1. Mở đầu vấn đề Hiệp ước WIPO về Trình diễn và Ghi âm (WPPT)

Hiệp ước WIPO về Trình diễn và Ghi âm (WPPT) tiêu biểu cho sự cải tiến quan trọng trong lĩnh vực bảo hộ của người trình diễn và sản xuất ra chương trình ghi âm. Hiệp ước mới cho phép những người này được hưởng độc quyền về tái bản, phân phối, thuê và sẵn sàng đưa ra công chúng phần trình diễn và ghi âm. Họ còn có quyền được hưởng thù lao khi phát sóng truyền thông và trên mọi phương tiện thông tin khác cho công chúng vì mục đích thương mại đối với các chương trình ghi âm của mình. Hiệp ước WIPO về Trình diễn và Ghi âm (WPPT) còn đề ra những điều khoản tương tự như nêu tại hiệp ước Hiệp ước WIPO về bản quyền (WCT) về các biện pháp công nghệ trong hệ thống quản lý các quyền này và hiệu lực của chúng.

 

2. Giới thiệu Hiệp ước về Biểu diễn và Bản ghi âm của WIPO (WPPT) (1996)

Hiệp ước về Biểu diễn và Bản ghi âm của WIPO (WPPT) (1996) được ký kết vào năm 1996 và có hiệu lực vào năm 2002.

Hiệp ước về Biểu diễn và Bản ghi âm của WIPO (WPPT) (1996) dành cho các Quốc gia thành viên của WIPO và Cộng đồng Châu Âu. Hội đồng do Hiệp ước thành lập có thể quyết định kết nạp các tổ chức liên chính phủ khác trở thành thành viên của Hiệp ước. Các văn bản phê chuẩn hoặc gia nhập phải được gửi cho Tổng giám đốc của WIPO.

 

3. Tóm tắt nội dung Hiệp ước về Biểu diễn và Bản ghi âm của WIPO (WPPT) (1996)

Hiệp ước về Biểu diễn và Bản ghi âm của WIPO (WPPT) đề cập đến quyền của hai loại người thụ hưởng, đặc biệt trong môi trường kỹ thuật số: (i) người biểu diễn (diễn viên, ca sĩ, nhạc sĩ, v.v.); và (ii) nhà sản xuất bản ghi âm (cá nhân hoặc pháp nhân chủ động và chịu trách nhiệm về việc định hình âm thanh). Các quyền này được đề cập trong cùng một công cụ, bởi vì hầu hết các quyền mà Hiệp ước cấp cho người biểu diễn là các quyền liên quan đến các buổi biểu diễn cố định, thuần túy bằng âm thanh của họ (là chủ đề của bản ghi âm).

Đối với những người biểu diễn, Hiệp ước cấp cho người biểu diễn các quyền kinh tế đối với các buổi biểu diễn của họ được định hình trong bản ghi âm (không phải trong bản định hình nghe nhìn, chẳng hạn như hình ảnh chuyển động): (i) quyền sao chép; (ii) quyền phân phối; (iii) quyền cho thuê; và (iv) quyền cung cấp.

Đối với các buổi biểu diễn chưa được định hình (trực tiếp) , Hiệp ước cấp cho người biểu diễn: (i) quyền phát sóng (trừ trường hợp phát sóng lại); (ii) quyền truyền thông đến công chúng (trừ trường hợp buổi biểu diễn là buổi biểu diễn được phát sóng); và (iii) quyền định hình.

Hiệp ước cũng cấp cho người biểu diễn các quyền nhân thân , nghĩa là, quyền tuyên bố được xác định là người biểu diễn và quyền phản đối bất kỳ sự xuyên tạc, cắt xén hoặc sửa đổi nào khác có thể gây phương hại đến danh tiếng của người biểu diễn.

Đối với các nhà sản xuất bản ghi âm, Hiệp ước trao cho họ các quyền kinh tế đối với bản ghi âm của họ: (i) quyền sao chép; (ii) quyền phân phối; (iii) quyền cho thuê; và (iv) quyền cung cấp.

– Quyền sao chép là quyền cho phép sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm dưới bất kỳ hình thức hoặc cách thức nào.

– Quyền phân phối là quyền cho phép cung cấp cho công chúng bản gốc và bản sao của bản ghi âm thông qua việc bán hoặc chuyển giao quyền sở hữu khác.

– Quyền cho thuê là quyền cho phép công chúng cho thuê thương mại bản gốc và bản sao của bản ghi âm, như được xác định trong luật quốc gia của các Bên ký kết (ngoại trừ các nước, kể từ ngày 15 tháng 4 năm 1994, có hệ thống buộc trả thù lao công bằng cho việc cho thuê đó).

– Quyền cung cấp bản ghi âm là quyền cho phép cung cấp cho công chúng, bằng phương tiện hữu tuyến hoặc vô tuyến, một bản ghi âm theo cách mà các thành viên của công chúng có thể truy cập bản ghi âm từ một nơi và tại một thời điểm do họ lựa chọn. Đặc biệt, quyền này bao gồm việc cung cấp tính tương tác theo yêu cầu thông qua Internet.

Hiệp ước quy định rằng người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm có quyền được hưởng một khoản thù lao công bằng duy nhất cho việc sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, được xuất bản cho mục đích thương mại, phát sóng hoặc truyền thông cho công chúng. Tuy nhiên, bất kỳ Bên ký kết nào cũng có thể hạn chế hoặc – với điều kiện là Bên đó bảo lưu Hiệp ước – từ chối quyền này. Trong trường hợp và trong phạm vi bảo lưu của một Bên ký kết, các Bên ký kết khác được phép từ chối, đối với Bên ký kết bảo lưu, đối xử quốc gia (“có đi có lại”).

Đối với các giới hạn và ngoại lệ , Điều 16 của WPPT kết hợp cái gọi là kiểm tra “ba bước” để xác định các giới hạn và ngoại lệ, như được quy định tại Điều 9 (2) của Công ước Berne, mở rộng áp dụng của nó cho tất cả các quyền. Tuyên bố đồng ý kèm theo quy định rằng các giới hạn và ngoại lệ như vậy, như được thiết lập trong luật quốc gia tuân thủ Công ước Berne, có thể được mở rộng sang môi trường kỹ thuật số. Các Quốc gia thành viên có thể đưa ra các ngoại lệ và giới hạn mới phù hợp với môi trường kỹ thuật số. Việc gia hạn hiện tại hoặc tạo ra các giới hạn và ngoại lệ mới được cho phép nếu các điều kiện của thử nghiệm “ba bước” được đáp ứng.

Việc hưởng và thực hiện các quyền được quy định trong Hiệp ước không được tuân theo bất kỳ hình thức nào.

Hiệp ước bắt buộc các Bên ký kết cung cấp các biện pháp pháp lý chống lại việc gian lận các biện pháp công nghệ (ví dụ: mã hóa) được sử dụng bởi những người biểu diễn hoặc nhà sản xuất bản ghi âm liên quan đến việc thực hiện các quyền của họ và chống lại việc xóa bỏ hoặc thay đổi thông tin – chẳng hạn như dấu hiệu của một số dữ liệu xác định người biểu diễn, buổi biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và bản thân bản ghi âm – cần thiết cho việc quản lý (ví dụ: cấp phép, thu thập và phân phối tiền bản quyền) các quyền nói trên (“thông tin quản lý quyền”).

Hiệp ước buộc mỗi Bên ký kết phải thông qua, phù hợp với hệ thống pháp luật của mình, các biện pháp cần thiết để đảm bảo việc áp dụng Hiệp ước. Đặc biệt, mỗi Bên ký kết phải đảm bảo rằng các thủ tục thực thi có sẵn theo luật của mình để cho phép hành động hiệu quả chống lại bất kỳ hành động vi phạm các quyền được quy định trong Hiệp ước. Hành động đó phải bao gồm các biện pháp khắc phục nhanh chóng để ngăn chặn vi phạm cũng như các biện pháp ngăn chặn vi phạm tiếp theo.

Hiệp ước thành lập một Hội đồng các Bên ký kết có nhiệm vụ chính là giải quyết các vấn đề liên quan đến việc duy trì và phát triển Hiệp ước. Nó giao cho Ban thư ký của WIPO các nhiệm vụ hành chính liên quan đến Hiệp ước.

 

4. Quyền tinh thần của người biểu diễn theo Hiệp ước WIPO về Trình diễn và Ghi âm (WPPT)

Cơ sở pháp lý: Điều 5 Hiệp ước về Biểu diễn và Bản ghi âm của WIPO (WPPT) (1996), theo đó: 

Quyền tinh thần của người biểu diễn sẽ:

– Độc lập với quyền kinh tế của người biểu diễn đối với các buổi biểu diễn nghe trực tiếp hoặc các buổi biểu diễn được định hình trong bản ghi âm, và thậm trí sau khi chuyển nhượng các quyền kinh tế đó, người biểu diễn có quyền yêu cầu được công nhận là người biểu diễn của buổi biểu diễn của mình, trừ trường hợp bỏ sót bắt buộc do cách thức sử dụng buổi biểu diễn gây ra, và quyền phản đối bất kỳ sự bóp méo, cắt xén hoặc các sửa đổi khác đối với buổi biểu diễn của người biểu diễn mà có thể phương hại đến thanh danh của họ.

– Các quyền dành cho người biểu diễn vừa nêu ở trên sẽ được duy trì sau khi tác giả chết, ít nhất cho đến hết thời hạn hưởng quyền kinh tế và có thể được thi hành bởi cá nhân hoặc tổ chức được phép theo luật pháp của Bên ký kết nơi có yêu cầu bảo hộ. Tuy nhiên, luật pháp của Các Bên ký kết nào, tại thời điểm phê chuẩn hoặc gia nhập Hiệp ước này không quy định sự bảo hộ tất cả các quyền nêu ở khoản trên sau khi người biểu diễn chết, thì Bên ký kết đó có thể quy định là một số quyền trên sẽ chấm dứt sau khi người biểu diễn chết.

– Các phương thức bồi hoàn dân sự nhằm đảm bảo các quyền được quy định theo Điều này do pháp luật của Bên ký kết nơi có yêu cầu bảo hộ điều chỉnh.

 

5. Các quyền của người biểu diễn theo Hiệp ước WIPO về Trình diễn và Ghi âm (WPPT)

Cơ sở pháp lý: Chương II Hiệp ước WIPO về Trình diễn và Ghi âm (WPPT)

Theo đó: các quyền  của người biểu diễn theo Hiệp ước WIPO về Trình diễn và Ghi âm (WPPT) bao gồm những quyền sau:

– Quyền tinh thần của người biểu diễn;

– Quyền kinh tế của người biểu diễn đối với các buổi biểu diễn chưa được định hình

Đối với các buổi biểu diễn của mình, người biểu diễn được độc quyền cho phép:

+ Phát sóng và truyền đạt tới công chúng buổi biểu diễn chưa được định hình của mình trừ khi buổi biểu diễn cũng chính là buổi biểu diễn phát sóng, và

+ Định hình buổi biểu diễn chưa được định hình của mình.

– Quyền sao chép

Người biểu diễn được độc quyền cho phép sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp buổi biểu diễn của mình đã được định hình trong bản ghi âm dưới bất kỳ hình thức hoặc cách thức nào.

– Quyền phân phối

Người biểu diễn được hưởng độc quyền cho phép cung cấp cho công chúng bản gốc hoặc bản sao buổi biểu diễn của mình đã được định hình trong bản ghi âm thông qua việc bán hoặc hình thức chuyển nhượng quyền sở hữu khác.

Không quy định nào trong Hiệp ước ảnh hưởng đến quyền tự do của Các Bên ký kết trong việc xác định các điều kiện, nếu có, theo đó việc chấm dứt quyền tại Khoản 1 điều 8 của Hiệp ước này áp dụng sau khi bán hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu lần thứ nhất bản gốc hoặc bản sao buổi biểu diễn đã được định hình với sự cho phép của người biểu diễn.

– Quyền cho thuê

Người biểu diễn được hưởng độc quyền cho phép cho thuê thương mại tới công chúng bản gốc và bản sao buổi biểu diễn của mình đã được định hình trong bản ghi âm như được xác định trong luật pháp quốc gia của các Bên ký kết, thậm chí sau khi phân phối chúng bởi hoặc theo sự cho phép của người biểu diễn.

Bất luận các quy định tại Khoản (1), Bên ký kết mà vào ngày 15/4/1998, đã có và tiếp tục áp dụng chế độ trả tiền thù lao thoả đáng cho người biểu diễn đối với việc cho thuê bản sao buổi biểu diễn của họ đã được định hình trong bản ghi âm, có thể duy trì chế độ đó với điều kiện là việc cho thuê thương mại bản ghi âm này không làm nẩy sinh sự phương hại về vật chất đối với độc quyền sao chép của người biểu diễn.

Quyền cung cấp các buổi biểu diễn đã được định hình

Người biểu diễn sẽ được hưởng quyền độc quyền cho phép cung cấp tới công chúng các buổi biểu diễn của mình đã được định hình trong bản ghi âm bằng các phương tiện hữu tuyến hoặc vô tuyến, theo cách thức mà Bên ký kết trong xã hội có thể tiếp cận chúng từ một địa điểm và vào thời gian do cá nhân họ lựa chọn.

 

Trên đây là nội dung Luật LVN Group sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

Luật LVN Group (Sưu tầm và biên tập).