1. Tố tụng hình sự là gì?

Tố tụng hình sự là cách thức, trình tự tiến hành các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của các cơ quan nhà nuớc khác và các tổ chức xã hội góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

2. Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 10 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2018. Với mục tiêu xây dựng Bộ luật tố tụng hình sự thực sự khoa học, tiến bộ có tính khả thi cao, là công cụ pháp lý sắc bén để đấu tranh hữu hiệu với mọi tội phạm, tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn; tăng cường trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân đã được Hiến pháp năm 2013 quy định, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 kế thừa những quy định còn phù hợp của các Bộ luật tố tụng hình sự trong quá khứ, đồng thời loại bỏ những điều luật đã lỗi thời, lạc hậu và nhiều lỗ hổng. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng nhất quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án hình sự; nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân và hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự, nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân thủ pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm…

3. Hiệu lực của văn bản pháp luật

Hiệu lực của Văn bản pháp luật là tính bắt buộc thi hành của văn bản pháp luật trong một giai đoạn nhất định, trên một không gian nhất định và đối với những chủ thể pháp luật nhất định (cá nhân, cơ quan, tổ chức).

4. Hiệu lực theo không gian của bộ luật tố tụng hình sự ?

Hiệu lực theo không gian là hiệu lực được xác định trên phạm vi lãnh thổ nhất định. Điều 3 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định:

Bộ luật tố tụng hình sự có hiệu lực đối với mọi hoạt động tố tụng hình sự trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Do vậy, mọi hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được tiến hành trên lãnh thổ Việt Nam đều phải tuân thủ những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam. Theo quy định của Hiến pháp, lãnh thổ bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời. Những tội phạm xảy ra trên tàu bay hoặc tàu biển của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang hoạt động ngoài không phận hoặc lãnh hải Việt Nam là phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam. Theo Công ước luật biển năm 1982 và Công ước Chicago năm 1944, các tàu chiến Việt Nam treo quốc kỳ Việt Nam đang có mặt ở vùng biển cả, ở vùng lãnh hải hoặc cảng biển của một quốc gia khác; các tàu dân sự của Việt Nam đang treo quốc kỳ Việt Nam có mặt tại biển cả; các máy bay của Việt Nam đang bay ngoài lãnh thổ Việt Nam cũng được coi là lãnh thổ Việt Nam. Trường hợp bị cáo phạm tội ở nước ngoài, nếu xét xử ở Việt Nam cũng phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam.

Về nguyên tắc, hoạt động tố tụng đối với hành vi phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án Việt Nam – nơi tội phạm được thực hiện hoặc nơi kết thúc điều tra. Hoạt động tố tụng hình sự đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam được tiến hành theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi, có lại. Trường hợp người nước ngoài thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc tập quán quốc tế thì được giải quyết theo quy định của điều ước quốc tế hoặc tập quán quốc tế đó; trường hợp điều ước quốc tế không quy định hoặc không có tập quán quốc tế thì được giải quyết bằng con đường ngoại giao.Quyền ưu đãi miễn trừ ngoại giao là các quyền ưu đãi đặc biệt mà nước tiếp nhận, phù hợp với luật quốc tế, dành cho cơ quan đại diện ngoại giao, các viên chức, nhân viên ngoại giao nhằm tạo điều kiện cho họ hoàn thành một cách có hiệu quả các chức phận của họ. Theo Công ước Viên ngày 18/4/1961 (Việt Nam đã gia nhập năm 1980) thì quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao bao gồm 6 quyền sạu:

Thứ nhất, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, viên chức ngoại giao không thể bị bắt hoặc bị giam giữ dưới bất kỳ hình thức nào. Nước nhận đại diện phải đối xử một cách kính trọng và có những biện pháp để tránh những hành vi xâm phạm về thân thể, tự do và nhân phẩm của họ;

Thứ hai, quyền bất khả xâm phạm về nhà ở, tài liệu, thư tín và phương tiện đi lại;

Thứ ba, quyền tự do đi lại trong phạm vi mà pháp luật của nước sở tại quy định, trừ những vùng lãnh thổ có quy định riêng vì lí do an ninh vả bí mật quốc gia;

Thứ tư, quyền miễn trừ xét xử về hình sự, dân sự và hành chính; thứ năm, quyền miễn thuế; thứ sáu, quyền ưu đãi hải quan.

5. Hiệu lực theo thời gian của Bộ luật tố tụng hình sự ?

Hiệu lực theo thời gian là giới hạn xác định thời điểm phát sinh và thời điểm chấm dứt hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật, là giá trị tác động của văn bản quy phạm pháp luật đến các quan hệ xã hội phát sinh từ thời điểm bắt đầu có hiệu lực pháp luật đến thời điểm chấm dứt. Theo Luật số 101/2015/QH13 thì Bộ luật tố tụng hình sự được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27/11/2015, có hiệu lực từ ngày 01/7/2016. Kể từ ngày có hiệu lực, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thay thế Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Sau khi được Quốc hội thông qua, ngày 09/12/2015 Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Lệnh số 35/2015-CTN về việc công bố Bộ luật tố tụng hình sự. Theo đó, kể từ ngày Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành (ngày 01/7/2016) thì:

– Đối với những vụ án do cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, viện kiểm sát, tòa án đang thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự số 19/2003/QH11 (sau đây gọi là Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003) nhưng đến ngày 01/7/2016 chưa kết thúc thì thẩm quyền giải quyết tiếp tục được áp dụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 cho đến khi kết thúc vụ án, còn các vấn đề khác được thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

– Đối với những tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đang trong quá trình kiểm tra, xác minh nhưng đến ngày 01/7/2016 chưa kết thúc thì thời hạn giải quyết được tính theo thời hạn của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

– Đối với những bị can, bị cáo đang bị tạm giam theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 nhưng đến ngày 01/7/2016 không được tạm giam theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 hoặc thời hạn tạm giam vượt quá thời hạn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì viện kiểm sát, tòa án quyết định huỷ bỏ biện pháp tạm giam đang áp dụng hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

– Đối với những vụ án hình sự do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đang tiến hành điều ứa nhưng đến ngày 01/7/2016 chưa kết thúc điều tra thì thời hạn điều tra được thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

– Đối với những vụ án hình sự đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử theo thủ tục rút gọn nhưng đến ngày 01/7/2016 chưa kết thúc điều tra, chưa quyết định việc truy tố hoặc chưa đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm thì thời hạn điều tra, truy tố, xét xử được tính theo thời hạn của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

– Đối với những bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị trước ngày 01/7/2016 và thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 456 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 nhưng kể từ ngày 01/7/2016 mới xét xử thì áp dụng thủ tục rút gọn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để giải quyết;

– Đối với những vụ án hình sự đã xét xử sơ thẩm theo quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 mà có kháng cáo, kháng nghị trước ngày 01/7/2016 nhưng kể từ ngày 01/7/2016 mới xét xử phúc thẩm thì áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để giải quyết.

– Đối với bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 mà có kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trước ngày 01/7/2016 nhưng chưa giải quyết hoặc kể từ ngày 01/7/2016 mới có kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm thì áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để giải quyết;

– Đối với những trường hợp đã được cấp giấy chứng nhận người bào chữa theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì người bào chữa tiếp tục sử dụng cho đến khi kết thúc việc bào chữa;

– Tòa án tiếp tục áp dụng các quy định pháp luật hiện hành về án phí, lệ phí tòa án và các chi phí tố tụng khác cho đến khi có quy định mới của cơ quan có thẩm quyền. (Xem: Nghị quyết số 110/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015).

Tuy nhiên, theo Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 về việc lùi hiệu lực thi hành của BLHS số 100/2015/QH13 và Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13.. và bổ sung Dự án BLHS 100/2015/QH13 sửa đổi vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016, đồng thời tiếp tục áp dụng BLHS số 15/1999/QH10 (được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 37/2009/QH12); Bộ luật tố tụng hình sự số 19/2003/QH11… cho đến ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13 có hiệu lực thi hành.

Theo Nghị quyết số 41/2017/QH14 về việc thi hành BLHS số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13… kể từ ngày 01/01/2018, Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 có hiệu lực thi hành. Các quy định tại Nghị quyết số 110/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 có ghi thời điểm ngày 01/7/2016 được thay thế bằng thời điểm ngày 01/01/2018, thời điểm ngày 01/01/2019 được thay thế bằng thời điểm ngày 01/01/2020.

Mọi vướng mắc pháp lý về tố tụng hình sự, Hãy gọi ngay: 1900.0191 để được Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến.

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty luật Minh KHuê (biên tập)