Cơ sở pháp lý

– Quy định số 179-QÐ/TW về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ;

– Nghị định số 04/2015/NĐ-CP  về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập;

– Nghị quyết số 30c/NQ-CP ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020;

– Quyết định số 1557/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức”.

1. Công vụ là gì?

Trong các công trình nghiên cứu khoa học và trên các phương tiện thông tin đại chúng có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm “nền công vụ”. Ví dụ: từ điển Tiếng Việt năm 2004 của Viện Ngôn ngữ học xuất bản (Hoàng Phê chủ biên) đưa ra định nghĩa công vụ như sau: “công vụ”: việc công (dùng trong các từ thi hành công vụ; hộ chiếu công vụ; toa xe công vụ”. Theo Từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì công vụ “là một hoạt động do công chức nhân danh nhà nước thực hiện theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân và xã hội”. Giáo trình công vụ, công chức do NXB Giáo dục, Hà Nội xuất bản năm 1997 cho rằng “công vụ là là một loại lao động mang tính quyền lực và pháp lý được thực thi bởi đội ngũ công chức nhằm thực hiện các chính sách của nhà nước trong quá trình quản lý toàn diện các mặt của đời sống xã hội”. Theo tác giả Trần Anh Tuấn: “… công vụ chính là trách nhiệm của chủ thể nhân danh quyền lực công thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật”(4).

Căn cứ vào các cách tiếp cận khác nhau về công vụ, trong điều kiện ở Việt Nam hiện nay, thuật ngữ “công vụ” được hiểu: “là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước do cán bộ, công chức tiến hành theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, phục vụ lợi ích nhà nước, nhân dân và xã hội”(5). Tuy nhiên, trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam, do đặc thù về thể chế chính trị nên công vụ còn bao gồm cả hoạt động thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ của cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị – xã hội. Cũng theo cách tiếp cận này, công vụ có một số tính chất và đặc thù sau: mục đích của công vụ là phục vụ lợi ích nhà nước, nhân dân và xã hội; chủ thể thực thi công vụ là cán bộ, công chức; công vụ được tiến hành theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được nhà nước giao và tuân theo pháp luật; hoạt động công vụ mang tính thường xuyên, chuyên nghiệp”.

Theo nghĩa rộng hơn, công vụ được hiểu và gọi theo cụm từ “nền công vụ”. Đó là khái niệm chỉ toàn bộ các yếu tố liên quan đến hoạt động công vụ. Theo nghĩa này, và với thực tiễn Việt Nam hiện nay thì nội dung của nền công vụ bao gồm các yếu tố cơ bản sau đây: thể chế công vụ (chủ yếu là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về xây dựng nền công vụ; chế độ công vụ; phát triển đội ngũ cán bộ, công chức); hệ thống tổ chức quản lý đội ngũ cán bộ, công chức; công sở (nơi chủ yếu diễn ra các hoạt động, các hành vi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức); đội ngũ cán bộ, công chức (chủ thể triển khai thực hiện hoạt động công vụ); chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ, công chức (bao hàm cả các điều kiện đảm bảo thực thi công vụ). Như vậy, nền công vụ mang tính tổng hợp các bộ phận cấu thành, bao gồm thể chế, về đội ngũ, về tổ chức và những điều kiện để thực thi công vụ.

2. Hoạt động thực thi công vụ là gì?

Hoạt động thực thi công vụ là hoạt động công quyền dựa trên cơ sở sử dụng quyền lực được nhà nước cho phép (quyền lực công). Hoạt động này được thực hiện bởi đội ngũ công chức làm việc trong các pháp nhân công quyền (trong chuyên đề này được hiểu là cơ quan hành chính nhà nước), được quyền lực nhà nước bảo đảm, và sử dụng cùng với ngân sách nhà nước để thực hiện các nhiệm vụ quản lý do nhà nước chỉ định trong phạm vi hệ thống chính trị của quốc gia, vì lợi ích công của toàn xã hội hay của công dân; có nghĩa vụ, quyền lợi, trách nhiệm do luật định. Vì thuộc khuôn khổ nền hành chính nhà nước, chịu sự chi phối và điều hành của nền hành chính, nên hoạt động thực thi công vụ là hoạt động có tính tổ chức cao và tuân theo những quy chế bắt buộc, có trình tự và theo hệ thống thứ bậc chặt chẽ và liên tục, được quy định thành nguyên tắc.

3. Nguyên tắc thực thi công vụ

Các nguyên tắc của hoạt động công vụ (còn được gọi là các nguyên tắc thực thi công vụ, hoặc các nguyên tắc thi hành công vụ) là những tư tưởng, quan điểm chi phối toàn bộ hoạt động công vụ nhà nước, hoạt động thực thi công vụ của cán bộ, công chức nhà nước. Đây là những tư tưởng, quan điểm có tính chất nền tảng phản ánh bản chất của công vụ, quyết định định hướng của nền công vụ. Nền công vụ có thực sự mang tính phục vụ Nhân dân hay không tuỳ thuộc vào việc tôn trọng, thực hiện những nguyên tắc của hoạt động công vụ như thế nào. Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, các nguyên tắc của hoạt động công vụ bao gồm: nguyên tắc tuân thủ pháp luật (tuân thủ hiến pháp, luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác, các quy định chung,v.v.); đúng quyền hạn được giao; chịu trách nhiệm với công vụ thực hiện; thống nhất trong quá trình thực thi công vụ giữa các cấp, ngành, lãnh thổ; nguyên tắc công khai; nguyên tắc minh bạch(6).

Các nguyên tắc trong thi hành công vụ là những tư tưởng, quan điểm có tính chất nền tảng, phản ánh bản chất của nền công vụ, chế độ công vụ, quyết định định hướng phát triển của nền công vụ. Vì vậy, các nguyên tắc này có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đối với việc xem xét, đánh giá trách nhiệm của công chức trong hoạt động thực thi công vụ, mà còn có thể sử dụng như tiêu chí đánh giá hiệu quả của nền công vụ, chế độ công vụ, của hoạt động quản lý nhà nước mà hơn thế nữa, còn là căn cứ để đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả cơ chế giám sát nội bộ đối với việc thực thi công vụ của cơ quan hành chính nhà nước.

Hoạt động thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước được thể hiện chủ yếu trên ba phương diện (ba lĩnh vực hoạt động chủ yếu) là xây dựng, ban hành thể chế quản lý hành chính nhà nước; tổ chức thực hiện quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực; và thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng …. Điều này cũng đã được thể hiện trong quan điểm chỉ đạo của Chính phủ “Các bộ, ngành chủ yếu tập trung vào khâu hoạch định thể chế, chính sách và tổ chức thực hiện thanh tra, kiểm tra”(7).

4. Quan niệm về cơ chế giám sát trong nội bộ cơ quan hành chính nhà nước

Cho đến thời điểm hiện tại, chưa có văn bản chính thức nào của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để quy định cụ thể, chi tiết về giám sát và cơ chế giám sát trong nội bộ cơ quan hành chính nhà nước. Như đã trình bày ở phần trên, công tác giám sát là sự theo dõi, quan sát, xem xét hoạt động của các tổ chức có thẩm quyền mang tính chủ động, thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để bắt buộc và hướng hoạt động của các tổ chức và cá nhân chịu sự giám sát thực hiện đúng những điều đã quy định.

Nhưng chúng ta mới chỉ có những quy định về kiểm soát quyền lực nhà nước; về giám sát giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước; mà thực chất là kiểm soát quyền lực giữa các thành tố cấu thành quyền lực nhà nước (giữa các cơ quan thuộc hệ thống lập pháp, hành pháp, tư pháp và giữa quyền lực nhà nước ở Trung ương với địa phương). Đây là mối quan hệ hữu hiệu nhất đã được thiết lập để kiểm soát quyền lực trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan thuộc hệ thống lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tuy nhiên, việc giám sát trong nội bộ các cơ quan trong bộ máy nhà nước nói chung; trong nội bộ cơ quan hành chính nhà nước nói riêng lại chưa có những văn bản chính thức quy định.

Trong thực tế tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước, có những văn bản của các cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước khác quy định về giám sát, kiểm soát cơ quan hành chính nhà nước, nhưng về từng lĩnh vực riêng rẽ. Ví dụ, về giám sát công tác cán bộ, ngay từ Điều lệ Đảng (sửa đổi) được thông qua tại Đại hội ĐBTQ lần thứ III của Đảng (năm 1960) đã yêu cầu “Phải tăng cường công tác kiểm tra và giám sát của Đảng đối với cán bộ và cơ quan nhà nước, giữ gìn kỷ luật nghiêm minh, xử lý thích đáng đối với những phần tử quan liêu gây tác hại nghiêm trọng cho Đảng và Nhà nước”. Ngày 25/02/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 179-QÐ/TW về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ (thay thế Quy chế về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ ban hành kèm theo Quyết định số 58-QÐ/TW ngày 07/5/2007).

Về chế độ giám sát công tác cán bộ, Quy định số 179-QÐ/TW nêu rõ tổ chức đảng cấp trên có chương trình, kế hoạch giám sát công tác cán bộ thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý, lĩnh vực được phân công phụ trách hoặc theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy giám sát các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy, tổ chức đảng thuộc quyền quản lý, cấp ủy cấp dưới trực tiếp, cấp ủy viên cùng cấp và cán bộ các đơn vị làm công tác tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ. Ban tổ chức và ủy ban kiểm tra giám sát tổ chức đảng thuộc cấp ủy quản lý, cấp ủy cấp dưới và các ban của cấp ủy cấp dưới trực tiếp, cấp ủy viên cùng cấp, cán bộ thuộc diện cấp ủy cùng cấp quản lý, người đứng đầu các ban của cấp ủy cùng cấp và cán bộ các đơn vị làm công tác tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ…

Quy định số 179-QÐ/TW cũng xác định rõ thẩm quyền của chủ thể kiểm tra, giám sát, bao gồm: được quyết định hoặc đề nghị, yêu cầu hủy bỏ, thu hồi các quyết định không đúng về công tác cán bộ; được yêu cầu tạm dừng việc thực hiện các nội dung trong công tác cán bộ đối với cán bộ, đảng viên có dấu hiệu vi phạm; chuyển ủy ban kiểm tra hoặc báo cáo tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét, giải quyết những trường hợp cán bộ và tổ chức đảng được phát hiện có dấu hiệu vi phạm…; nêu rõ phương pháp, hình thức kiểm tra, giám sát; đồng thời hướng dẫn cụ thể các nội dung kiểm tra, giám sát gồm: điều kiện, tiêu chuẩn cán bộ; công tác tiếp nhận, tuyển dụng cán bộ; công tác đánh giá cán bộ; công tác quy hoạch cán bộ; công tác điều động, luân chuyển cán bộ; việc phân công, phân cấp quản lý cán bộ; việc thực hiện chính sách cán bộ…

Hầu hết các quy định chúng ta đang có hiện nay đối với giám sát nội bộ cơ quan hành chính nhà nước là tập trung vào lĩnh vực kiểm soát trong khu vực công, bao gồm quy định về kiểm soát việc thực hiện công khai, minh bạch trong đầu tư công; trong mua sắm tài sản công; trong đầu tư xây dựng cơ bản; trong xây dựng, hoạch định chính sách… Để thực hiện cơ chế kiểm soát này, Nhà nước ban hành các văn bản quy định về định mức kinh phí, chế độ, trợ cấp, phụ cấp cụ thể; chế độ kế toán dành cho đơn vị hành chính sự nghiệp, chế độ kiểm soát… nhằm kiểm soát hoạt động tài chính của các đơn vị và làm cơ sở phục vụ công việc kiểm tra, kiểm soát từ cấp trên. Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước ở Trung ương ban hành, các cơ quan hành chính nhà nước cấp thấp hơn ban hành văn bản quy định thực hiện trong nội bộ và thường xuyên rà soát, sửa đổi phù hợp. Các tổ chức cấu thành cơ quan hành chính nhà nước thường có văn bản phân định chức năng nhiệm vụ và phân cấp, ủy quyền rõ ràng.

Về giám sát, hàng năm các đơn vị đều được đơn vị cấp trên kiểm tra quyết toán thu, chi ngân sách nhà nước; công việc kiểm tra nội bộ định kỳ được thực hiện. Tuy nhiên, công tác kiểm tra, giám sát nội bộ chuyên trách chưa được triển khai toàn diện, bài bản trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước. Các tổ chức như văn phòng, thanh tra, công đoàn, ban thanh tra nhân dân không phải là những tổ chức có chức năng giám sát nội bộ cơ quan hành chính nhà nước; càng không phải là những thiết chế đóng vai trò giám sát nội bộ đối với việc thực thi công vụ của cơ quan hành chính nhà nước.

Trong việc giám sát nội bộ cơ quan hành chính nhà nước, còn có việc thực hiện quy chế dân chủ trong cơ quan (hiện nay thực hiện theo Nghị định số 04/2015/NĐ-CP về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập) và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo Quy chế dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập, công chức, viên chức, người lao động trong cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập có quyền theo dõi, giám sát việc thực hiện trách nhiệm của người đứng đầu, của bộ máy lãnh đạo cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập trong việc thực hiện dân chủ trong quản lý, điều hành hoạt động của cơ quan, đơn vị; giữa lãnh đạo cơ quan, đơn vị với lãnh đạo bộ phận cấu thành; việc thực hiện chế độ công khai tài chính theo định kỳ hàng quý; các chế độ chính sách và việc đánh giá định kỳ đối với công chức, viên chức, người lao động; giải quyết các khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền; việc phối hợp với Công đoàn để tổ chức hội nghị công chức, viên chức và người lao động.

Thực tế việc triển khai thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập cho thấy các nội dung giám sát, kiểm tra của công chức, viên chức, người lao động được quy định rộng, bao gồm các nội dung sau đây:

a) Việc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác dài hạn, hàng năm, 6 tháng, hàng quý của cơ quan, đơn vị; dự toán, chi tiêu và quyết toán ngân sách hàng năm; thu chi các loại quỹ theo quy định của pháp luật và các khoản có huy động đóng góp của công chức, viên chức và lao động; chế độ mua sắm, quản lý, sử dụng tài sản công.

b) Việc thực hiện chế độ, chính sách của Nhà nước liên quan đến quyền, lợi ích chung của công chức, viên chức và lao động trong cơ quan, đơn vị, trong đó các vấn đề quan trọng phải được bàn bạc dân chủ và thống nhất ý kiến trong tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị, thông báo công khai tới công chức, viên chức và người lao động.

c) Công tác quy hoạch cán bộ, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại công chức, viên chức lãnh đạo.

d) Việc kê khai, minh bạch tài sản, thu nhập và công khai bản kê khai của công chức, viên chức; lựa chọn, cử công chức, viên chức đi đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ trong nước và nước ngoài;

đ) Việc nâng bậc lương thường xuyên, nâng lương trước thời hạn; thực hiện chế độ, chính sách khác của công chức, viên chức và người lao động.

e) Việc đánh giá công chức, viên chức, người lao động.

g) Việc thực hiện nội quy, quy chế của Học viện được tổ chức nghiêm túc và thông qua hoạt động giám sát, kiểm tra của công chức, viên chức, người lao động.

h) Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công chức, viên chức, người lao động và học viên.

i) Đảm bảo cho hoạt động của Ban thanh tra nhân dân.

Điều 12 Nghị định số 04/2015/NĐ-CP quy định cơ quan, đơn vị tổ chức để cán bộ, công chức, viên chức giám sát, kiểm tra thông qua ba hình thức giám sát, kiểm tra: một là, thông qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân của cơ quan, đơn vị; hai là, thông qua kiểm điểm công tác, tự phê bình và phê bình trong các cuộc họp định kỳ của cơ quan, đơn vị; ba là, thông qua hội nghị cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan, đơn vị.

Các quy định nêu trên của Đảng và Nhà nước có ý nghĩa rất lớn để các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu, xây dựng và ban hành văn bản quy định về giám sát nội bộ trong cơ quan hành chính nhà nước.

5. Vai trò của cơ chế giám sát nội bộ đối với việc thực thi công vụ của cơ quan hành chính nhà nước

Nghị quyết số 30c/NQ-CP ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 đã xác định trọng tâm cải cách hành chính trong giai đoạn 2011-2020 là: “Cải cách thể chế; xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, chú trọng cải cách chính sách tiền lương nhằm tạo động lực thực sự để công chức thực thi công vụ có chất lượng và hiệu quả cao; nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công”(8).

Căn cứ Nghị quyết số 30c/NQ-CP, Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 03/01/2012 về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2012 và Nghị quyết số 06/NQ-CP ngày 07/3/2012 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2011-2016, ngày 18/10/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1557/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức”, với mục tiêu chung là xây dựng một nền công vụ “Chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả”. Về vấn đề trách nhiệm của cơ quan nhà nước và công chức trong hoạt động thực thi công vụ, Quyết định số 1557/QĐ-TTg ngày 18/10/2012 quy định rõ và nhấn mạnh như sau: “Ban hành các quy định của Chính phủ đề cao trách nhiệm trong hoạt động thực thi công vụ của cán bộ, công chức và gắn chế độ trách nhiệm cùng kết quả thực thi công vụ với các chế tài về khen thưởng, kỷ luật, thăng tiến, đãi ngộ. Đặc biệt là đề cao trách nhiệm và thẩm quyền của người đứng đầu”(9). Qua đó, có thể thấy việc giám sát nói chung, giám sát nội bộ đối với việc thực thi công vụ của cơ quan hành chính nhà nước là vấn đề được Chính phủ rất quan tâm, coi trọng trong thời gian tới.

Trong xây dựng nền công vụ, dù ở bất kỳ quốc gia nào thì bộ máy hành chính nhà nước luôn đóng vai trò là yếu tố quyết định. Với bản chất là Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, Nhà nước CHXHCN Việt Nam phải thực hiện các trách nhiệm, nghĩa vụ đối với Nhân dân, cần làm những gì mà công dân không thể thực hiện được, nhằm đáp ứng, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội. Chẳng hạn như bảo vệ trật tự trị an, an toàn xã hội; hoạch định chính sách phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội, y tế, giáo dục, giao thông – vận tải, an ninh quốc phòng… và cung ứng, thực hiện các dịch vụ hành chính công. Những trách nhiệm, nghĩa vụ đó của Nhà nước, về thực chất là trách nhiệm, nghĩa vụ của bộ máy hành chính nhà nước, bởi bộ máy hành chính nhà nước được thành lập và duy trì để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội. Khi không thực hiện hoặc không hoàn thành các trách nhiệm, nghĩa vụ đối với Nhân dân, bộ máy hành chính nhà nước phải chịu các hình thức trách nhiệm trước Nhân dân, trước xã hội.

Khác với các lao động xã hội khác, hoạt động công vụ của bộ máy hành chính nhà nước do công chức nhà nước thực hiện, mang tính quyền lực nhà nước, bắt nguồn từ quyền lực công, phục vụ cho việc ban hành các quyết định quản lý hành chính nhà nước, đáp ứng ứng các dịch vụ của Nhân dân và tổ chức. Hoạt động công vụ của bộ máy hành chính nhà nước tác động tới mọi mặt đời sống xã hội, trực tiếp hay gián tiếp động chạm tới quyền, tự do, lợi ích công dân, hoặc cả cộng đồng. Khi thực thi công vụ, bộ máy hành chính nhà nước phải lấy lợi ích của công dân, Nhà nước, xã hội làm mục tiêu, căn cứ, tiêu chuẩn cho việc thực thi công vụ. Khi các cơ quan hành chính nhà nước và công chức không thực hiện trách nhiệm tích cực, vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho công dân, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, họ “bước vào” một quan hệ pháp luật mới và phải chịu những hậu quả bất lợi nhất định về vật chất hoặc tinh thần. Vì theo nghĩa là hậu quả bất lợi, trách nhiệm công vụ là một loại trách nhiệm pháp lý, là sự phản ứng của Nhà nước đối với cơ quan và công chức khi thực hiện một hành vi hành chính trong quá trình thực thi công vụ, trái pháp luật hoặc trái quyết định của cơ quan cấp trên gây thiệt hại, xâm phạm tới quyền, tự do, lợi ích hợp pháp của công dân, thể hiện ở sự áp dụng các chế tài pháp luật tương ứng, mà hậu quả là cơ quan hoặc công chức phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, thiệt hại về vật chất, tinh thần.

Hiệu quả hoặc hậu quả (nếu có) của các hành vi thực thi công vụ nêu trên, dù của cá nhân công chức hay tập thể cơ quan hành chính nhà nước đều chủ yếu xảy ra, tác động và thể hiện bên ngoài cơ quan hành chính nhà nước; do đó, việc giám sát nội bộ để ra quyết định và hành vi công vụ đúng đắn để phát huy hiệu quả và ngăn ngừa hậu quả của các quyết định và hành vi công vụ là rất quan trọng. Chính vì vậy, Đảng ta đã nhấn mạnh trong quá trình xây dựng, phát triển đội ngũ công chức, cần phải rất chú trọng đến việc “Rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy chế quản lý cán bộ, công chức; phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền của mỗi cán bộ, công chức; tăng cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm của hoạt động công vụ”(10).

Danh mục tài liệu tham khảo:

1. Dẫn lại theo Từ điển vi tính Wikipedia.

2. Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb Khoa học xã hội, 1996.

3. Từ điển vi tính Bamboo Alpha2.

4. Xem chi tiết tại địa chỉ:caicachhanhchinh.gov.vn/Uploads/…/bai3.doc.

5. Những vấn đề cơ bản về tổ chức quyền lực nhà nước, cải cách chế độ công vụ và đánh giá chính sách công (tài liệu phục vụ thi nâng ngạch công chức từ chuyên viên chính lên chuyên viên cao cấp), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2014.

6. Lương Thanh Cường, Xây dựng nguyên tắc hoạt động công vụ nhà nước trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại địa chỉ: http://thanhtra.edu.vn/category/detail/290-xay-dung-nguyen-tac-hoat-dong-cong-vu-nha-nuoc-trong-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam.html. Và: Những vấn đề cơ bản về tổ chức quyền lực nhà nước, cải cách chế độ công vụ và đánh giá chính sách công (tài liệu phục vụ thi nâng ngạch công chức từ ngạch chuyên viên chính lên ngạch chuyên viên cao cấp), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2014.

7. Báo cáo tổng kết thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính  nhà nước giai đoạn 2001-2010 và hương trình cải cách hành chính  nhà nước giai đoạn 2011-2020 của Chính phủ.

8. Chính phủ, Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020.

9. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 1557/QĐ-TTg ngày 18/10/2012 phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức”.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XI, Nxb CTQG-ST, H, 2011.

11.https://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/tieudiem/cai-cach-bo-may-tu-chinh-sach-tang-luong-30-moi-nam-674868.html?vnn_source=trangchu&vnn_medium=moinong1

Bài viết tham khảo: Cơ chế giám sát nội bộ đối với việc thực thi công vụ trong cơ quan hành chính nhà nước; TS. Trần Nghị – Tổng biên tập Tạp chí Tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ