Luật sư tư vấn:

 

1. Điều chỉnh bằng pháp luật quan hệ hợp đồng cho vay là gì ?

Điều chỉnh bằng pháp luật quan hệ hợp đồng cho vay là những biện pháp, cách thức pháp luật tác động đến quá trình giao kết, thực hiện và chấm dứt hợp đồng cho vay. Mục tiêu điều chỉnh pháp luật hợp đồng cho vay là để các quan hệ này hình thành và phát triển theo định hướng nhất định, bảo đảm yếu tố bình đẳng, quyền tự định đoạt giữa các chủ thể khi tham gia.

 

2. Điều chỉnh bằng pháp luật đối với quan hệ hợp đồng cho vay

Quan hệ hợp đồng cho vay có nguồn gốc và quá trình phát triển lịch sử lâu dài, làm phát sinh nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật phù hợp với khuôn khổ, ý chí của Nhà nước, phục vụ lợi ích chung của xã hội. Các tập quán, chuẩn mực đạo đức kinh doanh tín dụng không thể thay thế cho các quy phạm pháp luật để điều chỉnh có hiệu quả quan hệ này (vì không bảo đảm tính cưỡng chế và củng cố, duy trì trật tự hợp đồng).

Với tư cách là kiến trúc thượng tầng, pháp luật nói chung và pháp luật về hợp đồng cho vay nói riêng phải thích ứng với hạ tầng kinh tế, các yêu cầu trong hoạt động quản lý thị trường tài chính, tiền tệ. Trên cơ sở nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, yêu cầu điều chỉnh bằng pháp luật về hợp đồng cho vay phải xuất phát từ các nguyên tắc như sau: Các tổ chức tín dụng “với tư cách là các pháp nhân kinh tế” (khi chuyển đổi mô hình kinh tế thị trường, hoạt động ngân hàng được xem như các đơn vị kinh tế có tư cách pháp nhân), khi ký kết hợp đồng cho vay, dù dưới góc độ nào cũng đều hướng đến mục tiêu lợi ích kinh tế. Bất kỳ ai, tổ chức nào có thể áp đặt các tổ chức tín dụng cho một đối tượng nào đó vay không có lãi hoặc vay với lãi suất thấp so với lãi suất cho vay của thị trường.

Tương tự như vậy, trong quan hệ với các đối tác (bên vay), các yêu cầu về an toàn khi cho vay theo các chủ trương, chính sách của Nhà nước đặt ra, theo tác giả cần cơ chế pháp lý dung hòa giữa lợi ích hợp đồng với lợi ích công cộng, bảo đảm quyền lợi vật chất chính đáng giữa các chủ thể hợp đồng và từng nhóm đối tượng vay.

Như vậy, điều chỉnh bằng pháp luật đối với quan hệ hợp đồng cho vay là nhu cầu tất yếu khách quan, về nguyên tắc, những điều chỉnh này phải đáp ứng nhu cầu vận động, thay đổi của nền kinh tế trong từng bôi cảnh nhất định, nhu cầu quản lý của Nhà nước đối với giao dịch cho vay, nhu cầu tự thân của chính các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp, cá nhân.

 

3. Tôn trọng quyền tự thỏa thuận, định đoạt khi điều chỉnh quan hệ cho vay

Điều chỉnh bằng pháp luật quan hệ hợp đồng cho vay nhưng luôn tôn trọng quyền tự do thỏa thuận, tự định đoạt và tự chịu trách nhiệm của các bên. Xuất phát từ quyền tự do ý chí khi giao kết hợp đồng, khái niệm về hợp đồng quy định tại Điều 385 Bộ luật Dân sự năm 2015 theo nghĩa: “là sự thỏa thuận giữa các bên”…

Nguyên tắc các bên tự do thỏa thuận hợp đồng nhưng không trái pháp luật. Với các quy định bắt buộc, biên độ, tỷ lệ cho phép thỏa thuận, phạm vi áp dụng quy định nội bộ, giới hạn điều kiện thỏa thuận hợp đồng,… Việc xác định nội dung thỏa thuận hợp pháp không phải là dễ dàng, kể cả đối với các cơ quan tài phán khi giải quyết tranh chấp.

Ví dụ: Điều 13 Hợp đồng tín dụng số 6010/HĐTD ngày 10/9/2010, ký kết giữa Ngân hàng thương mại cổ phần CTVN (Chi nhánh PY) với Doanh nghiệp tư nhân sản xuất thương mại PH, có ghi như sau:

“… mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng hoặc có liên quan đến hợp đồng sẽ được đưa ra giải quyết tại Tòa kinh tế… hoặc đưa ra giải quyết tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam”.

Điều khoản tài phán cho phép các bên được lựa chọn cơ quan tòa án hoặc trọng tài giải quyết tranh chấp. Song, khi lựa chọn tố tụng trọng tài, hợp đồng vay bắt buộc phải ghi rõ tên của tổ chức trọng tài kèm theo điều khoản mẫu của tổ chức trọng tài đó, phù hợp điều kiện thụ lý giải quyết vụ án (Điều 5 Luật Trọng tài thương mại năm 2010). Trong khi đó, điều khoản có nội dung “giải quyết tại tòa kinh tế…” thiết nghĩa là không đúng pháp luật (Tòa án cấp quận huyện xét xử tại thời điểm đó không có các tòa chuyên trách – Tòa kinh tế). Vì vậy, nội dung thỏa thuận: “giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài…”, tồn tại bên cạnh các quy định cho phép lựa chọn Tòa án là chưa phù hợp, vì các bên chỉ được phép lựa chọn một cơ quan tài phán duy nhất để xét xử. Nếu không đáp ứng các điều kiện này, thỏa thuận trên sẽ gây khó khăn trong việc xác định thẩm quyền của cơ quan giải quyết vụ án, khi có tranh chấp xảy ra.

Tóm lại, đề cập, phân tích các điều khoản của hợp đồng theo tác giả, cần làm rõ phạm vi của thỏa thuận hợp pháp từ đó xác định giới hạn trong các thỏa thuận. Về lâu dài, để cụ thể hóa, hướng đến áp dụng thống nhất vấn đề này, các nhà làm luật cần quan tâm bằng các giải pháp, điều kiện áp dụng, thể hiện tính hệ thống, chỉ dẫn cụ thể, thay vì quy định rải rác như hiện nay, gây không ít khó khăn khi thực thi.

 

4. Cơ chế điều chỉnh bằng pháp luật đối với quan hệ hợp đồng cho vay

Điều chỉnh bằng pháp luật đối với quan hệ hợp đồng cho vay dựa trên cơ sở tôn trọng sự thỏa thuận thống nhất giữa các chủ thể, không trái quy định của pháp luật. Trong lĩnh vực ngân hàng, các bên được phép thỏa thuận cách thức xử lý tài sản bảo đảm, lãi suất cho vay, các biện pháp chế tài vi phạm hợp đồng, quy trình xử lý nợ, nơi giải quyết tranh chấp,… Trong từng thỏa thuận này, với bản chất là những hợp đồng do bên có thế mạnh (ngân hàng) chủ động soạn thảo, chỉ những thỏa thuận đúng pháp luật mới có hiệu lực thực thi. Đối với những thỏa thuận không rõ ràng, bất lợi cho bên vay, pháp luật cần can thiệp, điều chỉnh cho phù hợp.

Nhà nước can thiệp vào các quan hệ tín dụng, không chỉ để bảo đảm quyền lợi cho riêng chủ thể nào mà nhằm cân bằng quyền lợi hợp đồng. Trong nhiều quy định của pháp luật về hợp đồng cho vay, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể hợp đồng không được thể hiện rõ nét, chưa cân xứng. Điều này làm cho vị trí của các bên trong hợp đồng cũng như trong quan hệ tố tụng (khi tham gia giải quyết tranh chấp) thiếu công bằng. Dễ dàng nhận thấy trong giao dịch mua bán nợ, chuyển nhượng hợp đồng cho vay,… luôn bị chi phối bằng các điều kiện của pháp luật, trách nhiệm đối với bên cho vay (bên bán nợ) vẫn thường trực, cho dù khoản nợ đã được chuyển nhượng hợp pháp. Bên cạnh đó, đề cao nguyên tắc thỏa thuận hợp đồng trong một số trường hợp theo tác giả là không phù hợp vì về bản chất, hợp đồng cho vay do tổ chức tín dụng chủ động phát hành, luôn ẩn chứa nhiều điều khoản bất lợi cho bên vay.

Tóm lại, điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ hợp đồng cho vay ngoài các nguyên tắc, quy phạm được luật định, các bên phải thỏa thuận bày tỏ ý chí của mình vào hợp đồng, làm căn cứ để thực hiện và giải quyết tranh chấp. Những thỏa thuận trái pháp luật, không bảo đảm quyền lợi hợp pháp, không chính đáng phải bị hủy bỏ. Đây cũng là cơ sở để các bên trong hợp đồng, các cơ quan nhà nước xác định phạm vi của những thỏa thuận hợp pháp để thực thi.

 

5. Điều chỉnh bằng pháp luật đối với quan hệ hợp đồng cho vay tiêu dùng

Pháp luật ngân hàng các nước trên thế giới đều đề cập hoạt động cho vay tiêu dùng dưới góc độ quan hệ dân sự. Điều này dựa vào đặc điểm bên đi vay chiếm số đông là bên yếu thế và mục đích sử dụng khoản vay sinh hoạt, cá nhân, không phân biệt chủ thể đi vay là cá nhân hay tổ chức:

–    Pháp luật một số nước theo hệ thống luật thành văn (Statutory law): Các quy định về hợp đồng cho vay tiêu dùng chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự: Tại Đức, vấn đề này được đề cập tại Mục 491 Chương 2 Bộ luật Dân sự Đức;

Tại Thái Lan, Chương II Bộ luật Thương mại và Dân sự Thái Lan (Xem tài liệu: Bộ luật Thương mại và Dân sự Thái Lan); Tại Pháp, cho vay tiêu dùng cũng được xem là một dạng giao dịch dân sự, cụ thể tại Thiên X Chương II, từ Điều 1892 đến Điều 1914 Bộ luật Dân sự Pháp.

–    Pháp luật một số nước theo hệ thống thông luật (common law): Các quy định về hợp đồng cho vay tiêu dùng được ghi nhận phổ biến trong các phán quyết Tòa án, được các chuyên gia luật tập hợp dưới các đạo luật về tín dụng tiêu dùng.

Tại Anh: Cho vay tiêu dùng được điều chỉnh bởi Đạo luật cho vay tiêu dùng (Consumer Credit Act) năm 1974, sửa đổi năm 2006. Theo Điều 1 Đạo luật, hợp đồng cho vay tiêu dùng áp dụng cho các cá nhân và tổ chức vay vốn dưối 25.000 bảng Anh (ban đầu là 5.000 bảng Anh, sau đó định mức này tăng lên 15.000 bảng Anh vào năm 1985 và 25.000 bảng Anh vào năm 1998). Bằng cách định lượng một khoản tiền cụ thể để xác định quan hệ cho vay tiêu dùng, quy định khó nhầm lẫn khi áp dụng, thay vì chỉ dựa vào mục đích (nhu cầu vay) như cách phân loại thường thấy trong quan hệ hợp đồng ở các nước theo hệ thống luật thành văn.

Theo quy định này thì:

“mục đích của đạo luật này là để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng – bao gồm những cá nhân, đối tác và những cơ quan chưa hợp nhất đối với những loại giao dịch liên quan đến số tiền không quá 25.000 bảng Anh”;

Tại Singapore: Khái niệm cho vay tiêu dùng được hiểu theo nghĩa rộng hơn, đó là những khoản vay tài chính của cá nhân nhằm mục đích tiêu dùng. Bên cho vay tiêu dùng bao gồm cả các ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm…;

Tại Hoa Kỳ: Cho vay tiêu dùng được định nghĩa là khoản vay dành cho các mục đích của cá nhân, gia đình, hộ gia đình. Để bảo vệ lợi ích người vay, các cơ quan có thẩm quyền phải cung cấp thông tin nhu cầu tiêu dùng chính xác, đồng thời có trách nhiệm giải quyết tranh chấp tín dụng tiêu dùng.

Pháp luật Việt Nam có những điểm tương đồng với các nước, vì cùng xem cho vay tiêu dùng là một dạng quan hệ hợp đồng dân sự vốn dĩ không bình đẳng đối với bên vay.

Trong đó, bên cho vay là bên mạnh thế, chi phối bằng các quyền lợi trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng, đòi hỏi phải có cơ chế pháp lý đặc thù để điều chỉnh quan hệ hợp đồng vay luôn trong trạng thái thiếu bình đẳng này. Tranh chấp hợp đồng cho vay tiêu dùng, bên cạnh các quy định của pháp luật chuyên ngành ngân hàng, đương nhiên phải vận dụng pháp luật dân sự giải quyết (kể cả vận dụng thủ tục tố tụng đối với án dân sự), khi đó mới đáp ứng được các yêu cầu áp dụng luật đầy đủ, chính xác.

Các quy định điều chỉnh quan hệ cho vay tiêu dùng vẫn dựa trên đặc điểm, đối tượng vay. Tùy từng tổ chức tín dụng, các quy định còn phân định phạm vi, mức độ cho phép thực hiện các hoạt động vay tiêu dùng, áp dụng các biện pháp an toàn, dự phòng rủi ro cho vay hợp lý. Phạm vi quan hệ tín dụng tiêu dùng được định nghĩa khá rộng, áp dụng cả trong và ngoài ngân hàng, cũng như tại các tổ chức tín dụng, song, các nghiên cứu tại Việt Nam hiện nay phần lớn tập trung vào hoạt động này tại các ngân hàng thương mại và công ty tài chính chiếm thị phần đáng kể trong hoạt động cho vay tiêu dùng. Với bản chất là quan hệ giữa bên mạnh thế và bên yếu thế, quy định điều chỉnh cho vay tiêu dùng vẫn phải phát triển theo hướng đơn giản hóa thủ tục, gắn việc quản lý khoản vay, minh bạch thông tin về lãi suất, phí, phương thức đòi nợ vay,… nhằm bảo vệ các quyền lợi chính đáng của người vay.

Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, (Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng sửa đổi năm 2018) không điều chỉnh các quan hệ tín dụng tiêu dùng. Quy định này tập trung trong luật chuyên ngành ngân hàng và các ngành luật liên quan, trọng tâm vẫn là quy định của luật dân sự và luật thương mại. Nếu như các quy định chung của luật dân sự sẽ bảo vệ quyền lợi bình đẳng cho bên vay thì trong lĩnh vực thương mại, chính sách liên kết tín dụng thương mại của ngân hàng với các chủ thể thương mại gần như bỏ ngỏ đẩy rủi ro về phía người vay, đồng thời là người tiêu dùng. Những vấn đề này cần có các nghiên cứu cụ thể, quy định trong luật để bảo vệ người vay tiêu dùng thoát khỏi những rủi ro có thể xảy ra.

Về phương diện lý luận, các luận điểm trong khoa học ngân hàng thường đề cập cho vay tiêu dùng có đặc điểm chuyên biệt như sau:

“Lãi suất cho vay tiêu dùng cao hơn lãi suất đối với hầu hết các khoản vay khác do quy mô nhỏ và rủi ro lớn… Nguyên văn: “interest rates on consumer loans are higher than are those on most other bank loans because of theừ small size and the risk involed…”.

Xuất phát từ những đặc thù của cho vay tiêu dùng có rủi ro cao, cộng thêm chi phí tôn kém khi cho vay, áp lực khi đòi nợ, nên chức năng cho vay tiêu dùng đòi hỏi ngân hàng đó phải có năng lực quản lý, tài chính nhất định. Không thể vì lý do cho vay tiêu dùng nhiều rủi ro, tốh kém, nên pháp luật phân biệt chủ thể cho vay trái với bản chất cho vay tiêu dùng, hoặc bên cho vay đơn phương tự đặt ra các điều khoản hợp đồng mang tính áp đặt, lãi suất cao hơn nhiều lần so với các khoản vay có mục đích khác, trong cùng kỳ hạn vay…

Cho vay tiêu dùng được phân bổ nhằm đa dạng hóa hoạt động cấp tín dụng, tối đa lợi nhuận cho các tổ chức tín dụng. Đây là lĩnh vực nhiều tiềm năng do mức độ trách nhiệm cho vay thấp, có tác dụng kích cầu tăng trưỏng kinh tế (Theo thông kê, cho vay tiêu dùng phát triển ổn định trên thế giởi: Tại Hoa Kỳ, tăng trưởng tín dụng tiêu dùng từ năm 1950 đến năm 2018 đạt trung bình 4,70 tỷ USD đô la Mỹ, ở mức cao nhất vào tháng 12/2010 là 118,60 tỷ USD đô la Mỹ, tháng 01/2018 đạt 13,91 tỷ USD đô la Mỹ). Mặc dù vậy, các nghiên cứu trong khoa học pháp lý – ngân hàng thường khuyến cáo về những ảnh hưởng tiêu cực đối với người vay yếu thế, thiết nghĩ cần có những nghiên cứu, tiếp thu kinh nghiệm từ nước ngoài trong hoạt động lập pháp, hướng đến mục tiêu cân bằng quyền lợi của chủ thể vay trong quan hệ hợp đồng cho vay tiêu dùng:

Sự phát triển tín dụng tiêu dùng dễ dẫn đến tình trạng người tiêu dùng gánh chịu khoản nợ vượt quá khả năng chi trả (Nguyên văn: “there is a danger that heavy promotion of credit may lead consumers to take on more debt than they can realistically aííord”. Catheríne Elliott and Erances Quinn: Contract Law, Ibid), như thực tiễn xét xử tòa án nước ngoài từng đề cập. Chẳng hạn, phán quyết Vụ kiện số C-565/12 giữa Le Crédit Lyonnais SA với Fesih Kalhan (Tòa án quận Orléans – Pháp), đã tuyên bố như sau:

“… trước khi kết thúc hợp đồng tín dụng, các chủ nợ đánh giá mức độ tín nhiệm của người tiêu dùng trên cơ sở thông tin đầy đủ, thích hợp thu được từ người tiêu dùng”- Phán quyết vụ kiện số C-565/12 giữa Le Crédit Lyonnais SA với Fesih Kalhan.

Phán quyết này còn chỉ ra trách nhiệm của ngân hàng, bị phạt quyền được hưởng lãi suất theo hợp đồng đối với tổ chức tín dụng. Đây là phán quyết điển hình, thể hiện rõ nét trách nhiệm đánh giá năng lực khách hàng vay tiêu dùng, được bảo đảm thực hiện (đối với tổ chức tín dụng) bằng chế tài phạt về lãi suất mà lẽ ra tổ chức tín dụng đó được hưởng khi bên vay có vi phạm nghĩa vụ thanh toán.

ở trường hợp khác, các nhà làm luật đề cao bảo vệ quyền lợi của người vay dựa trên những quy định ràng buộc về nghĩa vụ của ngân hàng đối với hàng hóa, dịch vụ (có tài trợ cấp tín dụng) không đạt yêu cầu chất lượng. Quy định này xuất phát từ thực tế nhu cầu liên kết, chia sẻ lợi ích, rủi ro với bên cung ứng dịch vụ, hàng hóa thương mại, được đề cập như một án lệ khi giải quyết tranh chấp hợp đồng cho vay tiêu dùng ở các nước.

Ví dụ: Vụ kiện tranh chấp hợp đồng tín dụng tiêu dùng giữa ông Durkin với Công ty DSG Retail Limited, được giải quyết tại Tòa tối cao (Anh) như sau (Xem phụ lục (Vụ án thứ 9): Phán quyết của Tòa án tối cao Anh trong vụ kiện giữa ông Durkin (nguyên đơn) đối với Công ty DSG Retail Limited (bị đơn), năm 2014 về hợp đồng tín dụng tiêu dùng): Durkin (Nguyên đơn) mua 1 máy tính xách tay PC World ở Aberdeen giá 1499 £ (bảng) vào ngày 28/12/1998. Các bên ký thỏa thuận giữa chủ nợ, nhà cung cấp với Ngân hàng HFC để cho vay tài trợ mua hàng. Sau đó, ông Durkin từ chối nhận máy tính vì không phù hợp với tiêu chuẩn chất lượng theo hợp đồng. Ông yêu cầu hủy bỏ hợp đồng bán hàng và cả hủy bỏ hợp đồng tín dụng. Ngân hàng HFC truy thu ông Durkin 326,22 £ (bảng), trường hợp không thanh toán ông sẽ gặp những khó khăn nếu muôn có được một khoản tín dụng khác. Phán quyết tòa án sau đó cho phép ông Durkin hủy bỏ hợp đồng tín dụng với lý do:

“… khi con nợ không có quyền giữ lại hoặc sử dụng vốn vay cho các mục đích khác đối với giao dịch cụ thể, người vay cũng có thể hủy bỏ thỏa thuận tín dụng” – Nguyên văn: “As the debtor has no right to retain or use for other purposes funds lent for the specihc transaction, the creditor also may rescind the credit agreement.”. Nguồn: JUDGMENT Dur- kin (Appellant) V DSG Retail Limited and another (Respondents) (Scotland), 2014 (mục 26 phán quyết).

Theo tình huống pháp lý trên, quan điểm Tòa án khi xét xử, hợp đồng cấp tín dụng tiêu dùng có quan hệ pháp lý chặt chẽ, ràng buộc với hợp đồng mua bán hàng hóa. Trong trường hợp, hợp đồng mua hàng (người mua có sử dụng vốn vay) bị hủy bỏ do sai phạm của bên bán, hợp đồng tín dụng mặc nhiên cũng phải được chấm dứt thực hiện. Trách nhiệm pháp lý do lỗi của chất lượng hàng hóa, không đáp ứng các yêu cầu, quyền lợi của người mua hàng (người được cấp tín dụng) giữa bên bán hàng với ngân hàng tự giải quyết. Phán quyết đã gợi mở hướng nghiên cứu về trách nhiệm của tổ chức tín dụng khi liên kết với nhà sản xuất, cung ứng dịch vụ tiêu dùng thay vì trách nhiệm này thuộc về bên vay tiêu dùng (xuất phát từ quyền quyết định sử dụng vốn vay), đến nay vẫn chưa được các nghiên cứu tại Việt Nam đề cập – Vấn đề này được giải quyết bằng việc tiếp thu một số kinh nghiệm của nước ngoài, bổ sung một số quy định để bảo vệ quyền lợi bên vay khi vay vốn nhằm mục đích tiêu dùng.

Như vậy, từ một số kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài về cho vay tiêu dùng cho thấy các quan điểm trong khoa học pháp lý Việt Nam vẫn còn bỏ ngỏ, chưa đánh giá đúng mực quyền lợi của bên vay tiêu dùng để có những giải pháp cân bằng quyền lợi như đúng nghĩa trong quan hệ với các quy định của pháp luật liên quan (thương mại), cũng như trước sự phát triển mạnh mẽ của dịch vụ vay gắn với kinh tế hàng hóa tiêu dùng.

 

6. Áp dụng pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng cho vay

Hợp đồng cho vay là hình thức pháp lý của giao dịch cho vay tiền trong lĩnh vực ngân hàng, trước hết phải chịu sự điều chỉnh của luật và các văn bản dưới luật, được cụ thể hóa, quy định tập trung tại Thông tư số 39/2016/TT-NHNN, tương tự như các nước theo hệ thống luật thành văn. Mặt khác, do đặc thù của quan hệ cho vay vốn dĩ là một dạng quan hệ tài sản, nhiều rủi ro nên còn chịu sự điều chỉnh của nhiều quy định liên quan. Rải rác trong các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay (tổ chức tín dụng) đều đề cập hàm ý này. Chẳng hạn, khoản 1, Điều 94 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, trách nhiệm của các tổ chức tín dụng phải kiểm tra việc sử dụng vốn hợp pháp. Song, theo tác giả để xác định như thế nào là hành vi sử dụng vốn “hợp pháp” thì phải có sự đánh giá theo nghĩa rộng, trong sự liên hệ với nhiều quy định đan xen của nhiều ngành luật liên quan khác nhau khi đó mối làm sáng tỏ vấn đề. Tránh tình trạng cùng một vấn đề, cách tiếp cận về tính hợp pháp khác biệt, tạo ra những xung đột không cần thiết, hệ quả là các quyết định chấm dứt cho vay trái pháp luật, gây thiệt hại cho người vay.

Như vậy, quan hệ pháp luật về hợp đồng cho vay tự bản thân là chế định phức tạp, chịu sự tác động, điều chỉnh của nhiều ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

Khi đánh giá một vấn đề pháp lý của quan hệ này cần làm rõ phạm vi điều chỉnh và mức độ ưu tiên áp dụng luật để giải quyết theo đúng quy định. Trên lý thuyết, các quy định về hợp đồng cho vay phải do luật chuyên ngành tín dụng ngân hàng điều chỉnh, đồng thời cũng phải nghiên cứu áp dụng luật chung hay các quy định liên quan. Nguyên tắc này chỉ phát huy hiệu quả trong trường hợp pháp luật chuyên ngành ngân hàng hoàn thiện, kịp thời sửa đổi, bổ sung trước những thay đổi nhanh chóng của ngành ngân hàng. Nếu không đáp ứng yêu cầu này, khi đó pháp luật sẽ bị lạc hậu, làm nảy sinh những mâu thuẫn, chồng chéo, khó khăn khi thực thi.

Mọi vướng mắc pháp lý trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, hoạt động vay vốn, giải ngân vốn… Quý khác hàng vui lòng gọi: 1900.0191 để được Luật sư tư vấn pháp luật ngân hàng, tài chính trực tuyến qua tổng đài điện thoại. Đội ngũ Luật sư của LVN Group của Công ty luật LVN Group luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp mọi vướng mắc pháp lý trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.