Giai đoạn 2006-2008: ĐTNN tăng trưởng mạnh mẽ

Trong 3 năm vừa qua, vốn FDI đăng ký đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ mang tính đột biến. Vốn đăng ký liên tục đạt mức cao kỷ lục kể từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987. Năm 2006 cả nước đã thu hút được 12 tỷ USD vốn đăng ký, tăng 83% so với năm 2005. Năm 2007, vốn đăng ký tiếp tục lập kỷ lục mới với 21,3 tỷ USD, tăng 71% so với năm 2006. Riêng năm 2008, vốn đăng ký đã đạt trên 64 tỷ USD, tăng 3 lần so với năm 2007. Như vậy, chỉ tính từ 2006 đến hết năm 2008, vốn đăng ký đã đạt 97,6 tỷ USD, vượt 77,4% so với mục tiêu đề ra cho cả giai đoạn 5 năm 2006 – 2010.

>> Luật sư vấn pháp luật cho doanh nghiệp trực tuyến gọi số:1900.0191

Luật sư tư vấn pháp luật doanh nghiệp - 1900.0191

Tư vấn pháp luật doanh nghiệp – Ảnh minh họa

Cùng với sự gia tăng mạnh mẽ về quy mô vốn đăng ký, cơ cấu FDI theo ngành, lĩnh vực, theo đối tác đầu tư và theo vùng lãnh thổ tiếp tục có những chuyển biến tích cực. Trong 3 năm 2006-2008, vốn FDI đăng ký tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, chiếm 56,7%; tiếp đến là lĩnh vực dịch vụ, chiếm 41,8%; lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ thấp trong cơ cấu đầu tư, chỉ đạt 1,2% tổng vốn đăng ký.

Cũng trong thời gian đó, có 70 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam, trong đó Malaysia đứng vị trí thứ nhất, chiếm 17,0% tổng vốn đăng ký; Đài Loan đứng thứ hai, chiếm 13,1%; Nhật Bản đứng thứ ba, chiếm 11,1%; Hàn Quốc đứng thứ tư, chiếm 10,8% và British Virgin Islands đứng thứ 5, chiếm 9,3%. Cơ cấu đầu tư theo đối tác đã đa dạng hơn và có sự chuyển dịch theo hướng tích cực từ các nước quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Singapore, Hồng Kông… sang các khu vực khác như châu Âu (British Virgin Islands, Thụy Sỹ, Anh, Samoa, Síp, Cayman Islands, Pháp, Hà Lan, Đức, Đan Mạch…) và châu Mỹ (Canada, Hoa Kỳ).

Cơ cấu đầu tư theo địa bàn có sự chuyển dịch tích cực hơn trong 3 năm qua. Bên cạnh các địa bàn thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc ) và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (TP. HCM, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Long An), nguồn vốn FDI thời gian gần đây đã dịch chuyển đáng kể sang một số địa bàn khác thuộc các tỉnh thuộc Duyên hải miền Trung và đồng bằng Sông Cửu Long như Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Phú Yên, Ninh Thuận, Kiên Giang, Hậu Giang…

Trong năm 3 năm 2006 – 2008, cả nước có 63 địa phương thu hút được dự án ĐTNN, trong đó, 10 địa phương dẫn đầu là TP. Hồ Chí Minh chiếm 13,7% tổng vốn đăng ký, Bà Rịa – Vũng Tàu chiếm 13,2%, Ninh Thuận chiếm 10,3%, Hà Tĩnh chiếm 8,1%, Hà Nội chiếm 6,8%, Thanh Hóa chiếm 6,5%, Phú Yên chiếm 6,3%, Đồng Nai chiếm 5,5%, Bình Dương chiếm 4,9% và Kiên Giang chiếm 2,4%.

Quy mô vốn đầu tư trung bình của một dự án tăng lên rất nhanh trong thời gian gần đây, từ mức 14,4 triệu USD/dự án trong 2007 đã tăng lên gần 60 triệu/dự án trong 11 tháng đầu năm 2008, thể hiện số lượng dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư có vốn đầu tư đăng ký hàng trăm triệu đến trên một tỷ USD tăng nhanh.

Vốn FDI thực hiện cũng có sự tăng trưởng đáng kể trong 3 năm vừa qua. Năm 2006 vốn FDI thực hiện đạt 4,1 tỷ USD, tăng 24% so với năm 2005. Năm 2007 đạt 8 tỷ USD, tăng 96%, gần gấp 2 lần năm 2006. Trong năm 2008, vốn giải ngân đã đạt 11,5 tỷ USD, tăng 44% so với cùng kỳ năm 2007, đạt mức cao nhất trong hơn 20 năm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam).

Như vậy, tính chung giai giai đoạn 2006 – 2008, vốn thực hiện của khu vực kinh tế có vốn nước ngoài đã đạt khoảng 23,6 tỷ USD, bằng 94,4% mục tiêu đề ra cho cả giai đoạn 5 năm 2006-2010. Với tình hình vốn FDI thực hiện trong 3 năm qua, khả năng hoàn thành mục tiêu đề ra ban đầu trong kế hoạch 5 năm 2006 – 2010 là hoàn toàn khả thi.

Vốn thực hiện tăng nhanh đã khiến tỷ trọng vốn FDI trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội gia tăng, đặc biệt trong 2 năm trở lại đây. Với 4,1 tỷ USD giải ngân năm 2006, tỷ trọng FDI chiếm 16,2% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; với trên 8 tỷ USD giải ngân năm 2007, tỷ trọng FDI trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội đã lên tới 24,8%, góp phần đưa tỷ lệ đầu tư toàn xã hội lên 45,6% GDP năm 2007.

Sự tăng trưởng mạnh mẽ của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong 3 năm qua đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đang ngày càng đóng góp tích cực hơn vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Khu vực FDI là khu vực có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng GDP chung, năm 2006 tăng trưởng khu vực FDI là 14,33%, năm 2007 là 12,81% (so với tốc độ tăng GDP tương ứng là 8,29% và 8,68%). Tỷ trọng của khu vực kinh tế FDI trong GDP vẫn tiếp tục tăng lên qua các năm, từ 17,02% năm 2006 (so với 15,99% năm 2005) lên 17,66% năm 2007.

Trong gần 3 năm 2006-2008, các doanh nghiệp ĐTNN tạo việc làm mới cho 37.000 lao động, đưa tổng số lao động trong khu vực có vốn ĐTNN tính đến thời điểm này là 1,45 triệu lao động. Đồng thời, các doanh nghiệp ĐTNN nộp ngân sách nhà nước khoảng 5 tỷ USD, trong đó năm 2006 nộp 1,47 tỷ USD, năm 2007 nộp trên 1,57 tỷ USD; năm 2008 đạt 1,98 tỷ USD, tăng 25% so với cùng kỳ năm 2007.

Hạn chế cần khắc phục

Tuy nhiên, thực tiễn ĐTNN vào Việt Nam trong giai đoạn vừa qua cũng đã bộc lộ một số tồn tại và hạn chế ở cả môi trường đầu tư và tình hình đầu tư. Sự tăng trưởng mạnh mẽ, mang tính đột biến của nguồn vốn FDI vào Việt Nam đã làm cho những mặt hạn chế vốn có nhưng chưa hoặc chậm được khắc phục của môi trường đầu tư của nước ta ngày càng bộc lộ rõ nét và trở nên gay gắt hơn. Bên cạnh đó, một số vấn đề mới phát sinh cũng đang bắt đầu có những tác động tiêu cực đến môi trường đầu tư làm hạn chế khả năng thu hút và sử dụng vốn đầu tư của nền kinh tế.

Về luật pháp, chính sách: Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư, kinh doanh vẫn còn một số điểm thiếu đồng bộ và nhất quán giữa các luật các luật chung và luật chuyên ngành. Vì vậy trên thực tế vẫn tạo ra các cách hiểu khác nhau gây rất nhiều khó khăn cho việc xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư cũng như hướng dẫn các doanh nghiệp xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai dự án.

Về công tác quy hoạch: Công tác quy hoạch lãnh thổ, ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm còn yếu và thiếu, đặc biệt trong bối cảnh phân cấp triệt để việc cấp phép và quản lý đầu tư về các địa phương, dẫn đến tình trạng mất cân đối chung. Nhiều địa phương cấp phép tràn lan, khai tăng vốn đăng ký của dự án để có thành tích, để cạnh tranh nhau, dẫn đến cùng cấp quá nhiều giấy phép cho các dự án có cùng một loại sản phẩm mà không tính đến khả năng thị trường, gây dư thừa, lãnh phí, hiệu quả đầu tư thấp (ví dụ như trường hợp cấp phép các dự án sản xuất thép, dự án sân Golf, dự án cảng biển…).

Về cơ sở hạ tầng: Sự yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào là nhân tố quan trọng gây tâm lý lo ngại của các nhà đầu tư. Thông thường các nhà đầu tư tính toán, thực hiện tiến độ xây dựng công trình dự án theo tiến độ xây dựng công trình hạ tầng ngoài hàng rào để tránh tình trạng công trình dự án xây dựng xong không đưa vào vận hành được do hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào không đáp ứng yêu cầu, đặc biệt là hệ thống cấp điện, nước, đường giao thông, cảng biển phục vụ nhu cầu sản xuất và xuất nhập khẩu hàng hóa.

Về nguồn nhân lực: Tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực đã qua đào tạo, đặc biệt là công nhân kỹ thuật và kỹ sư ngày càng rõ rệt, không chỉ xảy ra ở các khu kinh tế mới hình thành như Chân Mây, Dung Quất, Nhơn Hội… mà còn ở cả những trung tâm công nghiệp như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương… Mặt hạn chế này đã tồn tại từ các giai đoạn trước nhưng trong 3 năm trở lại đây càng trở nên bức xúc hơn trong điều kiện nhiều dự án ĐTNN, đặc biệt là các dự án lớn đi vào triển khai thực hiện.

Vấn đề đất đai và công tác giải phóng mặt bằng: Công tác giải phòng mặt bằng là mặt hạn chế chậm được khắc phục của môi trường đầu tư của ta. Trên thực tế, công tác quy hoạch sử dụng đất đã được các địa phương quan tâm nhưng vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ với quy hoạch ngành, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của địa phương nói chung và thu hút và sử dụng có hiệu qủa nguồn vốn FDI nói riêng. Nhiều địa phương đang lâm vào trình trạng khó khăn trong việc bố trí đủ đất cho các dự án quy mô lớn như đã cam kết trước khi cấp Giấy chứng nhận đầu tư.

Vấn đề môi trường: Việc xử lý chất thải của các dự án ĐTNN tập trung tại các khu công nghiệp tập trung thuộc vùng kinh tế trọng điểm đã và đang ảnh hưởng nhất định đến môi trường tự nhiên cũng như xã hội, trong đó đặc biệt là đối với các dự án sản xuất quy mô lớn. Thực tế thời gian gần đây các cơ quan chức năng đã phát hiện một số vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường với các hành vi cố ý rất tinh vi của một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là vấn đề cần được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm ở tất cả các khâu từ thẩm tra cấp giấy chứng nhận đầu tư, đến triển khai thực hiện dự án cũng như quá trình hoạt động của dự án đầu tư.

Về xúc tiến đầu tư: Công tác xúc tiến đầu tư trong thời gian qua còn nhiều bất cập, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa thực sự hiệu quả, nội dung và hình thức chưa phong phú, còn chồng chéo, mâu thuẫn gây lãng phí nguồn lực. Nguyên nhân là do ta chưa có một chiến lược tổng thể về xúc tiến đầu tư, làm cho công tác xúc tiến đầu tư thiếu một tầm nhìn dài hạn, có tính hệ thống; Trình độ cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư còn hạn chế, thiếu cơ sở vật chất và điều kiện hoạt động; Công tác quản lý nhà nước và cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương trong công tác xúc tiến đầu tư chưa thực sự hiệu quả, nhiều nội dung chưa được xác định rõ ràng do còn thiếu một văn bản pháp luật quy định cụ thể về vấn đề này.

Dự báo ĐTNN tại Việt Nam giai đoạn 2009 – 2010

Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới cũng như bối cảnh kinh tế vĩ mô trong nước đang có những biến động khó dự báo, dòng vốn FDI đăng ký cũng trở nên rất khó dự báo. Tuy nhiên, theo đánh giá từ phía các nhà tài trợ, chính sách thắt chặt tiền tệ, chính sách tỷ giá đã bước đầu phát huy tác dụng, giải pháp thắt chặt tài khóa nếu thực hiện kiên quyết sẽ phát huy tác dụng chậm hơn, vào các tháng cuối năm nay. Triển vọng đầu tư trung và dài hạn của Việt Nam hiện vẫn được coi là tốt, ước dòng vốn đăng ký trong hai năm tới sẽ giảm đáng kể so với năm 2008 nhưng vẫn ở mức cao, khoảng trên 20 tỷ USD/năm, đưa tổng vốn đăng ký của 5 năm 2006-2010 có thể lên tới mức 135 tỷ USD, vượt 2,4 lần kế hoạch đề ra cho cả giai đoạn này.

Việc những năm tiếp theo khó có thể duy trì được tốc độ thu hút FDI cao như năm 2007 và năm 2008 không có nghĩa là môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam kém hơn các năm trước. Trong giai đoạn tới cần tập trung thu hút đầu tư vào các lĩnh vực quan trọng là công nghệ cao, phát triển cơ sở hạ tầng và phát triển nguốn nhân lực… sẽ tạo động lực và góp phần quan trọng cho tăng trưởng kinh tế- xã hội và thu hút mạnh FDI.

Mặc dù được đánh giá rất cao về tiềm năng thu hút FDI, Việt Nam vẫn còn nhiều việc phải làm để tiếp tục duy trì tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời thúc đẩy giải ngân các dự án đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Trong bối cảnh đặc biệt hiện nay, giải ngân vốn FDI là quan trọng hàng đầu và là công việc khó khăn trong giai đoạn còn lại của kế hoạch 5 năm 2006-2010.

Với quy mô vốn đăng ký rất lớn trong nửa đầu kỳ kế hoạch, trong bối cảnh thuận lợi, vốn giải ngân trong 2 năm tới của kỳ kế hoạch có thể đạt 13 – 14 tỷ USD/năm. Với tổng số vốn đã giải ngân từ năm 2006 đến hết năm 2008 là 23,6 tỷ USD, đạt 94,4% mục tiêu đặt ra cho cả kỳ kế hoạch 5 năm 2006 – 2010. Việc thực hiện vượt mức mục tiêu ban đầu đặt ra là hoàn toàn khả thi.

Giải pháp thu hút và quản lý ĐTNN giai đoạn 2009-2010

Để để tiếp tục thu hút, thúc đẩy giải ngân và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn FDI năm 2009 và năm 2010, Bộ Kế hoạch và Đầu đề xuất 8 Nhóm giải pháp cần ưu tiên triển khai như sau:

Thứ nhất, giải pháp về luật pháp, chính sách

Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh để sửa đổi các nội dung không đồng bộ, thiếu nhất quán, bổ sung các nội dung còn thiếu và loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO.

Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế.

Thực hiện các biện pháp thúc đẩy giải ngân; không cấp phép cho các dự án công nghệ lạc hậu; dự án tác động xấu đến môi trường; thẩm tra kỹ các dự án sử dụng nhiều đất, giao đất có điều kiện theo tiến độ dự án, tránh lập dự án lớn để giữ đất, không triển khai; cân nhắc về tỷ suất đầu tư/diện tích đất, kể cả đất KCN.

Thứ hai, giải pháp về quy hoạch

Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu; rà soát để định kỳ bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án.

Hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư; rà soát, kiểm tra, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất một cách hiệu quả, nhất là đối với các địa phương ven biển nhằm đảm bảo phát triển kinh tế và môi trường bền vững.

Thứ ba, giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng

Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ cao tốc; nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt; sản xuất và sử dụng điện từ các loại năng lượng mới như sức gió, thủy triều, nhiệt năng từ mặt trời; các dự án lĩnh vực bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin.

Thứ tư, giải pháp về nguồn nhân lực

Đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 40% vào năm 2010. Theo đó, ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có lên ngang tầm khu vực và thế giới, sẽ phát triển thêm các trường đào tạo nghề và trung tâm đào tạo từ các nguồn vốn khác nhau.

Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động theo tinh thần của Bộ luật Lao động.

Thứ năm, giải pháp về giải phóng mặt bằng

Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần chỉ đạo các cơ quan chức năng tiến hành ngay các thủ tục thu hồi đất và thu hồi giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án FDI không có khả năng triển khai hoặc chưa có kế hoạch sử dụng hết diện tích đất đã được giao để chuyển cho các dự án đầu tư mới có hiệu quả hơn. Đồng thời, trong phạm vi thẩm quyền của mình, chủ động tổ chức việc đền bù giải tỏa và giao đất cho chủ đầu tư theo đúng cam kết, đặc biệt là các dự án quy mô lớn mà chủ đầu tư sẵn sàng giải ngân thực hiện dự án.

Thứ sáu, giải pháp về phân cấp

Qua thực tế thực hiện việc phân cấp trong hơn 2 năm vừa qua đã bộc lộ một số vấn đề bất cập, không phù hợp, ảnh hưởng đến quy hoạch phát triển kinh tế xã hội chung. Cần nghiên cứu để xem xét lại chủ trương phân cấp toàn diện như quy định hiện nay, có các biện pháp để tăng cường sự phối hợp giữa Trung ương và địa phương trong việc cấp phép và quản lý các dự án đầu tư nước ngoài.

Thứ bảy, giải pháp về xúc tiến đầu tư

Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và các đối tác trọng điểm như các quốc gia thành viên EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản…

Nhanh chóng hoàn thành việc xây dựng thông tin chi tiết về dự án (project profile) đối với danh mục đầu tư quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006-2010 để làm cơ sở cho việc kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án này.

Thực hiện tốt Chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia giai đoạn 2007-2010. Triển khai nhanh việc thành lập bộ phận XTĐT tại một số địa bàn trọng điểm.

Thứ tám, một số giải pháp khác

Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc chống tham nhũng, tiêu cực và tình trạng nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan quản lý nhà nước.

Thực hiện chương trình Sáng kiến chung Việt Nam -Nhật Bản giai đoạn III hiệu quả; điều chỉnh Cơ chế hợp tác giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Việt Nam) và Cơ quan Phát triển kinh tế – EDB (Singapore) phù hợp với tình hình mới.

Duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo Chính phủ, các Bộ, ngành với các nhà đầu tư, đặc biệt là Diễn đàn doanh nghiệp hàng năm để xử lý kịp thời các khó khăn, vướng mắc của các dự án trong quá trình thực hiện chính sách và phát luật hiện hành, đảm bảo các dự án hoạt động đúng tiến độ và hiệu quả, nhằm tiếp tục củng cố lòng tin của các nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, tạo hiệu ứng lan tỏa và tác động tích cực tới nhà đầu tư mới./.

SOURCE: TẠP CHÍ KINH TẾ VÀ DỰ BÁO SỐ 4 (444) – MINH QUANG