1. Mở đầu vấn đề
Theo Gordon E.Bigelow (dịch bởi Cao Hùng Lynh) trong bài “Đôi nét về củ nghĩa hiện sinh” có nêu: “Vài năm qua, tôi chống lại từ “chủ nghĩa hiện sinh” này bằng cách cáu kỉnh ngoảnh mặt đi chỗ khác bất cứ lúc nào bất chợt gặp nó, hy vọng rằng, cũng giống chủ nghĩa Dada và một số trong các “chủ nghĩa” khác của những avant garde Pháp quốc, nó sẽ biến mất nếu như tôi không thèm để ý đến nó. Nhưng hiện sinh giống như một bức tranh, cứ gợi lên hình ảnh của những khuôn mặt râu ria xồm xoàm, những quán café ngập ngụa khói thuốc dưới tầng hầm, những gã hippi mua vui với nhau, giữa cơn say, bằng đủ mọi đề tài về tuyệt vọng. Hoá ra, hiện sinh lại đóng một vai trò rất mực quan trọng đối với văn chương và nghệ thuật, đối với triết học và thần học, và ngày càng quan trọng hơn đối với các lãnh vực khoa học xã hội. Để biết thêm, tôi đọc một số tác phẩm tự xưng là nhập môn về đề tài này, với một cảm giác ngán ngại của một người đọc bài giới thiệu bình phẩm về một cuốn tiểu thuyết, để rồi phát giác rằng lý ra anh ta phải đọc cuốn tiểu thuyết trước khi đọc bài giới thiệu. Thế nên, nơi đây, tôi muốn cung cấp một điều gì đó được coi là hiển nhiên trong hầu hết các cuộc luận bàn về chủ nghĩa hiện sinh, một sự trình bày giản lược về các đặc điểm căn bản của chủ thuyết này. Đây quả thực là một hành động khinh suất, bởi vì có nhiều loại hiện sinh, và những gì người ta nói về loại này lại có thể không đúng với loại kia; tuy nhiên, vẫn có một lãnh vực đạt được sự đồng thuận, và đây chính là điểm chung mà tôi muốn trình bày. Chúng ta sẽ không gặp khó khăn, chừng nào chúng ta hiểu ngay từ đầu rằng sáu nội dung chính được phác hoạ dưới đây chỉ đúng trong một mức độ nào đó đối với từng nhà hiện sinh riêng biệt. Đôc giả có thể khởi đầu từ đây để tiếp cận trực tiếp với tác phẩm của các nhà hiện sinh ấy, hoặc với những bài phê bình sâu sắc hơn về họ, hoặc có thể nhận ra một đề tài hay màu sắc hiện sinh nào đó hiện diện trong một tác phẩm văn học.”
Chủ nghĩa hiện sinh- nó giống như thuyết tiên nghiệm của thế kỷ trước, có bao nhiêu nhà văn dùng từ hiện sinh, thì hầu như có bấy nhiêu loại chủ nghĩa hiện sinh. Tuy nhiên, chúng ta có thể chia chúng thành hai loại vô thần và hữu thần. Chúng ta đề cập đến loại hiện sinh vô thần trước, và liệt Jean-Paul Sartre, Albert Camus và Simone de Beauvoir vào danh sách các tác giả chính yếu trong số nhiều tác giả thuộc trường phái hiện sinh. Một số trong nhóm các tác giả người Pháp này đã có những kinh nghiệm khắc nghiệt và đáng kể trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm khi phát-xít Đức chiếm đóng Pháp quốc vào thời gian đệ nhị Thế chiến bùng nổ. Từ nỗi tuyệt vọng xảy đến cùng lúc với sự sụp đổ của đất nước trong những năm này, họ đã tìm thấy một sức mạnh đáng kinh ngạc trong tinh thần bất khuất của con người, một tinh thần mà ngay cả khi bị hành hạ dã man, vẫn có thể duy trì lòng phản kháng, một khả năng không thể bị triệt hạ để có thể thốt lên tiếng “Không”. Từ điểm cốt lõi này, sau chiến tranh, họ đã dựng nên một triết thuyết được xem là sự thay đổi của triết học Descartes trong thế kỷ hai mươi. Thay vì nói “Tôi suy tư, nên tôi tồn tại”, họ nói “Tôi nói Không, nên tôi tồn tại.” Chẳng mấy chốc, chúng ta sẽ thấy rằng cách dùng của từ “tồn tại” này mang một ý nghĩa rất quan trọng. Nhóm tác giả nói trên chính là những người đã đem lại cho chủ nghĩa hiện sinh một tình trạng giống như sự sùng bái có tính cách triết lý văn chương.
Đối với các nhà hiện sinh hữu thần, chúng ta có thể nhắc ngay đến Kierkegaard, một nhà trước tác người Đan-mạch giữa thế kỷ mười chín; hai tác giả hiện đại người Pháp theo Thiên chúa giáo La-mã, Gabriel Marcel và Jacques Maritain; hai nhà thần học Tin lành Paul Tillich và Nicholas Berdyaev; và Martin Buber, nhà thần học người Do-thái. Các tác phẩm của những tác giả này đã tạo nên một trong những bước phát triển đầy ý nghĩa cho thần học hiện đại. Đằng sau hai nhóm tác giả hiện sinh kể trên, còn có những khuôn mặt triết gia nổi bật khác, những kẻ đã tác động mạnh mẽ đến trào lưu hiện sinh; đó là những Blaise Pascal, Friederich Nietzsche, Henri Bergson, Martin Heidegger, Karl Jaspers và nhiều người khác nữa. Một số nhà văn, đặc biệt là Tolstoy và Dostoievski, thường xuyên được trích dẫn vì các quan điểm và đề tài hiện sinh nổi bật trong các sáng tác của họ.
2. Nội dung hiện sinh có trước bản chất
Sở dĩ được gọi là chủ nghĩa hiện sinh là vì chủ nghĩa này nhấn mạnh rằng đời sống nhân loại chỉ có thể hiểu được thông qua sự hiện sinh của cá nhân, tức là thông qua kinh nghiệm riêng biệt của anh ta về cuộc đời.
Người ta sống, chứ không phải tồn tại, trong mỗi phút giây, và kinh nghiệm về cuộc sống của mỗi người luôn có tính chất độc đáo, khác biệt hoàn toàn với kinh nghiệm của mọi người, và chỉ có thể được hiểu đúng thông qua sự dấn thân của anh ta vào cuộc sống. Chủ nghĩa hiện sinh chối bỏ quan điểm về khuôn mẫu lý tưởng của Con Người viết hoa, hoặc của nhân loại, trong đó mỗi người chỉ là một hình ảnh của con người phổ quát. Nó cũng khước từ câu hỏi của triết học Hy-lạp “Nhân loại là gì?”, một câu hỏi hàm ý rằng con người có thể được định nghĩa, nếu như anh ta được đặt vào một vị trí thích hợp trong trật tự vạn vật; thay vào đó, nó hỏi cái câu hỏi của Job và thánh Augustine “Tôi là ai?” với sự gợi ý về tính độc đáo và kỳ bí của mỗi thân phận và sự nhấn mạnh đến chủ thể tính, tức nhân vị, hơn là đến khách thể tính, tức sự vật. Nhìn bên ngoài, con người chỉ là một sinh linh như mọi sinh linh khác; nhưng nhìn từ bên trong, anh ta là cả một vũ trụ, là trung tâm của cái vô cùng. Các nhà hiện sinh đề cao quan điểm chủ thể tính, và tất cả những đặc tính còn lại của chủ nghĩa hiện sinh đều phát triển từ quan điểm này.
3. Nội dung lý trí luôn bất lực khi đề cập đến chiều sâu của đời sống con người
Có hai khía cạnh liên quan đến nhận định “Lý trí luôn bất lực khi đề cập đến chiều sâu của đời sống con người”.
– Một là, lý trí của con người thường mềm yếu và bất toàn;
– Hai là, có những khoảng tối trong đời sống con người mang đặc tính “phi lý trí”, và vì thế là nơi lý trí không thể nào thâm nhập.
Kể từ Plato, nền văn minh phương Tây luôn luôn thừa nhận sự tách biệt lý trí ra khỏi phần còn lại của tinh thần con người, và ca ngợi lý trí như là một công cụ thích hợp dùng để chi phối các yếu tố phi lý trí. Tuyên bố mang tính cổ điển về sự tách biệt này xuất hiện nơi tác phẩm Phaedrus, trong đó Plato mô tả tinh thần qua câu chuyện về cỗ xe được kéo bời các con ngựa bạch cảm xúc và những con ngựa ô bất kham tượng trưng cho lòng ham muốn. Người đánh xe chính là Lý trí, kẻ cầm cương chế ngự các con ngựa và vung roi để khuất phục lũ ngựa ô. Chỉ có người đánh xe, một thực thể lý trí, mới có thể dạng con người; phần còn lại của tinh thần, phần phi lý trí, nằm dưới một thể dạng thấp kém hơn, thể dạng súc vật. Sự tách biệt và đề cao lý trí này được đưa đi xa hơn nữa trong câu chuyện ngụ ngôn về cái hang trong tác phẩm Republic. Hãy nhớ lại bức tranh ảm đạm về đời sống con người mà từ đó câu chuyện được bắt đầu: trong hang tối, người ta bị xích lại, lưng quay về một ngọn lửa bập bùng, không nhìn thấy gì khác ngoài những chiếc bóng đang chuyển động trên vách đá, không thể nghe thấy gì khác ngoài những âm vọng hỗn loạn. Một người, bằng cách phá vỡ gông cùm, tức thì có thể quay lại nhìn sự vật và ánh sáng mà trước đó đã tạo nên những chiếc bóng trên vách hang; thậm chí anh ta còn có thể thoát ra khỏi hang để đi về phía ánh dương tỏ rạng ngoài xa. Thông qua lý trí, anh ta có thể làm được tất cả những điều này; anh ta sẽ thoát khỏi tình trạng nô lệ của sự ngu muội, thoát khỏi thời gian và sự đổi thay, thoát khỏi chính cái chết, để bước vào vương quốc của những ý niệm hằng hữu, tức Chân lý; và thế là cái bản chất thấp kém đã trói buộc anh ta trước đây sẽ mãi mãi bị rơi lại phía sau.
Chủ nghĩa hiện sinh trong thời đại chúng ta, đây là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của nó, nhất mực thống nhất phần “thấp kém”, phần phi lý trí của tinh thần, với phần “cao cả”. Nó khẳng định rằng con người phải được thừa nhận trong thực thể trọn vẹn của anh ta, chứ không phải trong một tình trạng phân chia nào đó, đồng thời nó cũng đòi hỏi rằng con người trọn vẹn không chỉ hàm chứa tri thức, mà còn cả những âu lo, tội lỗi và ước vọng quyền lực – những thứ làm biến đổi, và đôi khi, lấn át chính lý trí. Con người được nhìn thấy dưới quan niệm này là một con người, về cơ bản, hết sức mơ hồ, nếu không nói là huyền bí, đầy rẫy những vấn đề mâu thuẫn và căng thẳng tiềm ẩn, những vấn đề không thể giải quyết một cách đơn giản bằng tư duy. “Đời sống con người,” Beryaev nói, “được hình thành từ muôn vạn mạch suối ngầm.” D. H. Lawrence giận dữ chống lại Franklin và nỗ lực duy lý nhằm đạt tới sự hoàn hảo về tinh thần của Franklin: “Ôi, tính có thể hoàn thiện của con người!… Tính có thể hoàn thiện của con người nào? Tôi là nhiều người. Anh dự tính hoàn thiện con người nào trong số ấy? Tôi đâu phải là một sản phẩm máy móc… Tâm hồn con người kỳ lạ lắm. Nó là cái toàn vẹn của anh ta. Điều đó có nghĩa là nó vừa là cái có thể hiểu được và vừa là cái không thể hiểu được… Tâm hồn con người là một khu rừng thẳm tăm tối, bao giờ cũng có một đời sống hoang dại trong ấy.” Trong chủ nghĩa hiện sinh, trọng tâm không được đặt vào ý tưởng, mà vào kẻ tư duy, tức người mang ý tưởng ấy. Nó thừa nhận không chỉ sức mạnh tư tưởng của kẻ tư duy, mà còn thừa nhận cả cuộc ngẫu sinh (contingency), sự lầm lạc, tính nhu nhược, thân xác, máu xương và sự chết của anh ta. Kierkegaard nhấn mạnh sự khác biệt giữa sự thật chủ quan (điều mà một người nghiệm sinh) và sự thật khách quan (điều mà con người biết về), và nói rằng chúng ta chạm trán với chính sự thật không phải trong sự phân chia của lý trí, mà trong sự dấn thân trọn vẹn và nỗi đớn đau của sự lựa chọn, trong niềm bi tráng khi sống tận tuỵ cho điều chọn lựa của mình. Quan điểm ngờ vực hệ thống duy lý này giúp ta giải thích tại sao cách diễn tả của nhiều nhà văn hiện sinh thường tỏ ra nghịch lý, bí ẩn và có tính chất tiên tri, và tại sao tác phẩm của họ thường nằm trong địa hạt văn chương hơn là triết lý.
4. Nhà triết gia bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa hiện sinh
Nhiều triết gia ảnh hưởng bởi Kierkegaard cũng là những triết gia tôn giáo. Danh sách của những triết gia theo chủ nghĩa hiện sinh theo Kitô giáo bao gồm Gabriel Marcel, Nicholas Berdyaev, Miguel de Unamuno và Karl Jaspers (mặc dù ông thích nói về điều ông gọi là “niềm tin có tính triết học”). Nhà văn người Do Thái Martin Buber và Lev Shestov cũng được cho là có liên hệ với chủ nghĩa hiện sinh. Đến mức độ nào Martin Heidegger nên được xem là một người theo chủ nghĩa hiện sinh là một vấn đề còn gây nhiều tranh cãi, như chiến thuật của ông, trong cuốn sách Tồn tại và thời gian, về những giải thích về sự tồn tại của loài người (Dasein), phải được phân tích theo các thể loại của chủ nghĩa hiện sinh (existentiale), đã làm nhiều bình luận viên xem ông như là một nhân vật quan trọng trong phong trào chủ nghĩa hiện sinh.
Chắc chắn là ông đã ảnh hưởng lên Jean-Paul Sartre người mà, cùng với Albert Camus và Simone de Beauvoir, có lẽ đã trở thành những người ủng hộ nổi tiếng nhất cho chủ nghĩa hiện sinh, khai phá nó không chỉ trong những tác phẩm mang tính lý thuyết như magnum opus của ông Tồn tại và sự trống rỗng (L’Être et le Néant), mà còn trong các vở kịch và các cuốn tiểu thuyết. Sartre, Camus và de Beauvoir tất cả đều đại diện cho một nhánh vô thần của chủ nghĩa hiện sinh, mà bây giờ có liên hệ gần hơn với những ý tưởng của họ về nausea, contingency, niềm tin xấu và lố bịch hơn là những ý tưởng mang tính tôn giáo angst của Kierkegaard. Tuy nhiên, sự tập trung vào cá nhân con người, chịu trách nhiệm trước vũ trụ cho sự chân thực của sự tồn tại của anh/cô ta, là điểm chung của tất cả các triết gia.
5.Kết thúc vấn đề
Nhìn chung, sự ra đời của chủ nghĩa hiện sinh như một liệu pháp tâm lý giải tỏa những ức chế của đời sống xã hội đã bị giam hãm một thời gian dài, bị cầm tù bởi những cấm kỵ của chế độ phong kiến, lên án thói đạo đức giả và sự tha hóa con người trong xã hội biến động về khoa học công nghệ, mong ước cứu vớt con người trước thảm họa chiến tranh, đưa con người trở về ngôi vị làm người chân chính.
(MK LAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)
Trên đây là nội dung Luật LVN Group đã sưu tầm và biên soạn. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng. Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài gọi số: 1900.0191 hoặc liên hệ văn phòng để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật LVN Group
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng!
Luật LVN Group (Sưu tầm và biên tập).