1. Mở đầu vấn đề
Thời kỳ Phục hưng ở Tây Âu bắt đầu từ thế kỳ XV. Cùng với sự phát triển về nghệ thuật và nhiều lĩnh vực khác, trong lĩnh vực tư tưởng xuất hiện nhiều nhà triết học tiếp tục các xu thế tiến bộ của triết học thời kỳ trung cổ trên cơ sở kế thừa những tinh hoa của triết học cổ Hy Lạp và La Mã.
2. Hoàn cảnh lịch sử
Bắt đầu từ thế kỷ XV, ở Tây Âu, chế độ phong kiến với nền sản xuất nhỏ và các đạo luật hà khắc trung cổ bước vào thời kỳ tan rã.
Xuất hiện nhiều công trường thủ công, ban đầu ở các nước ven Địa Trung Hải, nhất là ở Italia, sau đó lan sang Anh, Pháp và các nước khác. Thay thế cho nền kinh tế tự nhiên kém phát triển là nền sản xuất công trường thủ công đem lại năng suất lao động cao hơn. Nhiều công cụ lao động được cải tiến và hoàn thiện nhằm thúc đẩy sản xuất. Với việc sáng chế ra máy tự kéo sợi và máy in đã làm cho công nghiệp dệt, công nghệ ấn loát đặc biệt phát triển, nhất là ở Anh. Sự khám phá và chế tạo hàng loạt đồng hồ cơ học đã giúp cho con người thời kỳ này sản xuất có kế hoạch, tiết kiệm thời gian và tăng năng suất lao động.
Những phát kiến địa lý như việc tìm ra châu Mỹ và các đường biển đến những miền đất mới… càng tạo điều kiện phát triển nền sản xuất theo hướng tư bản chủ nghĩa. Nhờ đó, thương mại, thị trường trao đổi hàng hóa giữa các nước được mở rộng. Các cuộc giao du Đông – Tây được tăng cường.
Đối với các nước tư bản chủ nghĩa sớm phát triển như Anh, Pháp, Tây Ban Nha… thi nhau xâm chiếm thuộc địa, khai thác tài nguyên thiên nhiên của các nước kém phát triển, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa của mình.“Giờ đây lần đầu tiên người ta đã thật sự phát hiện ra trái đất và đặt nền móng cho buôn bán quốc tế sau này và… đại công nghiệp hiện đại”.
Đồng thời với sự phát triển của sân xuất và thương nghiệp, trong xã hội Tây Âu thời kỳ này, sự phân hóa giai cấp ngày càng rõ rệt. Tầng lớp tư sản xuất hiện gồm các chủ xưởng công trường thủ công, xưởng thợ, chủ thuyền buôn… Vai trò và vị trí của họ trong kinh tế và xã hội ngày càng lớn. Hàng loạt nông dân từ nông thôn di cư đến các thành phố, trở thành người làm thuê cho các công trường, xưỏng thợ. Họ là tiền thân của giai cấp công nhân sau này. Các tầng lớp xã hội trên đại diện cho một nền sản xuất mới, cùng với nông dàn đấu tranh chống chế độ phong kiến đang suy tàn.
Những mầm mống của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa xuất hiện trước tiên ở Italia, nước được coi là quốc gia tư bản sớm nhất ở Tây Âu. Với nền văn hoá Phục hưng phát triển rực rỡ trong suốt thế kỷ XIV – XV, Italia trở thành trung tâm của vũ đài lịch sử thế giới, tiêu biêu cho nền văn minh nhân loại thời kỳ này. Tiếp sau đó, các cuộc cách mạng tư sản nổ ra ở Hà Lan, đặc biệt ở Anh (1642 – 1648) báo hiệu giờ cáo chung của chế độ phong kiến châu Âu đã đến. Tính chất và sự thắng lợi của cách mạng tư sản Anh có ảnh hưởng to lớn tới thế giới quan của các triết học Anh thời cận đại Bêcơn, Hôpxơ, Lôccơ…. Mặc dầu cách mạng tư sản ở Anh chưa triệt để nhưng “Bắt đầu từ đó, giai cấp tư sản trở thành một bộ phận khiêm tốn, nhưng được thừa nhận, của các giai cấp thống trị ở Anh”. Tiếp theo đó là cách mạng tư sản Anh, cuộc Đại cách mạng tư sản Pháp (1789 – 1794) với việc xử tử vua Lui XVI là một trong những đòn quyết định tiêu diệt chế độ phong kiến ở châu Âu. Nó là hành động thực tiễn, đồng thời là sự cổ vũ to lớn đối với triết học khai sáng Pháp thế kỷ XVIII – ngọn cờ của giai cấp tư sản Pháp trong cách mạng.
=> Nhận xét: Bước sang thời phục hưng và cận đại, sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã trở thành một xu thế lịch sử mà không gì có thể ngăn cản nổi. Sự quá độ từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản là nền tảng thực tiễn xã hội của triết học Tây Âu thời phục hưng nói riêng.
Những hoàn cảnh lịch sử Tây Âu thế kỷ XV – XVIII và nền tảng tư tưởng trên đây quy định nội dung của triết học thời kỳ này, làm cho nó không chỉ đơn thuần dừng lại ở việc tiếp thu và khôi phục các giá trị tư tưởng truyền thống, mà trái lại, phát triển với nhiều màu sắc riêng của một thời kỳ lịch sử, như Ăngghen nhận xét, “từ xưa tới nay, nhân loại đã trải qua; đó là một thời đại cần có những con ngưòi khổng lồ và đã sinh ra những con người khổng lồ: khổng lổ về năng lực suy nghĩ, về nhiệt tình và tính cách, khổng lồ về mặt có lắm tài, lắm nghề và về mặt học thức sâu rộng”.
3. Đặc điểm chính của triết học Tây Âu thời phục hưng và cận đại
a. Triết học Tây Âu thời phục hưng và cận đại là ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh nhằm thiết lập sự thống trị của mình. Trong triết học thời kỳ này diễn ra sự xung đột gay gắt giữa các tư tưởng triết học và khoa học tiến bộ được giai cấp tư sản ủng hộ với các quan niệm thần học và giáo hội thể hiện lợi ích của chế độ phong kiến. Bằng những cơ sở và luận chứng khoa học, triết học phục hưng và cận đại giúp cho giai cấp tư sản nhận thấy bộ mặt thật của chế độ phong kiến đang thối nát, xoá bỏ vòng hào quang thần thánh mà giáo hội khoác cho chế độ nông nô.
Vì vậy mà thời kỳ này, cuộc đấu tranh giữa các trưòng phái duy tâm và duy vật trong triết học gắn liền với cuộc đấu tranh cuả triết học và khoa học nhằm thoát khỏi ảnh hưởng của thần học và giáo hội. Với xu thế phát triển của lịch sử, càng về sau giai cấp tư sản càng khẳng định sức mạnh và tính ưu việt của mình không chỉ về phương diện phát triển kinh tế mà còn về phương diện phát triển triết học, khoa học. Mặt khác, để phục vụ lợi ích của mình, giai cấp tư sản vẫn cần đến tôn giáo. Cho nên như Ăngghen nhận xét, các cuộc cải cách của Luthơ, Canvin… chỉ là sự cải biến lại tôn giáo cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới.
b. Triết học thời kỳ này gắn liền với vấn đề con người và giải phóng con người. Thời trung cổ, do ảnh hưởng nặng nề của thế giới quan tôn giáo và trình độ sản xuất thấp, người ta coi con người là một sinh vật thụ động, chỉ biết thờ phụng chúa, cầu mong được rửa tội. Vì vậy, vấn đề cơ bản của triết học thời trung cổ là vấn đề:
“thế giới này do Chúa sáng tạo hay nó vẫn tồn tại như thế từ xưa đến nay?”
Bước sang thời Phục hưng và cận đại, sự phát triển to lớn của sản xuất và khoa học đã chứng minh sức mạnh vĩ đại của con người. Vì vậy, thời kỳ này ở Italia, đã dấy lên khẩu hiệu “con người hãy thờ phụng chính bản thân mình, chiêm ngưỡng cái đẹp của chính mình”. Hình ảnh bức tượng “Người khổng lồ” (Davit) của nhà điêu khắc Mikenlan Giêlô đã trở thành biểu tượngcủa con người thời Phục hưng và cận đại. Đó là con người tràn đầy sức sống và hoài bão tự do. Giờ đây, không phải quan hệ giữa chúa và thế giới mà chính là vấn đề quan hệ giữa con người và thế giới trở thành trung tâm của các quan niệm triết học. Nhiều nhà tư tưởng đã ý thức được sự cần thiết phải xây dựng một “triết học thực tiễn, nhờ đó con người hiểu biết sức mạnh… của tất cả các sự vật khác xung quanh ta cũng thấu đáo như những công việc của những người thợ thủ công, bằng cách đó, chúng ta có thể sử dụng chúng trong các hoạt động của mình, đồng thời biến mình thành những chủ nhân và chúa tể của giới tự nhiên”.
Thực ra, dưới hình thức này hay hình thức khác, ngay từ thời cổ đại, vấn đề con người đã trở thành một trong những đề tài triết học cơ bản. Tuy nhiên, ở mỗi thời đại vấn đề đó được đặt ra và giải quyết trong những bối cảnh và nội dung khác nhau. Triết học Tây Âu thời kỳ này phản ánh rõ cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản nhằm giải thoát con người khỏi mọi gông cùm chật hẹp mà các tôn giáo thời trung cổ áp đặt cho nó. Vì thế từ thời Phục hưng, các tư tưởng nhân đạo đặc biệt phát triển. Hơn nữa, với nhiều khám phá trong lĩnh vực tâm sinh lý học, các triết gia thế kỷ XV – XVIII ngày càng nhận thấy vai trò của thể xác con người đối với việc phát triển trí tuệ và nhân cách. Tuy nhiên, ở đây con người mới được đề cập đến chủ yếu ở khía cạnh cá thể, bản chất xã hội của con người chưa được đề cao.
c. Triết học thời kỳ này phát triển trong điều kiện phát triển như vũ bão của các nhà khoa học. Bản thân các khoa học nhìn chung chưa trở thành các khoa học độc lập, nên mối quan hệ giữa triết học và các khoa học khác gắn bó tới mức khó phân biệt ranh giới giữa chúng. Vì thế, danh từ “triết học” được hiểu rất rộng, nó không ám chỉ đơn thuần sự thông thái nói chung nữa mà mang nhiều nội dung khoa học và nghệ thuật cụ thể. Phần nhiều các triết gia như Brunô, Galilê, Đêcáctơ, Lépnít… đều là các nhà bách khoa uyên bác trên nhiều lĩnh vực khoa học. Sự phát triển khoa học đã giúp cho các nhà triết học có nhiều quan niệm hợp lý về thế giới và con người. Cũng chính do ảnh hưởng của các nhà khoa học tự nhiên, đặc biệt là cơ học và toán học mà trong triết học thế kỷ XV – XVIII chịu sự thống trị của phương pháp tư duy siêu hình. Bản thân việc xuất hiện chủ nghia duy cảm và chủ nghĩa duy lý cũng đều có cơ sở trong sự phát triển các xu hướng khác nhau của khoa học tự nhiên thời Phục hưng và cận đại.
Mối quan hệ giữa triết học với các lĩnh vực thế giới quan khác trong thời Phục hưng và cận đại cũng trài qua nhiều bước thăng trầm. Từ thế kỷ XV – XVI, triết học chiụ ảnh hưởng nhiều của sự phát triển nghệ thuật và văn hoá phục hưng, nhất là ở Italia. Đến thế kỷ XVII, nó hoà quyện cùng với các khoa học, nhất là khoa học tự nhiên trong việc giải quyết nhiều vấn đề thế giới quan. Đến cuối thế kỷ XVII – đầu thế kỷ XVIII, khi nhiều khoa học đủ sức tách ra khỏi cái nôi triết học của mình thì cũng là lúc triết học bước vào khủng hoảng với việc xuất hiện nhiều quan niệm hoài nghi luận. Tất cả những điều đó nói lên đặc trưng riêng cũng như sự phong phú, đa dạng của triết học thời kỳ này.
d. Sự thống trị của các quan niệm tự nhiên thần luận trong triết học thế kỷ XV -XVIII cho thấy sự phức tạp và dai dẳng của cuộc đấu tranh giữa triết học và khoa học chân chính với các quan niệm tôn giáo, thần học trong việc giải quyết các vấn đề về bản chất của Thượng đế, thế giới và con người. Chính việc thoả hiệp của giai cấp tư sản trong các vấn đề tôn giáo là hậu thuẫn thực tiễn cho các quan niệm tự nhiên thần luận thời kỳ này. Mặc khác, việc tồn tại dai dẳng của tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm triết học đòi hỏi chúng ta không nên phiến diện trong việc đánh giá tôn giáo cũng như tiến trình lịch sử thắng lợi của các tư tưởng duy vật và vô thần trong cuộc đấu tranh chống các quan niệm duy tâm và tôn giáo. Xét ở một khiá cạnh nhất định, các quan niệm này đóng vai trò tích cực đáng kể trong đời sống xã hội.
4. Nhà triết gia khởi đầu triết học phục hưng Nicolai Kuzan
Với nhà Triết học Nicolai Kuzan (1401 – 1464). Nicôlai Kuzan sinh ra trong một gia đình đánh cá ở miền Nam nước Đức, nhưng chịu ảnh hưởng của các nhà nhân đạo và những người theo phái Platôn ở Italia. Vì thế, ông là một trong những người đầu tiên dám phê phán mạnh mẽ các giáo lý trung cổ, mở đầu thời kỳ triết học Phục hưng với các tác phẩm nổi tiếng như về sự dốt nát, về tri thức học….
Ý đồ của Nicôlai Kazan là xây dựng một hệ thống thần học mới thay thế thần học cũ của các triết học gia trung cổ mang nặng tinh thần luận. Ông đưa ra quan điểm tự nhiên thần luận cho rẳng sự tồn tại của Thượng đế không gì khác mà chính là sự tồn tại của thế giới trong Thượng đế. Điểm mới của Kuzan là ở chỗ: ông không coi Thượng đế như một vật hay cá nhân cụ thể nào mà là bản chất vô hạn của thế giới. Qúa trình phát triển ngày càng hoàn thiện của thế giới cũng chính là quá trình Thượng đế ngày càng biểu hiện ra thành giới tự nhiên. Mối quan hệ giữa Thượng đế và giới tự nhiên tựa như mối quan hệ giữa bản chất vô cùng tận với những hiện tượng mà nó dần dần thể hiện ra. Vì sự phát triển của Thượng đế dài vô cùng tận nên không một phạm trù nào, thậm chí toàn bộ các phạm trù của con người cũng không thể biểu hiện được bản chất vô hạn của Thượng đế. Ở đây, Kuzan đã đi đến tư tưởng biện chứng về tính tương đối của nhận thức con người. Hơn nữa, ông còn nhận thấy Thượng đế là sự thống nhất giữa các mặt đối lập. Thượng đế là cực đại tuyệt đối, nhưng “bởi vì cực đại tuyệt đối đồng thời chứa đựng thực sự tất cả mọi vật… cho nên cực đại đồng nhất với cực tiểu”. Mối quan hệ giữa Thượng đế với các sự vật ở ông được thể hiện rõ nhất qua luận điểm biện chứng sâu sắc: “Thượng đế là tất cả trong mọi cái, nhưng đồng thời cũng không là gì cả (hư vô) trong mọi cái”.
Chịu ảnh hưởng xu thế đề cao con người của các nhà triết học cổ đại và các nhà nhân đạo thời kỳ này. Nicôlai Kuzan coi con người là sản phẩm tối cao và tinh tuý nhất trong sự sáng tạo của Thượng đế, vì con người như Thượng đế – con người (deus – human), ông là một trong số ít nhà triết học từ trước tới giờ ý thức được con người không chỉ là một sinh vật cấp cao bằng xương bằng thịt như hàng ngày chúng ta vẫn thấy, mà là một Thượng đế – con người đang thường xuyên tác động vào cáo sự vật tự nhiên. Vì vậy, “con người chính là Ihê giới con người bao quát dưới dạng tiềm tàng toàn bộ Thượng đế và thế giới…. nội tâm triển vọng của con người đó là tất cả. Quan niệm này của Kuzan đánh dấu một bước tiến mới của triết học thời Phục hưng và cận đại so với triết học trước đây trong quan niệm về vấn đề con người.
Xuất phát từ quan niệm biện chứng về bản chất của Thượng đế và thế giới, Nicôlai Kuzan khẳng định tính tương đối của nhận thức con người. “Bởi chân lý tồn tại không hơn không kém… là giới hạn vô cùng tận của lý tính chúng ta… Hiểu biết của chúng ta càng rộng và sâu bao nhiêu thì chúng ta càng tiến tới chân lý bấy nhiêu”. Quan niệm này mặc dù có hạn chế ở chỗ coi chân lý như sự trọn vẹn tuyệt đối và cứng nhắc, nhưng nó đặt nền móng cho tư tưởng biện chứng về quá trình nhận thức trong triết học sau này.
5. Nhà triết gia Nicôlai Côpécníc (1473 – 1543)
Nicôlai Côpécníc (1473 – 1543). Ông Nicôlai Côpécníc là một trong những người đầu tiên nhận thấy thuyết địa tâm Arixtốt – Ptôlêmê chẳng những không giải thích đuợc nhiều hiện tượng thiên văn học, mà còn là chỗ dựa cho thần học và giáo hội chống lại khoa học, ông đưa ra thuyết nhật tâm coi mặt trời là trung tâm của vũ trụ. Bản thân các hành tinh khác kể cả trái đất phải xoay quanh mặt trời. Mặc dù chưa lý giải được nhiều hiện tượng thiên văn, nhung thuyết nhật tâm của Côpécníc có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của triết học và khoa học thời kỳ này.
Theo Ph.Ăngghen đã viết: “Hành vi cách mạng mà khoa học tự nhiên dùng để tuyên bố sự độc lập của mình,.. chính là việc xuất bản tác phẩm bất hủ trong đó Côpécníc. – tuy với một thái độ rụt rè…, – đã thách thức quyền uy của giáo hội trong các vấn đề của tự nhiên. Từ đó trở đi khoa học tự nhiên mới bắt đầu được giải phóng khỏi thần học…”
(MK LAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)
Trên đây là nội dung Luật LVN Group đã sưu tầm và biên soạn. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng. Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài gọi số: 1900.0191 hoặc liên hệ văn phòng để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật LVN Group
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng!
Luật LVN Group (Sưu tầm và biên tập).