1. Đôi nét về Khối Thương mại Tự do Châu Âu (EFTA)
Khối Thương mại Tự do Châu Âu (EFTA) hiện nay là tổ chức liên chính phủ của 4 nước Iceland, Liechtenstein, Na Uy và Thụy Sĩ. Khối được thành lập vào năm 1960 bởi bảy quốc gia thành viên gồm Áo, Đan Mạch, Na Uy, Bồ Đào Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Vương quốc Anh nhằm thúc đẩy thương mại tự do và hội nhập kinh tế giữa các thành viên. Năm 1970, Iceland gia nhập EFTA. Ngoài trừ 4 nước nước còn lại các thành viên khác gia nhập Liên minh châu Âu (EU-27) và Vương quốc Anh tách ra khỏi khối thành viên Liên minh châu Âu (Brexit-2020).
Các nước trong khối EFTA có nền kinh tế mở và phát triển; các số liệu thương mại cơ bản phản ánh mức sống cao của một khối thị trường với dân số trong khoảng 14 triệu người. EFTA là khối thị trường lớn thứ chín trên thế giới về thương mại hàng hóa và lớn thứ năm về thương mại dịch vụ. EFTA là đối tác thương mại quan trọng thứ ba về hàng hóa đối và quan trọng thứ hai về dịch vụ với EU.
2. Phát triển hội nhập Châu Âu
Khi Anh và Đan Mạch rời bỏ EFTA vào năm 1972 để trở thành thành viên của EEC, điều cần thiết là phải duy trì thương mại tự do sẵn được thành lập trong khuôn khổ EFTA. Các hiệp định mậu dịch tự do vì vậy được đàm phản trên cơ sở song phương giữa từng nước EFTA riêng biệt với EEC. Năm 1972, riêng với Phần Lan năm 1973, các hiệp định thương mại tự do song phương được ký kết giữa EEC và tất cả các Nhà nước Thành viên EFTA mở đau một giai đoạn mói trong quá trình hội nhập Tây Âu. Ngay từ năm 1977 thương mại tự do đối với hầu hết cấc sản phẩm công nghiệp đã hoàn thành và cuối cùng đối với các sản phẩm công nghiệp còn lại vào năm 1984.
Trong những năm 1970, EFTA còn tiếp tục bãi bỏ các rào cản phi thuế đối với thương mại giữa câc Nhà nước Thành viên bằng hàng loạt các thoả thuận để cùng nhau công nhậnviệc kiêm nghiệm và giấm định. Mở cửa không chỉ đối với các Nhà nước Thành viên EFTA mà còn các Nhằ nước Thành viên EC và các nước thứ ba, những thoả thuận về các lĩnh vực dược phẩm, hàng bằng kim loại quý hiếm, đường óng áp lực, thiết bị tàu thuỷ, máy nông nghiệp, máy kéo, thiết bị khí đốt, thiết bị nâng hạ và thiết bị đun nóng sử dụng nhiên liệu lỏng.
Hiện tại, chỉ còn lĩnh vực dược phẩm và kim loại quý hiếm nằm trong các thoả thuận này còn do Ban thư ký EFTA điều hành, Áo, Cộng hoà Czech, Đan Mạch, Phần Lan, Ireland, Hà Lan, Na Uy, Bồ Đào Nha, Thuỵ Điển, Thuy Sĩ và Anh là các bên tham gia Công ước Hallmarking. Cắc nước này cùng với Canada, Bỉ, Pháp, Đức, Hungari, Iceland, Liechtenstein, Rumani, Singapore và Cộng hoà Slovac tham gia Công ước Kiểm soát Dược phẩm và Chương trình Hợp tác Kiểm soát Dược phẩm.
Một trang khác của lịch sử hội nhập châu Âu lại thay đổi vào tháng 4 năm 1984 ỞLuxemboug, tại cuộc họp hỗn họp lịch sử đầu tiên có sự tham gia của Bộ trưởng tất cả các Nhà nước Thành viên của EFTA và EC và uỷ ban châu Âu. Ý muốn chính trị được tất cả các bên thể hiện tăng cường hợp tác tạo ra một không gian kinh tế năng động ở Tây Âu. Đê thành lập một thị trường nội địa hội nhập hon cho hàng công nghiệp, các ưu tiên được đặt ra là phải tháo dỡ các rào cản kỹ thuật đối với thưong mại, đon giản hoá cấc quy tắc xuất xứ và lập chứng từ hải quan, tạo điều kiện thuận lọi. cho việc kiểm tra tại biên giới. Cuộc họp này cũng quyết định tăng cường và mở rộng họp tác ra ngoài hiệp định thưong mại tự do về các lĩnh vực như nghiên cứu và phất triển, bảo vệ người tiêu dùng và bảo vệ môi trường.
Theo cái gọi là quá trình Luxemboug, nhiều nhóm công tâc chung được giao nhiệm vụ khám phá các cơ hội họp tác trong các lĩnh vực khác nhau, cùng có lợi cho cả EC và EFTA. Những kết quả có giá trị ddax đạt được, ví dụ về các rào cản kỹ thuật đối với thương mại, một hệ thống thông báo chung về dự thảo các quy định kỹ thuật đã được thành lập vào ngày 1.11.1990 giữa câc Nhà nước EFTA và EC. Tuy nhiên, quá trình này bị coi là cồng kềnh và kết quả đã không hoàn toàn như mong muốn.
3. Cơ cấu kinh tế Quốc gia Na-Uy (chủ thể trong EFTA)
Na Uy có nền kinh tế ổn định với khu vực tư nhân sôi động, khu vực nhà nước rộng lớn và mạng lưới an sinh xã hội rộng khắp. Nhìn chung, thu nhập và mức sống ở Na Uy có thể xếp vào hàng cao bậc nhất thế giới. Tỉ lệ tăng trưởng của nền kinh tế không lớn nhưng ổn định, vẫn giữ GDP bình quân đầu người ở mức cao.
– Nông nghiệp chiếm 1,9% GDP và sử dụng 2% lực lượng lao động. Trong đó, đánh bắt cá là một hoạt động quan trọng vì Na Uy là nước xuất khẩu thủy sản lớn thứ hai thế giới sau Trung Quốc.
– Ngành công nghiệp sử dụng ít hơn 1/5 lực lượng lao động và chiếm 29.1% GDP; thị phần của nó bắt đầu tăng vào năm 2017 sau nhiều năm giảm liên tục. Nền kinh tế của Na Uy phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên và các nguồn năng lượng (dầu, khí đốt, năng lượng thủy lực, rừng và khoáng sản). Nguồn thu từ dầu từng chiếm ưu thế trong GDP, hiện nay chỉ cung cấp dưới 4% GDP, thấp hơn nhiều so với mức đỉnh vào năm 2000 do chủ trương tiết kiệm nguồn thu từ dầu khí cho các thế hệ tương lai; nhờ vậy, Na Uy có quỹ tài sản có chủ quyền lớn nhất trên thế giới (trị giá hơn 1,14 nghìn tỷ USD vào cuối năm 2019). Đóng tàu, sản xuất kim loại, bột gỗ và giấy, công nghiệp hóa chất, máy móc và thiết bị điện tạo nên các ngành sản xuất chính của Na Uy. Na Uy cũng có một trong những đội tàu lớn nhất và hiện đại nhất trên thế giới.
– Các ngành dịch vụ rất phát triển; nó sử dụng hơn 3/4 dân số (78,9%) và chiếm 57,7% GDP.
Đối với thương mại, Na Uy cũng có đặc điểm là bảo hộ nông nghiệp – thông qua hạn ngạch và thuế cao đối với việc nhập khẩu nhiều sản phẩm nông nghiệp – bên cạnh các hình thức trợ cấp khác nhau liên quan đến hoạt động và bán các sản phẩm nội địa của ngành.
4. Cơ cấu kinh tế Quốc gia Iceland (chủ thể trong EFTA)
Nền kinh tế Iceland kết hợp cơ cấu tư bản chủ nghĩa và các nguyên tắc thị trường tự do với một hệ thống phúc lợi phong phú. Ngoại trừ một thời gian ngắn trong cuộc khủng hoảng năm 2008, Iceland trong những năm gần đây đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp và phân phối thu nhập đồng đều đáng kể.
Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, một trong những ưu tiên của chính phủ là đa dạng hóa nền kinh tế, mà trong thập kỷ trước chủ yếu hướng vào các ngành sản xuất và dịch vụ.
– Ngành nông nghiệp đóng góp khoảng 4,3% GDP của Iceland và sử dụng 3.8% lực lượng lao động. Những vùng đồng cỏ chăn nuôi cừu rộng lớn là một trong những nguồn tài nguyên nông nghiệp quan trọng nhất của đất nước. Các sản phẩm nông nghiệp chính là khoai tây, cà rốt, rau xanh, cà chua, dưa chuột, thịt cừu, thịt gà, thịt lợn, thịt bò và các chế phẩm từ sữa.
– Nền kinh tế Iceland dựa một phần vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể tái tạo và các ngành liên quan: đánh bắt cá ở biển sâu, năng lượng thủy lực và địa nhiệt và đồng cỏ. Đánh bắt cá là một trong những trụ cột của nền kinh tế Iceland và chiếm khoảng 40% kim ngạch xuất khẩu.Tiềm năng thủy điện kích thích sản xuất nhôm – nguồn nguyên liệu chính để xuất khẩu và mang lại khoảng 70% sản lượng điện. Địa nhiệt cung cấp 30% còn lại để năng lượng tái tạo đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng của đất nước. Lĩnh vực chế biến thực phẩm cũng rất quan trọng đối với Iceland.
– Dịch vụ chiếm 65,5% GDP và sử dụng hơn 80% lực lượng lao động. Trong vài năm qua, nền kinh tế Iceland đã phát triển nhờ vào lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là trong lĩnh vực du lịch (2,3 triệu khách du lịch nước ngoài đến thăm đất nước vào năm 2018), sản xuất phần mềm và công nghệ sinh học. Trên thực tế, Iceland đã trở thành hậu cứ của một số công ty chuyên về máy tính và phần mềm. Ngoài ra còn có nhiều trung tâm chăm sóc khách hàng qua điện thoại được đặt tại đây.
Tuy các chính sách hỗ trợ từ quốc gia được áp dụng cho các nhà đầu tư từ nước ngoài, nhưng sở hữu nước ngoài bị hạn chế trong các lĩnh vực chính như năng lượng, thủy sản và hoạt động hàng không. Các yêu cầu và hạn chế đầu tư khác áp dụng cho các nước bên ngoài Khu vực Kinh tế Châu Âu, khu vực thương mại tự do bao gồm Liên minh Châu Âu và Hiệp hội Thương mại Tự do Châu Âu (trong đó Iceland là thành viên).
5. Cơ cấu kinh tế Quốc gia Thụy Sỹ (chủ thể trong EFTA)
Thụy Sĩ, một quốc gia tán thành sự trung lập, là một nền kinh tế thị trường thịnh vượng và hiện đại với tỷ lệ thất nghiệp thấp, lực lượng lao động có tay nghề cao và GDP bình quân đầu người thuộc hàng cao nhất thế giới. Nền kinh tế của Thụy Sĩ được hưởng lợi từ khu vực dịch vụ phát triển cao, dẫn đầu là các dịch vụ tài chính và ngành sản xuất chuyên về công nghệ cao, sản xuất dựa trên tri thức. Sự ổn định về kinh tế và chính trị, hệ thống luật pháp minh bạch, cơ sở hạ tầng đặc biệt, thị trường vốn hiệu quả và thuế suất doanh nghiệp thấp cũng khiến Thụy Sĩ trở thành một trong những nền kinh tế cạnh tranh nhất thế giới.
Thụy Sĩ là một trong những nền kinh tế cạnh tranh nhất trên thế giới nhờ các dịch vụ giá trị cao, các ngành công nghiệp chuyên biệt và lực lượng lao động năng động và có tay nghề cao gồm 4,9 triệu người trong tổng số 8,5 triệu dân.
– Nông nghiệp chiếm 0.7% GDP và sử dụng 2.9% lao động. Các sản phẩm nông nghiệp chính của Thụy Sĩ là chăn nuôi và các sản phẩm từ sữa. Quốc gia này cũng có hơn 9000 nhà máy rượu vang. Chính quyền Thụy Sĩ cấp nhiều khoản trợ cấp trực tiếp cho nông dân để đáp ứng các tiêu chí sinh thái nghiêm ngặt, chẳng hạn như bảo vệ đất. Đất nước này hầu như không có bất kỳ tài nguyên khoáng sản nào. Mặc dù quy mô của ngành nông nghiệp nói chung là nhỏ, nông nghiệp hữu cơ đã có sự tăng trưởng đáng kể (14,5% đất nông nghiệp, theo Văn phòng Thống kê Liên bang), nhưng có sự khác biệt lớn giữa các vùng.
– Ngành công nghiệp sử dụng 20% lực lượng lao động và chiếm 25.6% GDP. Thụy Sĩ nổi tiếng trên toàn thế giới về các sản xuất sản phẩm chất lượng cao, bao gồm đồng hồ, động cơ, máy phát điện, tua-bin và các sản phẩm công nghệ cao đa dạng. Ngành công nghiệp nặng được thúc đẩy bởi các nhóm xuất khẩu lớn. Đặc biệt, Basel là nơi có ngành công nghiệp hóa chất và dược phẩm rất năng động và mạnh mẽ. Điện được tạo ra chủ yếu từ thủy lực và năng lượng hạt nhân. Nguồn thủy điện cung cấp gần 2/3 năng lượng của đất nước.
– Ngành dịch vụ chiếm 70.9% GDP và sử dụng 77.2% lực lượng lao động. Riêng khu vực ngân hàng chiếm 9,1% GDP và đang ở mức khá tốt mặc dù gặp nhiều khó khăn. Các lĩnh vực phát triển tốt và có tính cạnh tranh toàn cầu, chẳng hạn như ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng hóa và vận tải, đã góp phần vào sự phát triển của thương mại quốc tế trên khắp Thụy Sĩ. Du lịch, đóng góp đáng kể cho nền kinh tế (hơn 21 triệu du khách nước ngoài vào năm 2018, theo Liên đoàn Du lịch Thụy Sĩ), giúp cân bằng thâm hụt thương mại của Thụy Sĩ.
Nền kinh tế Thụy Sĩ có tính hội nhập cao trong nền kinh tế quốc tế, áp dụng chế độ thương mại mở đối với các sản phẩm công nghiệp nhưng lĩnh vực nông nghiệp được bảo hộ. Thuế quan đối với các sản phẩm của Thụy Sĩ nói chung là thấp, và về nguyên tắc không có quá nhiều hạn chế. Tuy nhiên, có mức thuế cao đối với một số sản phẩm nông nghiệp như thịt hoặc một số sản phẩm nông nghiệp đã qua chế biến.
6. Cơ cấu kinh tế Quốc gia Liechtenstein (chủ thể trong EFTA)
Liechtenstein là nước nhỏ, dân số ít nhưng GDP bình quân đầu người những năm gần đây luôn nằm trong hạng cao nhất thế giới.
– Nông nghiệp chiếm tỉ trọng rất nhỏ trong GDP Liechtenstein (chỉ 0.1%). Rất ít lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, nhưng số lượng nông trại vừa và nhỏ khá nhiều, chủ yếu tập trung vào chăn nuôi và sản xuất chế phẩm từ sữa. Cây trồng bao gồm ngô, khoai tây và ngũ cốc. Vườn nho rất ít và được chia thành các đơn vị nhỏ. Các sườn núi Alpine được sử dụng để chăn thả gia súc vào mùa hè. Liechtenstein không có nguồn tài nguyên thiên nhiên có giá trị thương mại và hầu như tất cả các nguyên liệu thô, bao gồm cả gỗ, đều phải nhập khẩu. Tất cả các khu vực có rừng của quốc gia này đều được bảo vệ để duy trì hệ sinh thái của sườn núi và chống xói mòn.
– Ngành công nghiệp đóng góp 44.6% GDP cả nước. Không có ngành công nghiệp nặng, nhưng sản xuất nhỏ được phát triển khắp cả nước. Ngành công nghiệp của Liechtenstein hướng nhiều vào xuất khẩu và tập trung vào hàng hóa yêu cầu độ chính xác và chất lượng cao cho các thị trường ngách. Sản xuất, chế tạo máy, dụng cụ nha khoa và công nghiệp thực phẩm là những lĩnh vực hoạt động chính.
– Ngành dịch vụ chiếm hơn một nửa GDP cả nước. Du lịch là lĩnh vực hàng đầu của nền kinh tế Liechtenstein và được chính phủ hỗ trợ. Hầu hết du khách đến từ các quốc gia châu Âu xung quanh. Ngoài ra, hàng chục nghìn công ty nước ngoài đăng ký tại Liechtenstein mang lại nguồn thu nhập từ thuế. Nơi đây cũng đã trở thành một trung tâm ngân hàng vì tình hình chính trị ổn định và luật pháp quy định bí mật ngân hàng tuyệt đối.
Thuế kinh doanh thấp (áp dụng chung 12,5% cho tất cả người nộp thuế không kể thu nhập) và các quy tắc cho các công ty mẹ dễ dàng được thành lập ở Liechtenstein, thông thường thì tỷ lệ đóng góp các công ty này chiếm khoảng 30% doanh thu của tiểu bang. Đồng franc Thụy Sĩ được sử dụng làm tiền tệ quốc gia. Liechtenstein cũng nhập khẩu hơn 90% nhu cầu năng lượng của mình.
Trên đây là nội dung Luật LVN Group sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng!