Công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế nước ta đã mở ra một hiện thực hoạt động khác cho mọi loại hình doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp hoạt động đầu tư, kinh doanh BĐS. Hệ thống pháp luật đã có gần đủ các văn bản quy phạm pháp luật cho mọi hoạt động sản xuất, đầu tư, kinh doanh, trong đó có kinh doanh BĐS.

Nói đến BĐS, trước hết phải đề cập đến đất đai và nhà ở, bởi đây là hai loại BĐS chủ yếu và quan trọng nhất. Trong lĩnh vực đất đai, trước đây, do việc “xã hội hóa” đất đai một cách tuyệt đối: đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý (Điều 19 Hiến pháp 1980), nên pháp luật “đóng khung” quan hệ đất đai thông qua hành vi Nhà nước cấp đất (không thu tiền sử dụng đất) cho người dân và thu hồi đất khi họ không còn nhu cầu sử dụng. Các giao dịch về đất đai bị pháp luật nghiêm cấm. Điều 5 Luật Đất đai năm 1987 quy định “Nghiêm cấm việc mua, bán, lấn chiếm đất đai, phát canh thu tô dưới mọi hình thức, nhận đất được giao mà không sử dụng, sử dụng đất không đúng mục đích, tự tiện sử dụng đất nông nghiệp, đất có rừng vào mục đích khác, làm hủy hoại đất đai”. Còn trong lĩnh vực nhà ở, có hai hình thức sở hữu chủ yếu: sở hữu nhà nước và sở hữu của từng cá nhân. Trong thời kỳ này, giao dịch về BĐS là nhà ở chủ yếu là các giao dịch về thuê lại hoặc chuyển nhượng nhà ở thuộc sở hữu nhà nước; hay các giao dịch về mua bán nhà ở thuộc sở hữu tư nhân.

Nền kinh tế thị trường đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh BĐS phát triển. Để hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường, Nhà nước đã phải xây dựng đồng bộ và quản lý các thị trường mang tính “đầu vào” của quá trình sản xuất – kinh doanh, bao gồm: thị trường vốn, thị trường sức lao động, thị trường BĐS và thị trường khoa học – công nghệ. Đồng thời, Nhà nước xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật của nền kinh tế thị trường (trong đó có hệ thống pháp luật kinh doanh BĐS) nhằm điều chỉnh và định hướng các hoạt động của thị trường. Pháp luật kinh doanh BĐS được xây dựng, đánh dấu bằng sự ra đời của Luật Đất đai năm 1993 với những quy định rất mới như giao quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài; người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất trong thời hạn giao đất v.v.. Tiếp đó, một loạt các đạo luật khác liên quan đến lĩnh vực kinh doanh BĐS lần lượt được ban hành như: Luật Thuế chuyển quyền sử dụng đất năm 1994 (được sửa đổi, bổ sung năm 1999); Bộ luật Dân sự năm 1995 (được sửa đổi, bổ sung năm 2005); Luật Xây dựng năm 2003; Luật Đầu tư năm 2005; Luật Doanh nghiệp năm 2005; Luật Thương mại năm 2005; Luật về Nhà ở năm 2005; đặc biệt phải kể đến việc ra đời của Luật Kinh doanh BĐS năm 2006 (Luật KDBĐS) điều chỉnh trực tiếp hoạt động kinh doanh BĐS.

2. Pháp luật kinh doanh bất động sản dưới góc độ hoạt động đầu tư nước ngoài

Tìm hiểu các quy định về kinh doanh BĐS dưới góc độ hoạt động đầu tư nước ngoài, chúng ta có thể đưa ra một số bình luận chủ yếu sau đây:

1.1. Tính ưu việt của hệ thống pháp luật về kinh doanh BĐS

Hoạt động đầu tư kinh doanh BĐS nói chung và hoạt động đầu tư kinh doanh BĐS của các nhà đầu tư nước ngoài được pháp luật Việt Nam khuyến khích và bảo hộ; cụ thể: Nhà nước có chính sách khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực kinh doanh BĐS, chính sách này được ghi nhận rất rõ ràng tại Điều 12 Luật KDBĐS năm 2006; cơ chế pháp lý bình đẳng trong hoạt động kinh doanh BĐS được xác lập; mọi chủ thể đầu tư (không phân biệt đó là nhà đầu tư trong nước hay nhà đầu tư nước ngoài)1 đều được tham gia đầu tư kinh doanh BĐS (Điều 2 Luật KDBĐS); nhà đầu tư nước ngoài muốn tham gia hoạt động kinh doanh dịch vụ BĐS cũng phải đáp ứng điều kiện có chứng chỉ hành nghề và có giấy phép đăng ký kinh doanh dịch vụ kinh doanh BĐS như nhà đầu tư trong nước (Điều 8 Luật KDBĐS); đồng thời hoạt động của nhà đầu tư phải chịu sự quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; nguyên tắc hoạt động kinh doanh BĐS được quy định tại Điều 5 Luật KDBĐS năm 2006 được áp dụng cho mọi chủ thể kinh doanh BĐS…;

a) Nhà nước Việt Nam có chính sách ưu đãi cho các nhà đầu tư trong hoạt động kinh doanh BĐS; các chính sách ưu đãi này bao gồm: Nhà nước Việt Nam miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với diện tích đất xây dựng công trình có chuyển giao cho Nhà nước, công trình hạ tầng không kinh doanh, nhà chung cư phục vụ cho các đối tượng chính sách; Tổ chức tín dụng nhà nước cho vay ưu đãi đầu tư đối với các dự án xây dựng nhà ở để cho thuê, cho thuê mua, bán cho người có công, người nghèo, người có thu nhập thấp, sinh viên, công nhân làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất; Nhà nước khuyến khích và có chính sách hỗ trợ tổ chức, cá nhân kinh doanh BĐS đầu tư tạo lập quỹ nhà ở để bán trả chậm, trả dần, cho thuê, cho thuê mua đối với người có công, người nghèo, người có thu nhập thấp; đầu tư hạ tầng các khu công nghiệp để cho thuê mặt bằng phục vụ sản xuất;

b) Nhà đầu tư nước ngoài được phép hoạt động đầu tư trong kinh doanh nhà, công trình xây dựng trong phạm vi và theo các hình thức cụ thể sau: Tổ chức, cá nhân nước ngoài được kinh doanh BĐS trong đầu tư tạo lập nhà, công trình xây dựng để bán, cho thuê, cho thuê mua; Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh BĐS được đầu tư tạo lập nhà, công trình xây dựng để kinh doanh theo các hình thức sau đây: (i) đầu tư xây dựng mới nhà, công trình xây dựng; (ii) đầu tư cải tạo, sửa chữa nhà, công trình xây dựng có sẵn; tổ chức, cá nhân đầu tư tạo lập nhà, công trình xây dựng để kinh doanh phải phù hợp với quy hoạch xây dựng đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng khu đô thị mới, khu nhà ở, hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp phải có dự án đầu tư. Việc lựa chọn chủ đầu tư dự án khu đô thị mới, dự án khu nhà ở, dự án hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp phải được thực hiện theo quy định của pháp luật về xây dựng và pháp luật về đấu thầu. Chủ đầu tư dự án phải có năng lực tài chính để thực hiện dự án;

c) Tổ chức, cá nhân nước ngoài được hoạt động đầu tư trong kinh doanh quyền sử dụng đất trong phạm vi do Luật KDBĐS quy định như sau: Tổ chức, cá nhân nước ngoài được kinh doanh BĐS trong đầu tư cải tạo đất và đầu tư các công trình hạ tầng trên đất thuê để cho thuê đất đã có hạ tầng

d) Tổ chức, cá nhân nước ngoài được hoạt động đầu tư trong kinh doanh dịch vụ BĐS, cụ thể: (i) dịch vụ môi giới BĐS; (ii) dịch vụ định giá BĐS; (iii) dịch vụ sàn giao dịch BĐS; (iv) dịch vụ tư vấn BĐS; (v) dịch vụ đấu giá BĐS; (vi) dịch vụ quảng cáo BĐS; (vii) dịch vụ quản lý BĐS.

1.2. Một số điểm hạn chế của hệ thống pháp luật kinh doanh bất động sản

Bên cạnh những thành công, hệ thống pháp luật kinh doanh BĐS của nước ta còn bộc lộ một số điểm hạn chế chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, trong thời gian qua thị trường BĐS ở nước ta bộc lộ rõ tính phân khúc; cụ thể:

(i) Xét trên phạm vi cả nước, thị trường BĐS phát triển mạnh ở khu vực thành thị, khu công nghiệp, khu kinh tế (đặc biệt là ở các đô thị lớn và khu vực phụ cận được “đô thị hóa”) – những nơi kinh tế phát triển, sức mua của người dân tăng cao; trong khi đó thị trường BĐS ở khu vực nông thôn, vùng có điều kiện kinh tế chậm phát triển, vùng sâu, vùng xa lại kém sôi động;

(ii) Xét trong phạm vi một tỉnh, một khu vực, một địa phương, thị trường BĐS phát triển sôi động ở những khu vực được Nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, ở các khu đô thị mới, khu vực có điều kiện tự nhiên, yếu tố cảnh quan, phong thủy hợp thị hiếu người dân…; trong khi đó, các khu vực khác, các giao dịch về BĐS lại kém sôi động hơn;

(iii) Xét về cơ cấu, chủng loại hàng hóa BĐS, thị trường BĐS nhà ở cao cấp, nhà ở chung cư, văn phòng cao cấp cho thuê, đất dự án v.v.. thu hút được sự quan tâm của đông đảo các nhà đầu tư kinh doanh BĐS và người dân; trong khi đó, loại nhà ở xã hội, nhà chung cư bán cho người có thu nhập thấp, người nghèo v.v.. lại ít nhận được sự quan tâm tìm hiểu, sự đầu tư của các chủ thể kinh doanh BĐS;

Thực trạng trên đây của thị trường BĐS Việt Nam chưa được pháp luật kinh doanh BĐS đưa ra các giải pháp hữu hiệu để khắc phục. Điều này thể hiện qua các mặt: chưa có các quy định đầy đủ, rõ ràng và đồng bộ nhằm xác lập cơ chế ưu đãi về cho vay vốn đối với doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà ở xã hội, nhà ở cho người có thu nhập thấp, người nghèo; còn thiếu các quy định về hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà ở xã hội, đầu tư kinh doanh BĐS ở khu vực kém phát triển trong việc tiếp cận, cung cấp thông tin, chính sách khuyến khích đầu tư, hỗ trợ giải quyết các thủ tục hành chính trong lập, triển khai dự án đầu tư; chính sách ưu đãi về miễn, giảm tiền sử dụng đất v.v..

Thứ hai, pháp luật kinh doanh BĐS còn thiếu các quy định nhằm xác lập cơ chế pháp lý đồng bộ, có hiệu quả để xử lý tình trạng đầu cơ, mua bán đất đai lòng vòng kiếm lời, đẩy giá nhà, đất lên quá cao so với giá trị thực tế. Hơn nữa, hệ thống pháp luật kinh doanh BĐS chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn tình trạng lấy đất nông nghiệp (đặc biệt là đất trồng lúa ổn định) ở các tỉnh lân cận Thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh… chuyển sang xây dựng khu đô thị mới, khu nhà ở; xây dựng các sân golf v.v..

Thứ ba, pháp luật kinh doanh BĐS mặc dù có những tác động tích cực nhằm nâng cao tính công khai, minh bạch của thị trường BĐS, song điều này dường như là chưa đủ. Còn thiếu các quy định về việc xây dựng, lưu trữ, công bố hệ thống cơ sở thông tin, dữ liệu về thị trường BĐS. Các nhà đầu tư kinh doanh BĐS gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các quy định về trình tự thủ tục, giao đất, cho thuê đất, lập dự án đầu tư v.v.. Hơn nữa, tính khả thi của một số quy định của pháp luật kinh doanh BĐS còn thấp. Các nhà đầu tư kinh doanh BĐS vẫn gặp phải tình trạng nhũng nhiễu khi thực hiện những thủ tục hành chính liên quan về đầu tư kinh doanh BĐS;

Thứ tư, các quy định hiện hành về đầu tư kinh doanh BĐS vẫn còn hạn chế các nhà đầu tư nước ngoài kinh doanh BĐS tại Việt Nam. Theo Luật sửa đổi, bổ sung Điều 126 Luật Nhà ở và Điều 121 Luật Đất đai năm 2009, không phải mọi đối tượng người Việt Nam định cư ở nước ngoài đều được mua nhà ở tại Việt Nam mà chỉ:

1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc các đối tượng sau đây được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cho phép cư trú tại Việt Nam từ ba tháng trở lên thì có quyền sở hữu nhà ở để bản thân và các thành viên trong gia đình sinh sống tại Việt Nam:

a) Người có quốc tịch Việt Nam;

b) Người gốc Việt Nam thuộc diện người về đầu tư trực tiếp tại Việt Nam theo pháp luật về đầu tư; người có công đóng góp cho đất nước; nhà khoa học, nhà văn hoá, người có kỹ năng đặc biệt mà cơ quan, tổ chức của Việt Nam có nhu cầu và đang làm việc tại Việt Nam; người có vợ hoặc chồng là công dân Việt Nam sinh sống ở trong nước.

2. Người gốc Việt Nam không thuộc các đối tượng quy định tại điểm b khoản 1 Điều này được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp Giấy miễn thị thực và được phép cư trú tại Việt Nam từ ba tháng trở lên thì có quyền sở hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc một căn hộ chung cư tại Việt Nam để bản thân và các thành viên trong gia đình sinh sống tại Việt Nam” (Điều 1);

Tương tự, Nghị quyết số 19/2008/NQ-QH12 của Quốc hội ngày 03/06/2008 về việc thí điểm cho tổ chức, cá nhân nước ngoài mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam quy định: “Tổ chức, cá nhân nước ngoài thuộc các đối tượng sau đây được mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam: 1. Cá nhân nước ngoài có đầu tư trực tiếp tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về đầu tư hoặc được doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp, bao gồm doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thuê giữ chức danh quản lý trong doanh nghiệp đó; 2. Cá nhân nước ngoài có công đóng góp cho Việt Nam được Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng thưởng Huân chương, Huy chương; cá nhân nước ngoài có đóng góp đặc biệt cho Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ quyết định; 3. Cá nhân nước ngoài đang làm việc trong lĩnh vực kinh tế – xã hội có trình độ đại học hoặc tương đương trở lên và người có kiến thức, kỹ năng đặc biệt mà Việt Nam có nhu cầu; 4. Cá nhân nước ngoài kết hôn với công dân Việt Nam; 5. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam theo pháp luật về đầu tư không có chức năng kinh doanh BĐS, có nhu cầu về nhà ở cho những người đang làm việc tại doanh nghiệp đó ở” (Điều 2). Điều này làm cho thị trường BĐS có độ “mở” hạn chế chưa thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này;

Thứ năm, trình tự, thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất và đăng ký quyền sở hữu nhà và tài sản trên đất được quy định ở hai đạo luật khác nhau là Luật Đất đai năm 2003 và Luật về Nhà ở năm 2005 với hai hệ thống trình tự, thủ tục có nhiều điểm khác biệt. Điều này cũng làm giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư trong lĩnh vực kinh doanh BĐS;

3. Kiến nghị về hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh doanh bất động sản nhằm nâng cao tính hấp dẫn của thị trường bất động sản việt nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài

1. Nhà nước cần soạn thảo và sớm ban hành cơ chế về tín dụng cho hoạt động đầu tư kinh doanh BĐS;

2. Thủ tục hành chính liên quan đến việc giao đất, xây dựng quy hoạch v.v ở Việt Nam thực hiện mất từ 2 – 3 năm nên nhiều dự án khâu tiếp cận vấn đề đất đai rất khó khăn và triển khai chậm tiến độ. Nhà nước cần rà soát, sửa đổi bổ sung các quy định về thủ tục hành chính trong đầu tư kinh doanh BĐS theo hướng công khai, minh bạch, giản tiện cho nhà đầu tư và rút ngắn thời gian thực hiện xuống còn từ 3 – 5 tháng như các nước trong khu vực;

3. Nhà nước sớm xây dựng và ban hành các quy chế về tổ chức và hoạt động của tổ chức môi giới BĐS, tổ chức tư vấn BĐS, tổ chức định giá BĐS, tổ chức quản lý sàn giao dịch BĐS, tổ chức quản lý BĐS v.v;

4. Nhà nước cần tiến hành rà soát, sửa đổi bổ sung các quy định mâu thuẫn, chồng chéo trong đăng ký BĐS giữa Luật Nhà ở, Luật Xây dựng, Luật Đất đai, Luật Bảo vệ và phát triển rừng… đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật kinh doanh BĐS;

5. Sớm sửa đổi, bổ sung quy định về giải quyết mâu thuẫn giữa Luật Nhà ở và Luật KDBĐS về điều kiện cho phép nhà đầu tư được bán tài sản hình thành trong tương lai; đồng thời ban hành quy định hiểu như thế nào là “móng nhà” và “hạng mục công trình kỹ thuật” của một dự án kinh doanh BĐS;

6. Hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin về BĐS để cho các nhà đầu tư dễ dàng tra cứu, tìm hiểu thông tin trước khi đi đến quyết định có đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh BĐS hay không.

(1) Sau đây gọi chung là nhà đầu tư.

ThS. Nguyễn Ngọc Minh – Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm dầu khí Việt Nam

Theo Nghiên cứu Lập pháp