1. Mở đầu vấn đề

Động lực thực sự để thay đổi đưa ra tháng Giêng năm 1989 khi ông Jacques Delors, Chủ tịch uỷ ban châu Âu, đề nghị thiết lập mối quan hệ mới, gắn bó hơn giữa các Nhà nước EFTA và EEC. Sau khi đàm phân mở rộng và tích cực, Hiệp định về Khu vực Kinh tế châu Âu (EEA) cuối cùng được ký kết tại Porto ngày 2.5.1992. Sau một thời gian chậm trễ trong quá trình phê chuẩn, do Thuy sĩ từ chối tham gia hiệp định này trong một cuộc trưng cầu dân ý tháng 12.1992, Hiệp định bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01.01.1994. Bao gồm 15 Nhà nước Thành viên của EU và 3 của EFTA (Iceland, Liechtenstein và Na Uy), EEA ngày nay tạo nên một thị trường thống nhất với dân số 370 triệu người và là một khu vực kinh tế hội nhập sâu rộng nhất thế giới.

– Các lĩnh vực ngoài 4 quyền tự do trên (ví dụ ngiên cứu và phát triển (R&D), dịch vụ thông tin, du lịch).

– Dựa trên các nguyên tắc đối.xử bình đẳng, không phân biệt và các điều kiện bình đẳng trong cạnh tranh.

Khu vực kinh tế Châu Âu (EEA ) được thành lập ngày 1.1.1994 tiếp theo một thỏa ước giữa các nước hội viên của Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu (European Free Trade Association, EFTA), Cộng đồng châu Âu (EC), và mọi nước thành viên của Liên minh châu Âu (EU). Nó cho phép các nước hội viên của Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu tham gia vào thị trường chung châu Âu mà không gia nhập Liên minh châu Âu.

EEA liên kết các quốc gia thành viên EU và ba quốc gia EFTA (Iceland, Liechtenstein và Na Uy) thành một nội bộ trường thị được điều chỉnh bởi các cơ bản quy tắc giống nhau. Vương quốc Anh được hưởng lợi từ mối quan hệ này trong giai đoạn chuyển đổi / thực hiện theo kế hoạch của các hiệp ước. Những quy tắc này nhằm mục đích cho phép sự chuyển đổi của người dùng , hàng hóa, dịch vụ và vốn trong Thị trường chung Châu Âu , bao gồm các quyền tự chọn. Nơi cư trú ở bất kỳ quốc gia nào trong khu vực này. EEA được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1994 khi hiệp định EEA có hiệu lực. Các ký kết bên là EU, các quốc gia thành viên và Iceland, Liechtenstein, Na Uy và Vương quốc Anh.

=> Kết luận: Hiệp định Khu vực Kinh tế Châu Âu trong tiếng Anh là European Economic Area Agreement – EEA Agreement.

Hiệp định Khu vực Kinh tế Châu Âu (EEA) là một thỏa thuận được đưa ra vào năm 1992, nhằm đưa các quốc gia thành viên Liên minh Châu Âu (EU) và ba trong số các quốc gia của Hiệp hội Thương mại Tự do Châu Âu (EFTA) là Iceland, Liechtenstein và Na Uy vào một thị trường duy nhất.

Mục đích của thỏa thuận này là để tăng cường mối quan hệ kinh tế thương mại giữa các quốc gia bằng cách xóa bỏ các rào cản thương mại và áp dụng các điều kiện cạnh tranh bình đẳng và tuân thủ các qui tắc tương tự.

2. Hệ thống luật pháp và thể chế của EEA

Sau khi đàm phân mở rộng và tích cực, Hiệp định về Khu vực Kinh tế châu Âu (EEA) cuối cùng được ký kết tại Porto ngày 2.5.1992. Sau một thời gian chậm trễ trong quá trình phê chuẩn, do Thuy sĩ từ chối tham gia hiệp định này trong một cuộc trưng cầu dân ý tháng 12.1992, Hiệp định bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01.01.1994. Bao gồm 15 Nhà nước Thành viên của EU và 3 của EFTA (Iceland,Liechtensteinvà Na Uy), EEA ngày nay tạo nên một thị trường thống nhất với dân số 370 triệu người và là một khu vực kinh tế hội nhập sâu rộng nhất thế giới

EEA có hệ thống luật pháp và thể chế riêng dựa trên quan điểm hai trụ cột chính: EU và EFTA, mỗi trụ cột vẫn duy trì quyết định tự trị của mình, về nội dung, EEA bao hàm việc chuyển dịch tự do của hàng hoá, dịch vụ, vốn và nhân lực (4 quyền tự do), các biện pháp liên quan ngang và cấc chính sách hỗ trợ (kể cả nghiên cứu và phát triển, giáo dục, chính sách người tiêu dùng, chính sách môi trường và xã hội). Mặc dù vượt ra ngoài một hiệp định thưong mại truyền thống nhưng EEA không phải là một liên minh thuế quan và các Bên Ký kết vẫn duy trì chính sách thương maị riêng EEA cũng không bao gồm chính sách nông nghiệp hay chính sách thuỷ sản chung, hoặc các điều khoản về việc làm hài hoà thuế.

Theo EEA, các Nhà nước EFTA/EEA đã kế tục pháp luật hiện hành của EC, được gọi là “Cộng đồng đã có” trong các lĩnh vực của hiệp định. Trong lĩnh vực hàng hoá, phần lớn văn bản pháp lý bao gồm các quy định kỹ thuật đã làm hài hoà rộng rãi trong EEA. Việc mọi thành viên chấp nhận rằng các sản phẩm đã được kiểm nghiệm và phê chuẩn tại một Nhà nước Thành viên khác theo luật lệ của nước họ (nguyên tắc Cassis-de-Dijon) thì cũng được thiết kế mà không vướng những rào cản kỹ thuật đói vói thương mại.

Thương mại hàng hoá cũng được thuận lợi hơn thông qua các quy tắc xuất xứ giản lược và việc giảm bớt các thủ tục biên giới. Tự do hoá thương mại trong lĩnh vực nông sản và thuỷ sản đang được thực hiện trên cơ sở song phương, nhưng EEA bổ sung thêm một số quy tắc nữa. Những quy tắc về mua sắm công vốn không thành một bộ phận của hiệp định thương mại tự do giữa các nước thành viên riêng biệt của EFTA và EEC cũng được nêu ra, các nước EFTA/EEA đã kế tục các quy tắc và thủ tục EU về cạnh tranh và viện trợ Nhà nước.

3. Thể chế của EEA

Các thể chế của EEA bao gồm một uỷ ban chung, có trách nhiệm tiếp tục thực hiện hiệp định một cách cụ thể, và một Hội đồng là cơ quan chính trị cao nhất. Hội đồng EEA đánh giá toàn bộ chức năng hoạt động của hiệp định và đặt ra đường lối phát triển. Hội đồng cũng là diễn đàn đối thoại chính trị về chính sách đối ngoại giữa các nước EEA.

Nhằm giám sát việc áp dụng các quy tắc EEA đối với phía EFTA, một tổ chức mới là Cơ quan giảm sát EFTA (ESA) được thành lập tại Bruxell, với chức năng và quyền hạn tương tự như uỷ ban EC thục hiện việc giám sát các Nhà nước Thành viên. Một tổ chức mới nữa là Toà án EFTA (tại Luxembourg) được thành lập để bảo đảm việc kiểm tra về pháp lý các chức năng hoạt động thích ứng của hiệp định tại các Nhà nước EEA/EFTA, giống như Toà án Tư pháp châu Âu thuộc Cộng đồng.

Hiệp định EEA đề ra cho các Nhà nước tham gia EFTA một khuôn khổ thể chế để tham hình thành pháp luật của EU, bằng cách đó cho phép các nước tham gia vào thị trường nội địa EU cũng như vào một số các hoạt động liên quan khác, ví dụ giáo dục, nghiên cứu và phát triển, chính sách xã hội.

Thụy Sĩ tham gia các cuộc đàm phán song phương với EU với mục đích nâng cấp hiệp định mậu dịch tự do hiện nay và cho phép họ tham gia càng nhiều hơn nữa vào thị trường nội địa mà không phải trở thành bộ phận của các thoả thuận về thê chế điều hành EEA. Các cuộc đàm phấn kết thúc trong năm 1999 bằng việc ký kết 7 hiệp định theo các lĩnh vực.

4. Các nước tham gia Liên Minh EU

Austria, Belgium, Bulgaria, Croatia, Republic of Cyprus, Czech Republic, Denmark, Estonia, Finland, France, Germany, Greece, Hungary, Ireland, Italy, Latvia, Lithuania, Luxembourg, Malta, Netherlands, Poland, Portugal, Romania, Slovakia, Slovenia, Spain và Sweden.

Các quốc gia EEA bao gồm các quốc gia EU kể trên và bao gồm cả Iceland, Liechtenstein và Na Uy. Điều này cho phép họ trở thành một phần của thị trường duy nhất của EU.

Thụy Sĩ không phải là thành viên EU hay EEA nhưng là một phần của thị trường đơn lẻ. Điều này có nghĩa là công dân Thụy Sĩ có quyền sống và làm việc ở Vương quốc Anh như các công dân EEA khác.

Thỏa thuận EEA yêu cầu tuân thủ các quy định của Liên minh châu Âu (EU) gồm bốn quyền tự do: quyền tự do di chuyển hàng hóa, dịch vụ, con người và vốn, trên phạm vi toàn bộ các quốc gia thành viên.

Về đặc điểm của EEA, EEA cũng yêu cầu sự hợp tác trong các lĩnh vực khác như nghiên cứu và phát triển, giáo dục, chính sách xã hội, môi trường, bảo vệ người tiêu dùng, văn hóa du lịch giữa các thành viên, được gọi chung là các “chính sách mạn sườn và bề ngang” (“flanking and horizontal” policies).

Thỏa thuận EEA không yêu cầu tuân thủ các chính sách về nông nghiệp – thủy hải sản chung của EU (mặc dù thỏa thuận có các qui định về các khía cạnh khác nhau của thương mại nông sản và cá), liên minh thuế quan, chính sách thương mại chung, chính sách đối ngoại và an ninh chung, công lí, nội vụ hay các chính sách của Liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu (EMU).

Ngoài ra, 3 quốc gia EFTA tham gia vào Thỏa thuận EEA không phải là thành viên của Liên minh châu Âu (EU).

5. Thỏa thuận EEA và Liên minh châu Âu (EU)

Mặc dù đối với hai khái niệm trên có liên quan chặt chẽ với nhau nhưng giữa EEA và EU về bản chất không giống nhau.

– Thỏa thuận EEA liên quan đến việc tạo ra một thị trường duy nhất và ban hành các luật lệ cần thiết liên quan đến nó. – Liên minh châu Âu (EU) là một tập hợp cả về kinh tế và chính trị.

Tất cả các qui định mà các quốc gia EEA phải tuân thủ được hình thành dựa trên các qui định của Liên minh châu Âu (EU). Hay có nghĩa là các nước EEA / EFTA không thực sự có tiếng nói trong quá trình xây dựng các luật lệ mà các thành viên phải tuân theo.

Các nước EEA cũng phải đóng góp tài chính cho Liên minh châu Âu (EU), khoản yêu cầu đóng góp của các nước này thường nhỏ hơn so với các thành viên EU.

Tiếp theo việc kết thúc các cuộc đàm phán về EEA trong năm 1992, bốn nước EFTA gồm áo, Phần Lan, Thuy Điển và Na Uy đã bày tỏ quyết tâm chính trị đối với việc tham gia đầy đủ vào EU theo các điều kiện kinh tế và chính trị. Các cuộc đàm phấn để gia nhập tô chức này có thuận lợi bởi thực tế là Hiệp định EEA đã đáp ứng đa số các yêu cầu về hài hoà hoá pháp luật cần thiết. Trong cuộc họp của Hội đồng châu Âu tại Corfu tháng 6 năm 1994, Áo, Phần Lan, Na Uy và Thuy Điển ký Điều ước gia nhập EU, và chỉ sau 18 tháng đàm phán, Áo, Phần Lan và Thuy Điển đã trở thành thành viên của EU vào ngày 1.1.1995, trong khi đó, Na Uy từ chối làm thành viên trong một cuộc trưng cầu ý dân cuối năm 1994.

Trên đây là nội dung Luật LVN Group sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!