1. Mở đầu vấn đề
Trong những năm qua, Nhà nước ta đã xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật ngày càng lớn, chất lượng ngày càng nâng cao, hoàn thiện một bước quan trọng hệ thống pháp luật về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; về các lĩnh vực văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục – đào tạo, khoa học, công nghệ, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… đáp ứng yêu cầu của thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hệ thống pháp luật đã thể chế hóa kịp thời chủ trương của Ðảng, cụ thể hóa các quy định mới của Hiến pháp năm 2013, bám sát yêu cầu của cuộc sống và đáp ứng các tiêu chí của hệ thống pháp luật về “tính đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai và minh bạch” 1; xử lý tốt những vấn đề phức tạp của thực tiễn.
Qua đó, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ cho việc đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tôn trọng quyền tự do kinh doanh, bình đẳng, theo pháp luật; bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân; bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường; thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; đẩy mạnh cải cách tư pháp; tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm; củng cố quốc phòng, bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng.
Trong bối cảnh mới hiện nay, tình hình trên thế giới tiếp tục có những diễn biến nhanh, phức tạp; đất nước đứng trước vận hội và cả những thách thức không nhỏ, đòi hỏi cần tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật để đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững. Trước tình hình đó, Ðại hội Ðảng XIII đã xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ là “Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là sự gương mẫu tuân theo pháp luật, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị – xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên; tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc”
Trong quá trình phát triển, khoa học pháp lý đã xây dựng nên phạm trù “hệ thống pháp luật”.
Lý luận pháp luật đã luận giải phạm trù đó trên nhiều phương diện: từ bản chất, các đặc điểm cơ bản, các bộ phận cấu thành, các mối liên hệ của nó và những vâh đề khác. Từ đây có một vấn đề đặt ra cần được giải quyết là có hay không phạm trù “hệ thống chính sách pháp luật”, nếu có thì phạm trù đó được hiểu như thế nào? có những chức năng phương pháp luận nào? Phạm trù “hệ thống chính sách pháp luật” tồn tại trong hiện thực, do vậy, khoa học chính sách phảp luật cần phải luận giải phạm trù này.
2. Bàn luận về phạm trù hệ thống chính sách pháp luật
Các luận điểm của cách tiếp cận hệ thống và các khái niệm chung của lý luận về hệ thống có thể được sử dụng để phân tích hệ thống chính sách pháp luật.
Các công trình nghiên cứu lý luận dựa trên các nguyên tắc rộng lớn và khái quát nhất về hiện thực đã đặt riền tảng cho việc nhận thức về chính sách pháp luật. Dựa vào các nguyên tắc đó, có thể coi các quá trình chính sách pháp luật trong xã hội như là các quá trình hệ thống, tức là các quá trình liên kết hoạt động của những chủ thể khác nhau trong xã hội, và thay vào vị trí của nhà nước, khách thể nghiên cứu của khoa học chính sách pháp luật là hệ thống chính sách pháp luật.
Theo cách tiếp cận hệ thống, xã hội có thể được xem xét với tư cách một hệ thống phức tạp, bao gồm các bộ phận độc lập tương đối với nhau: kinh tế, chính trị, tinh thần và bộ phận liên kết (thuật ngữ nói về nhà nước). Mỗi bộ phận trong hệ thống đó có các chức năng của mình, đồng thời, trong tổng thể các bộ phận đó bảo đảm cho hoạt động sống của xã hội nói chung. Trong ngữ cảnh như vậy có thể coi chính sách pháp luật là một kiểu hệ thống tập trung chủ yếu đến vâh đề chức năng để đạt được mục tiêu. Tuy vậy, tất cả các quá trình tiêu chuẩn đối với mọi hệ thống (tái sản xuất các khuôn mẫu, sự liên kết, việc đạt được mục tiêu và sự thích nghi), các quá trình thường xuyên do các yếu tố cơ cấu thực cũng được thê’ hiện trong phạm vi của kiểu hệ thống đó.
Những chủ thể thực hiện các chức năng (các chức năng của chính sách pháp luật) có thể bị thay đổi, nhung các chức năng đó không thê’ bị thay đổi, bởi vì, nền tảng của các chức năng là các nhu cầu tổng hợp của sự tồn tại. Chính sách pháp luật được ban hành đê’ tạo ra sự tác động lẫn nhau với tiểu hệ thống khác và với môi trường: môi trường vật lý và môi trường hiện thực cao nhất (thực thê’ siêu nghiệm).
Tiếp cận hệ thống đưa ra sự đo lường mới đối với việc phân tích các quan hệ xã hội và các quá trình chính sách pháp luật. Sự đo lường đó cho phép xác định chính xác hơn vị trí của chính sách pháp luật trong đời sống xã hội và làm sáng tỏ được cơ chế của những biến đổi xã hội diễn ra trong xã hội.
Cần phải nghiên cứu sâu hơn về cách tiếp cận hệ thống đối với hệ thống chính sách pháp luật. Đó là xây dựng lý luận tổng hợp về hoạt động xã hội cụ thể, về hệ thống chính sách pháp luật nói chung, về các quy tắc điều chỉnh hệ thống đó, về môi trường mà hệ thống chính sách pháp luật tương tác. Có thê’ sử dụng khái niệm “hộp đen” – khái niệm được lấy ra từ hệ thống kỹ thuật để tiếp cận hệ thống chính sách pháp luật.
Môi trường cung cấp xung lực cho “đầu vào” (tiếng Anh Input) của hệ thống chính sách pháp luật và hệ thống chính sách pháp luật soạn thảo các quyết định và thực hiện các quyết định chính sách pháp luật là “đầu ra” (tiếng Anh Output) của hệ thống chính sách pháp luật. Hệ thống chính sách pháp luật tiến hành quản lý xã hội bằng phương thức như vậy và đó là nhiệm vụ và chức năng của hệ thống chính sách pháp luật. Ngoài ra, hệ thống chính sách pháp luật còn điều chỉnh sự sản xuất và phân khối các của cải xã hội với sự trợ giúp của các cơ chế quyền lực (trước hết là các cơ chế nhà nước), cũng như điều chỉnh các quan hệ chính sách trong xã hội.
3. Hệ thống về đời sống chính sách pháp luật
Việc phân tích hệ thống về đời sống chính sách pháp luật cần phải dựa trên luận điểm cho rằng, “hệ thống chính sách pháp luật đắm chìm trong môi trường” và chịu sự tác động từ phía môi trường, điều đó có nghĩa là để tồn tại hệ thống chính sách pháp luật cần có khả năng phản ứng. Khi thường xuyên duy trì các mối quan hệ với môi trường bên ngoài (trong đó có các cấu phần quan trọng của nó là tự nhiên, kinh tế, văn hóa, cơ cấu xã hội), vói sự trợ giúp của các cơ chế điều chỉnh, chính sách pháp luật soạn thảo ra những sự phản ứng đáp lại với các xung lực từ bên ngoài, thích nghi vói các điều kiện hoạt động bên ngoài.
Sự tách ra các phạm trù cơ bản “các đầu vào”, tức là các hiện tượng bên ngoài trong mối quan hệ với hệ thống chính sách pháp luật – các hiện tượng ảnh hưởng đến hệ thống chính sách pháp luật và “các đầu ra” với tư cách là các kết quả hoạt động của hệ thống chính sách pháp luật, đến lượt mình, các kết quả đó tác động đến môi trường xung quanh là bước đầu tiên để nhận thức được cơ chế thích nghi, cơ chế tạo thành nền tảng của năng lực sống của mọi hệ thống chính sách pháp luật và cho phép xã hội tồn tại trong các đòi hỏi đang được biến đổi của môi trường. Cần nghiên cứu để soạn thảo các quan niệm độc lập chỉ rõ các biến số đó ảnh hưởng như thế nào đến hệ thống chính sách pháp luật.
Khi nghiên cứu chính sách pháp luật cần phải lưu ý rằng, hệ thống chính sách pháp luật, ở một phương diện nhất định, là các loại hành vi chính sách pháp luật khác nhau của các cơ quan nhà nước và các tổ chức phi nhà nước. Các loại hành vi chính sách pháp luật như vậy không chỉ do các chức năng của một hệ thống tổng hợp nào đó mà còn do bản chất của chính những người tham gia tương tác xã hội cụ thể quy định. Do vậy, khoa học chính sách pháp luật không chỉ tập trung nghiên cứu các yếu tố mang tính cơ cấu riêng của hệ thống chính sách pháp luật mà còn phải nghiên cứu cả các mối liên hệ của hệ thống chính sách pháp luật với môi trường. Ở đây khái niệm vai trò có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nội dung của những tác động chính thức và phi chính thức lẫn nhau tạo nên văn hóa chính sách pháp luật của xã hội phụ thuộc vào vai trò. Văn hóa chính sách pháp luật đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển tổng thể các quan hệ chính sách pháp luật. Đặc điểm của các dòng thông tin “đầu vào” và “đầu ra” quyết định vai trò của hệ thống chính sách pháp luật trong môi trường xã hội.
Qua nghiên cứu có thể phân ra ba lớp lớn các khách thể được đưa vào hệ thống chính sách pháp luật. Đó là: (i) các cơ cấu – các cơ quan lập pháp, những người thực hiện chính sách pháp luật; (ii) các nghĩa vụ vai trò – các nhà lập pháp, các nhà hành pháp, các nhà tư pháp; (iii) các quyết định chính sách pháp luật (hoặc các tình tiết làm phát sinh các quyết định như vậy). Các cơ cấu, nghĩa vụ và quyết định đó có thể được phân loại theo những căn cứ rộng hơn, xuất phát từ việc chúng có được đưa vào quá trình chính sách pháp luật “ở đầu vào” hoặc quá trình hành chính “ở đầu ra” hay không.
Cách tiếp cận hệ thống đến việc nghiên cứu chính sách pháp luật đóng vai trò phương pháp luận quan trọng trong khoa học chính sách pháp luật hiện nay. Khái niệm hệ thống cho phép, một mặt, nhìn thấy được đời sống chính sách pháp luật với tư cách là bức tranh toàn vẹn về hành vi của con người, còn mặt khác, trung chuyển việc phân tích sự tác động lẫn nhau của chính sách pháp luật với môi trường của nó.
4. Bản chất hệ thống chính sách pháp luật
Như vậy, hệ thống chính sách pháp luật là một hiện thực tồn tại khách quan. Đó là lĩnh vực chính sách bao gồm sự tương tác lẫn nhau của nhiều hoạt động, là tổng thể các quan hệ mang tính chính sách.
Hệ thống chính sách pháp luật có mối tương quan như thế nào với đời sống xã hội, đời sống pháp luật? Có thể nói một cách khái quát rằng, vấn đề chính mà hệ thống chính sách pháp luật giải quyết là hình thành các mục tiêu cần thiết cho hoạt động của xã hội và những vâh đề mới của liên kết xã hội và của sự họp pháp hóa các hình thức tác động xã hội lẫn nhau trong tiến trình phát triêh dựa trên trí tuệ xã hội.
5. Kết thúc vấn đề
Từ trình bày trên cho thấy, có thể coi hệ thống chính sách pháp luật với tư cách là “hộp đen” và cần phải phân tích mang tính chuyên môn sâu sắc hộp đen đó. Khoa học chính sách pháp luật có nhiệm vụ làm sáng tỏ vâh đề đó.
Trên đây là nội dung Luật LVN Group sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Luật LVN Group (Sưu tầm và Biên soạn).