Khách hàng: Kính thưa Luật sư LVN Group, Luật sư hãy phân tích giúp tôi về Hiệp định thương mại tự do (FTA) và IMF? Những hạn chế thanh toán trong các Hiệp định thương mại tự do (FTA) và IMF là gì?

Cảm ơn!

Trả lời: 

 

1. Thanh toán là gì?

Thanh toán có thể hiểu đó là việc chuyển giao các phương tiện tài chính từ một bên sang một bên khác. Tiền là phương tiện thực hiện trao đổi hàng hóa, đồng thời là việc kết thúc quá trình trao đổi. Lúc này tiền thực hiện chức năng phương tiện thanh toán. Sự vận động của tiền tệ có thể tách rời hay độc lập tương đối với sự vận động của hàng hoá.

Thực hiện chức năng phương tiện thanh toán, tiền không chỉ sử dụng để trả các khoản nợ về mua chịu hàng hóa, mà chúng còn được sử dụng để thanh toán những khoản nợ vượt ra ngoài phạm vi trao đổi như nộp thuế, trả lương, đóng góp các khoản chi dịch vụ … Lưu thông không dùng tiền mặt là các quá trình tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán không trực tiếp bằng tiền mặt mà thực hiện bằng cách trích chuyển trên các tài khoản ở Ngân hàng, tổ chức tín dụng hoặc bù trừ lẫn nhau giữa những người phải thanh toán và những người thụ hưởng.

Thanh toán không dùng tiền mặt chỉ được phát triển và hoàn thiện trong nền kinh tế thị trường và được áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực kinh tế tài chính đối nội cũng như đối ngoại. Sự phát triển rộng khắp của thanh toán không dùng tiền mặt hiện nay là do yêu cầu phát triển vượt bậc của nền kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá phát triển càng cao, khối lượng hàng hoá trao đổi trong nước và ngoài nước càng lớn thì cần có những cách thức trả tiền thuận tiện, an toàn và tiết kiệm.

Xét về mặt lý luận, thanh toán không dùng tiền mặt là một hình thức vận động của tiền tệ.

Ở đây, tiền vừa là công cụ kế toán, vừa là công cụ để chuyển hoá hình thức giá trị của hàng hoá và dịch vụ. Mặt khác, thanh toán không dùng tiền mặt là nghiệp vụ có quá trình chứa đựng những công nghệ tinh vi và phức tạp. Khi thực hiện chức năng phương tiện thanh toán có thể sử dụng tiền đủ giá (vàng) hoặc dấu hiệu giá trị.

Trở ngại chính của tiền giấy và tiền kim loại là chúng dễ bị đánh cắp và có thể tốn nhiều chi phí vận chuyển; để khắc phục nhược điểm này, cùng với bước phát triển của hệ thống thanh toán là sự ra đời của séc trong hoạt động của Ngân hàng hiện đại. Điều này cải tiến một bước rất quan trọng trong thanh toán, nâng cao hiệu quả thanh toán. Chúng có thể được sử dụng bù trừ trong thanh toán, giảm chi phí vận chuyển và đặc biệt là nó an toàn, ghi theo số lượng tiền tuỳ ý. Tuy nhiên, nó có hai nhược điểm cơ bản: thanh toán chậm do không được ghi “Có” ngay vào tài khoản người thụ hưởng và chi phí in ấn, quản lý còn cao.

Thanh toán quốc tế là thanh toán giữa các bên tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế hoặc hợp đồng dịch vụ có yếu tố nước ngoài. Việc thanh toán này được thực hiện chủ yếu bởi các ngân hàng và gắn liền với việc đổi tiền theo thị giá ngoại hối.

 

2. Hạn chế thanh toán

Trong các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) có những quy định ngăn cấm việc hạn chế thanh toán và chuyển tiền. Đối với một nước bị lôi cuốn vào những quan hệ buôn bán tự do như vậy, thì điều này có nghĩa là nước đó sẽ đảm bảo khả năng chuyển đổi của đồng tiền nước mình phục vụ những giao dịch tài khoản vãng lai, nghĩa là khả năng chuyên đổi của tài khoản vãng lai.

Thực hiện được khả năng chuyển đổi của tài khoản vãng lai là một công việc chẳng dễ dàng. Nếu như điều này được luật pháp công nhận, trong khi những điều kiện tối thiểu cho sự cân bằng bên ngoài của kinh tế vĩ mô lại chưa đáp ứng đựơc, thì khả năng chuyển đổi không duy trì được. Nước này sẽ phải đối diện với tình trạng xấu đi rõ rệt trong vị thế các tài khoản vãng lai, với sức ép giảm giá đáng kể tỉ giá ngoại hối, hoặc với sự giảm sút mạnh về dự trữ tịnh bằng ngoại tệ. Nếu như thêm vào đó lại ngăn cấm những hạn chế đối với tín dụng ngắn hạn và trung hạn, tình trạng mất cân đối sẽ có thể trầm trọng lên bởi việc tăng vọt nợ ngắn hạn và trung hạn.

Lý do cơ bản của tình hình đó có thể là quốc gia này thiếu năng lực cạnh tranh quốc té, cho nên xuất khẩu không cân đối được nhập khẩu (nghịch sai tài khoản vãng lai) dẫn tới tăng quá đáng nhu cầu đối với hàng nhập khẩu (sức ép giảm đối vói tỷ giá ngoại hối hoặc giảm dự trữ ngoại tệ tuỳ thuộc vào chính sách tỉ giá của nước này) bị làm trầm trọng thêm do vay nước ngoài quá nhiều (nợ tăng lên).

Tình hình đó sẽ không duy trì được. Cách thức duy nhất để giải quyết ngay trong thời hạn ngắn mà không hạn chế thanh toán là nên đê cho tỉ giá ngoại hoi tăng vọt, điều này có nghĩa là phá giá đồng tiền quốc gia.

Về mặt dài hạn, đất nước này cần phải điều chỉnh lại toàn bộ những yếu tố cơ bản của kinh tế vĩ mô như lãi suất tiền tiết kiệm, có thể là công nợ quốc gia, năng suất lao động, và khái quất hơn, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.

Một cách khác để giải quyết tình hình đó theo kiểu ngắn hạn, có thể là làm giảm những nghĩa vụ công nợ quốc tế bằng cách hoặc là đưa ra những hạn chế thanh toán hoặc hạn chế ngoại hối, hoặc những biện pháp hạn chế thương mại.

Tuy nhiên, những biện pháp này sẽ không giải quyết được vấn đề, mà chỉ kéo dài thời gian để những giải pháp khác được thiết kế nhằm khôi phục những cân đối kinh tế vĩ mô cơ bản có thể phát huy tác dụng.

Sẽ chẳng cần bàn bạc thêm vấn đề khả năng chuyên đổi và những điều kiện kinh tế tiền đề nữa. Tuy nhiên, cần ghi nhận rằng mặc dù những điều kiện thanh toán là cực kỳ sát hợp trong khung cảnh một Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) bởi ảnh hưởng tiềm tàng của chúng đối với những điều kiện buôn bán, nhưng chúng còn liên quan rộng hơn tới tình hình nền kinh tế chung của những nước nằm trong Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) và không thể nào giải quyết trọn vẹn trong bối cảnh cụ thể của chính sách thương mại.

 

3. Hiệp định thương mại tự do (FTA)

Hiệp định thương mại tự do (FTA) có thể mang nhiều tên gọi khác nhau, ví dụ Hiệp định Đối tác Kinh tế (Economic Partnership Agreement), Hiệp định thương mại Khu vực (Regional Trade Agreement)… nhưng bản chất đều là các thỏa thuận hướng tới tự do hóa thương mại giữa các Thành viên.

Thành viên của các Hiệp định thương mại tự do (FTA) có thể là các quốc gia (ví dụ Việt Nam, Trung Quốc, Hoa Kỳ…) hoặc các khu vực thuế quan độc lập (ví dụ Liên minh châu Âu, Hong Kong Trung Quốc…). Vì vậy, thông thường khi nói tới Thành viên Hiệp định thương mại tự do (FTA), người ta hay dùng từ chung là “nền kinh tế”.

Các Hiệp định thương mại tự do (FTA) có thể là song phương (02 Thành viên) hoặc đa phương/khu vực (nhiều hơn 02 Thành viên).
Phạm vi “thương mại” trong các Hiệp định thương mại tự do (FTA) được hiểu theo nghĩa rộng, có thể bao gồm tất cả các hoạt động kinh doanh sinh lời, trong đó có thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và cả các vấn đề khác liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới thương mại (sở hữu trí tuệ, mua sắm công, lao động, môi trường…). (Nguồn: Trung tâm WTO và Hội nhập – VCCI).

 

4. Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF)

Từ cuối Chiến thế giới lần thứ 2 cho đến cuối năm 1972, thế giới tư bản đã đạt được sự tăng trưởng thu nhập thực tế nhanh chưa từng thấy. Trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, lợi ích thu được từ tăng trưởng đã không được chia đều cho tất cả, song hầu hết các nước tư bản đều trở nên thịnh vượng hơn, trái ngược hoàn toàn với thực tế của những nước tư bản trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới.Kinh tế và hệ thống tiền tệ thế giới có thay đổi lớn làm tăng nhanh tầm quan trọng của những mục tiêu của IMF, điều đó cũng có nghĩa là IMF phải thích ứng và hoàn thiện hơn. 

Trong tổ chức và cơ chế ban đầu của IMF có nhiều nhược điểm. Trải qua các thời kì biến chuyển của nền kinh tế và hệ thống tiền tệ thế giới, IMF đã cố gắng phát triển hoạt động của mình theo hai hướng: ổn định các tỉ giá hối đoái và đấu tranh chống những biện pháp hạn chế và phân biệt đối xử. Sự sụp đổ của hệ thống tỉ giá hối đoái cố định đặt ra sau chiến tranh bắt buộc phải thay đổi quy chế của IMF. Cuộc khủng hoảng đầu cơ gay gắt 1971 đã buộc Chính phủ Hoa Kỳ đình chỉ chế độ chuyển đổi đồng đôla lấy vàng vào 15.8.1971. Đến 1972, theo Hiệp định Jamaica, các tỉ giá hối đoái được thả nổi. Điều đó đẩy các nước thành viên của Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) không duy trì tỉ giá đồng tiền của mình theo đồng đôla nữa, mỗi nước tự do quy định, tuyên bố hay không tuyên bố tỉ giá đồng tiền của mình và như vậy vàng bị gạt ra khỏi hệ thống tiền tệ và được thay thế bằng quyền rút vốn đặc biệt (special drawing rights – SDR). 

 

5. Những hạn chế thanh toán trong các Hiệp định thương mại tự do (FTA) và IMF

Một số mục tiêu của IMF, chiểu theo Điều 1 Hiệp định của IMF, là: “Tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế mở rộng và phát triển cân đối… Hỗ trợ việc thiết lập hệ thống thanh toán đa biên đối với những giao dịch hiện hành giữa các thành viên và loại trừ những hạn chế ngoại hối có nguy cơ cản trở thương mại phát triển.”

Những vi phạm đối với việc cấm những hạn chế thanh toán trong khuôn khổ một FTA thường xuất phát từ tình trạng của quốc gia liên quan. Các nước thành viên IMF được xếp loại là các nước thuộc “Điều 8” và các nước thuộc “Điều 14”, loại thứ nhất bao gồm các nước tuân thủ những điều kiện về khả năng chuyên đổi ngoại tệ do IMF quy định; trong khi đó, loại thứ hai áp dụng những hạn chế thanh toán, phải được thông báo cho IMF.

Do vậy, những vi phạm đối với các điều khoản thanh toán quy định trong FTA được đánh giấ căn cứ vào những hạn chế mà nước này thông báo cho IMF.

Thực tiễn này cùng với nội dung khác xuất phát từ thực tế là những hạn chế thanh toán phân biệt đối xử cần phải được loại bỏ phù hợp với Hiệp định IMF (Điều 8).

Mặt khác, điều này có nghĩa là, việc đối xử ưu đãi trong khuôn khổ FTA đứng trên quan điểm của IMF sẽ có thể là vấn đề phải xem xét.

 

Trên đây là nội dung Luật LVN Group đã sưu tầm và biên soạn. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng. Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài gọi số: 1900.0191 hoặc liên hệ văn phòng để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật LVN Group.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

Luật LVN Group (Sưu tầm và biên tập).