô biên, trước hết nó chứa nền văn minh của khách thể.
Thời gian: là qui ước, con người Cổ trung đại xem thời gian là vĩnh cửu.
– Con người: với tư cách là một hữu thể, con người là bộ phận hữu cơ của thế giới. Có sự vận động từ con người đạo lý, con người vũ trụ đến con người cá nhân. Con người được trân trọng, mẫu mực là con người cảm thông với tạo vật – công bằng – khoan dung. Nó liên quan đến: bản ngã, vô ngã. Bằng lối tư duy nhân văn, con người được đề cao không chỉ ở cấp độ nhân bản mà hơn thế nữa con người giao hoà với thế giới thông qua các giác quan và những hành động.
– Trí tuệ: giúp con người nhận thức, tích luỹ tri thức, sáng tạo ra văn hoá. Nó liên quan đến các phạm trù: ý thức, nhận thức, vô thức, nhận thức sai lầm, cố chấp. Tướng – Thể – Dụng.
– Yêu thương: thuộc về nhân sinh quan. Yêu thương và thù hằn là hai dạng năng lượng khác nhau. Nó liên quan đến các phạm trù: nhân – nghĩa; trung – hiếu; nghĩa – lợi, khoan dung; hoà; hoà; tích hợp…
– Hạnh phúc: là khát vọng vĩnh cửu của con người, tuỳ thuộc vào thái độ của người cảm nhận. Nếu triết học Ấn Độ (Védànta) không lạc quan cũng không bi quan thì tư tưởng Việt Nam thiên về lạc quan (Phan Ngọc, Lê Ngọc Cầu). Nó liên quan đến các phạm trù: niết bàn, an lạc, thiên đường, bồng lai, đào nguyên…
(MK LAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)
Trên đây là nội dung Luật LVN Group đã sưu tầm và biên soạn. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng. Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài gọi số: 1900.0191 hoặc liên hệ văn phòng để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật LVN Group
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng!
Luật LVN Group (Sưu tầm và biên tập).