1. Mở đầu vấn đề 

Hiệp ước WIPO về bản quyền (WCT) thông qua tháng 10-1996 đã có hiệu lực. WTC vận dụng công ước Bécnơ vào thời đại kỹ thuật số. Người nắm quyền sở hữu có được sự bảo hộ pháp lý cho công trình của mình trong việc phân phối, thuê, thông báo cho công chúng và sẵn sàng dành cho công chúng. Các chương trình máy vi tính được hưởng sự bảo hộ giống như đối với các tác phẩm văn học và việc biên soạn dữ liệu (cơ sở dữ liệu) tạo nên sự sáng tạo trí tuệ cũng được bảo hộ như vậy. Hiệp ước còn có điều khoản về các biện pháp công nghệ, nghĩa là về sự bảo hộ của các phương cách chống sao chép, về thông tin quản lý điện tử các quyền này cũng như điều khoản về hiệu lực.

Hiệp ước Bản quyền WIPO (WCT) là một hiệp định đặc biệt theo Công ước Berne liên quan đến việc bảo vệ các tác phẩm và quyền của các tác giả của chúng trong môi trường kỹ thuật số. Ngoài các quyền được Công ước Berne công nhận, họ còn được trao một số quyền kinh tế nhất định. Hiệp ước cũng đề cập đến hai vấn đề cần được bảo vệ bằng bản quyền : (i) các chương trình máy tính, bất kể phương thức hoặc hình thức thể hiện của chúng; và (ii) tổng hợp dữ liệu hoặc tài liệu khác (“cơ sở dữ liệu”).

 

2. Tóm tắt Hiệp ước Bản quyền WIPO (WCT) (1996)

Hiệp ước Bản quyền WIPO (WCT) là một hiệp định đặc biệt theo Công ước Berne liên quan đến việc bảo vệ các tác phẩm và quyền của các tác giả của chúng trong môi trường kỹ thuật số. Bất kỳ Bên ký kết nào (ngay cả khi không bị ràng buộc bởi Công ước Berne) phải tuân thủ các quy định nội dung của Đạo luật (Paris) năm 1971 của Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật (1886). Hơn nữa, WCT đề cập đến hai vấn đề cần được bảo vệ bởi bản quyền: (i) các chương trình máy tính, bất kể phương thức hoặc hình thức thể hiện của chúng; và (ii)tập hợp dữ liệu hoặc tài liệu khác (“cơ sở dữ liệu”), dưới bất kỳ hình thức nào, do lựa chọn hoặc sắp xếp nội dung của chúng, tạo thành những sáng tạo trí tuệ. (Trong trường hợp cơ sở dữ liệu không cấu thành sự sáng tạo như vậy, thì cơ sở dữ liệu đó nằm ngoài phạm vi của Hiệp ước này.)

Đối với các quyền cấp cho tác giả , ngoài các quyền được Công ước Berne công nhận, Hiệp ước còn trao: (i) quyền phân phối; (ii) quyền cho thuê; và (iii) quyền truyền thông rộng rãi hơn cho công chúng.

Đối với các giới hạn và ngoại lệ , Điều 10 của WCT kết hợp cái gọi là kiểm tra “ba bước” để xác định các giới hạn và ngoại lệ, như được quy định tại Điều 9 (2) của Công ước Berne, mở rộng áp dụng của nó cho tất cả các quyền. Tuyên bố Đồng ý kèm theo WCT quy định rằng các giới hạn và ngoại lệ như được thiết lập trong luật quốc gia tuân thủ Công ước Berne, có thể được mở rộng sang môi trường kỹ thuật số. Các Quốc gia thành viên có thể đưa ra các ngoại lệ và giới hạn mới phù hợp với môi trường kỹ thuật số. Việc gia hạn hiện tại hoặc tạo ra các giới hạn và ngoại lệ mới được cho phép nếu các điều kiện của thử nghiệm “ba bước” được đáp ứng.

Về thời hạn , thời hạn bảo hộ phải từ 50 năm trở lên đối với bất kỳ loại công trình nào.

Việc hưởng và thực hiện các quyền được quy định trong Hiệp ước không được tuân theo bất kỳ hình thức nào.

Hiệp ước bắt buộc các Bên ký kết cung cấp các biện pháp pháp lý chống lại việc gian lận các biện pháp công nghệ (ví dụ: mã hóa) được các tác giả sử dụng liên quan đến việc thực hiện các quyền của họ và chống lại việc xóa bỏ hoặc thay đổi thông tin, chẳng hạn như một số dữ liệu xác định các tác phẩm hoặc tác giả, cần thiết cho việc quản lý (ví dụ: cấp phép, thu thập và phân phối tiền bản quyền) quyền của họ (“thông tin quản lý quyền”).

Hiệp ước buộc mỗi Bên ký kết phải thông qua, phù hợp với hệ thống pháp luật của mình, các biện pháp cần thiết để đảm bảo việc áp dụng Hiệp ước. Đặc biệt, mỗi Bên ký kết phải đảm bảo rằng các thủ tục thực thi có sẵn theo luật của mình để cho phép hành động hiệu quả chống lại bất kỳ hành động vi phạm các quyền được quy định trong Hiệp ước. Hành động đó phải bao gồm các biện pháp khắc phục nhanh chóng để ngăn chặn vi phạm cũng như các biện pháp ngăn chặn vi phạm tiếp theo.

Hiệp ước thành lập một Hội đồng các Bên ký kết có nhiệm vụ chính là giải quyết các vấn đề liên quan đến việc duy trì và phát triển Hiệp ước. Nó giao cho Ban thư ký của WIPO các nhiệm vụ hành chính liên quan đến Hiệp ước.

Hiệp ước được ký kết vào năm 1996 và có hiệu lực vào năm 2002.

Hiệp ước dành cho các Quốc gia thành viên của WIPO và Cộng đồng Châu Âu. Hội đồng do Hiệp ước thành lập có thể quyết định kết nạp các tổ chức liên chính phủ khác trở thành thành viên của Hiệp ước. Các văn bản phê chuẩn hoặc gia nhập phải được gửi cho Tổng giám đốc của WIPO.

 

3. Hãy nêu các tác phẩm được bảo hộ theo Hiệp ước Bản quyền WIPO (WCT) (1996)

Các tác phẩm được bảo hộ gồm: Các tác phẩm văn học và nghệ thuận; yêu cầu hợp lý của việc ghi lại; các tác phẩm phái sinh; văn bản chính thức; biên soạn; nghĩa vụ để bảo hộ; các lợi ích của việc bảo hộ; tác phẩm nghệ thuật ứng dụng và kiểu dáng công nghiệp; tin tức. 

Theo đó:

Thuật ngữ “Các tác phẩm văn học và nghệ thuật” phải bao gồm mọi sản phẩm trong lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật, bất kể chúng ở dưới dạng hay hình thức thể hiện nào, chẳng hạn như sách, sách nhỏ và các tác phẩm viết khác; bài giảng, bài phát biểu, bài thuyết giáo và các tác phẩm khác có cùng bản chất; các tác phẩm kịch hoặc nhạc kịch; các tác phẩm nghệ thuật múa và kịch câm; bản nhạc có lời hay không lời; các tác phẩm điện ảnh mà chúng được đồng hoá bằng các tác phẩm được thể hiện bằng phương pháp tương tự như điện ảnh; tác phẩm đồ họa, sơn dầu, kiến trúc, chạm trổ, điêu khắc, tranh khắc bản; các tác phẩm nhiếp ảnh được đồng hoá bằng các tác phẩm được thể hiện bằng phương pháp tương tự như nhiếp ảnh; các tác phẩm nghệ thuật ứng dụng; các tác phẩm minh họa, địa đồ, bản thiết kế, bản phác họa và các tác phẩm ba chiều liên quan đến địa lý, địa hình, kiến trúc hay khoa học.

Tuy nhiên, luật pháp các Bên ký kết Liên hiệp có thẩm quyền quy định rằng các tác phẩm nói chung hoặc bất kỳ các loại hình tác phẩm cụ thể nào không được bảo hộ trừ khi chúng đã được ghi lại dưới một số dạng vật chất nhất định.

Các tác phẩm dịch, cải biên, cải biên âm nhạc và các chuyển thể khác từ một tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật phải được bảo hộ như các tác phẩm gốc mà không được phương hại đến quyền tác giả của tác phẩm gốc.

Luật pháp các Bên ký kết Liên hiệp có thẩm quyền xác định việc bảo hộ được thừa nhận đối với các văn bản chính thức về lập pháp, hành pháp hoặc tư pháp và bản dịch chính thức của các văn bản đó.

Việc biên soạn các tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật bằng cách lựa chọn và sắp xếp nội dung của chúng, chẳng hạn như bộ bách khoa toàn thư và tuyển tập mà chúng tạo thành các sáng tạo trí tuệ phải được bảo hộ như là một tác phẩm nhưng không được phương hại đến quyền tác giả trong từng tác phẩm đã tạo thành từng phần của việc biên soạn đó.

Các tác phẩm nói trong Điều luật của công ước này phải hưởng sự bảo hộ ở tất cả các Bên ký kết Liên hiệp. Việc bảo hộ này phải được thực hiện vì lợi ích của tác giả và người thừa kế quyền tác giả.

Tuỳ thuộc vào các quy định của Điều 7 (4), luật pháp các Bên ký kết Liên hiệp có thẩm quyền xác định việc áp dụng mở rộng việc áp dụng pháp luật nước mình cho các tác phẩm nghệ thuật ứng dụng, thiết kế và kiểu dáng công nghiệp cũng như các điều kiện áp dụng cho tác phẩm này, thiết kế và kiểu dáng phải được bảo hộ. Các tác phẩm được bảo hộ ở quốc gia gốc chỉ như là thiết kế và kiểu dáng chỉ được quyền bảo hộ trong các nước thuộc liên hiệp khác đối với việc bảo hộ đặc biệt như là được thừa nhận ở quốc gia đó bảo hộ các thiết kế và kiểu dáng; tuy nhiên, nếu không có sự bảo hộ đặc biệt như vậy được thừa nhận ở quốc gia đó, thì các tác phẩm này phải được bảo hộ như tác phẩm nghệ thuật.

Việc bảo hộ của Công ước này không áp dụng cho các tin tức thời sự hàng ngày hoặc tin tức xã hội chỉ có tính chất đưa tin trên báo chí.

 

4. Giới hạn hợp lý việc bảo hộ tác phẩm cụ thể trong Hiệp ước Bản quyền WIPO (WCT) (1996)

Cơ sở pháp lý: Điều 2 (Bis) Hiệp ước Bản quyền WIPO (WCT) (1996)

Theo đó: Giới hạn hợp lý việc bảo hộ tác phẩm cụ thể về: bài diễn văn; sủ dụng bài giảng, bài diễn thuyết; quyền biên sạn các tác phẩm.

Luật pháp các Bên ký kết Liên hiệp có thẩm quyền loại trừ việc bảo hộ được quy định bởi Điều Khoản nói trên toàn bộ hoặc một phần bài diễn văn chính trị và những lời phát biểu trong các quá trình tố tụng của toà án.

Luật pháp các Bên ký kết Liên hiệp cũng có thẩm quyền xác định điều kiện theo đó các bài giảng, diễn thuyết và các tác phẩm khác có cùng bản chất mà chúng được phát biểu trước công chúng được đăng lại trên báo chí, phát thanh hoặc truyền đạt tới công chúng bằng vô tuyền và việc truyền bá công khai tới công chúng như được quy định tại Khoản 1 Điều 11 bis khi việc sử dụng này được giải thích bởi mục đích thông tin. Tuy nhiên, tác giả phải hưởng độc quyền thực hiện việc biên soạn các tác phẩm của họ mà chúng được đề cập ở Khoản trên.

 

5. Quyền được cấp áp dụng đối với những trường hợp nào? 

Cơ sở pháp lý: Điều 5 Hiệp ước Bản quyền WIPO (WCT) (1996).

Theo đó: 

Quyền được cấp đối với ngoài quốc gia gốc như sau:

Về tác phẩm được hưởng sự bảo hộ của Công ước này, tác giả được hưởng các quyền mà hiện nay và sau này luật pháp của các Bên ký kết của Liên hiệp dành cho công dân của nước đó ngoài quốc gia gốc tác phẩm, cũng như là được hưởng quyền riêng biệt của Công ước này.

Việc hưởng và thực hiện các quyền này không phải làm bất kỳ một thủ tục nào, không kể tác phẩm đó có được bảo hộ hay không bảo hộ ở quốc gia gốc của tác phẩm. Do đó, ngoài các điều Khoản của Công ước này, mức độ bảo hộ, cũng như phương pháp bổ cứu được đề ra nhằm bảo hộ quyền lợi của tác giả hoàn toàn do quy định luật pháp của quốc gia được yêu cầu bảo hộ.

Quyền được cấp tại quốc gia gốc:

Việc bảo hộ ở quốc gia gốc do luật pháp quốc gia đó quy định. Nếu tác giả không phải là công dân của quốc gia gốc, nhưng tác phẩm được Công ước bảo hộ, thì tác giả đó được hưởng các quyền giống như tác giả ở quốc gia đó.

Quyền được cấp tại quốc gia gốc

– Quốc gia gốc được xem là:

Đối với tác phẩm được xuất bản lần đầu tiên ở một Bên ký kết Liên hiệp thì nước đó là quốc gia gốc; trường hợp các tác phẩm được xuất bản đồng thời ở một số Bên ký kết Liên hiệp mà thời hạn bảo hộ khác nhau, thì lấy quốc gia có thời hạn bảo hộ ngắn nhất làm quốc gia gốc;

Đối với tác phẩm được xuất bản đồng thời ở một nước không là Bên tham gia Liên hiệp và ở một nước là Bên tham gia Liên hiệp thì nước xuất bản sau là quốc gia gốc;

Đối với tác phẩm chưa xuất bản hoặc lần đầu tiên xuất bản ở nước không là Bên tham gia Liên hiệp và không đồng thời xuất bản ở Bên ký kết của Liên hiệp, thì quy định:

– Tác phẩm điện ảnh mà nhà sản xuất có trụ sở hoặc nơi thường trú ở một Bên ký kết Liên hiệp, thì lấy nước đó làm quốc gia gốc.

– Tác phẩm kiến trúc được xây dựng tại một nước là thành viên Liên hiệp hoặc tác phẩm nghệ thuật gắn với một toà nhà hay cấu trúc khác đặt tại một nước là thành viên Liên hiệp, thì lấy nước đó làm quốc gia gốc.

 

Trên đây là nội dung Luật LVN Group sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

Luật LVN Group (Sưu tầm và biên tập).