Đến nay, Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đã được thực hiện một bước, cũng có thể nói là đã hoàn thành giai đoạn một, từ 2005-2010. Hiện tại, UBTVQH đang chỉ đạo việc sơ kết thực hiện Kế hoạch 900 về triển khai thực hiện Nghị quyết 48 của Bộ Chính trị. Để góp phần vào việc sơ kết, đánh giá, bài viết nêu một vài ý kiến về quan niệm hệ thống pháp luật hoàn thiện, nhằm tạo cơ sở cho những đánh giá về kết quả thực hiện giai đoạn một của Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.
1. Quan niệm về hệ thống pháp luật
Về lý thuyết, theo quan điểm pháp luật truyền thống thì hệ thống pháp luật là “tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân định thành các chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản do Nhà nước ban hành theo những trình tự, thủ tục và hình thức nhất định”1. Quan niệm này cho thấy, hệ thống pháp luật là một khái niệm chung gồm hai mặt:
Thứ nhất, tổng thể các quy phạm pháp luật là hệ thống cấu trúc (bên trong) của pháp luật, có mối quan hệ nội tại thống nhất với nhau. Hệ thống cấu trúc có ba thành tố: quy phạm pháp luật là thành tố nhỏ nhất; nhiều quy phạm pháp luật có cùng tính chất, đặc điểm hình thành nên chế định pháp luật; tập hợp các chế định pháp luật có liên quan và gần gũi với nhau tạo nên ngành luật.
Thứ hai, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, được coi là hệ thống nguồn của pháp luật, là hình thức biểu hiện bên ngoài của pháp luật hay hình thức tồn tại của pháp luật. Quan điểm về nguồn luật của chúng ta hiện nay mới chỉ công nhận các văn bản pháp luật là nguồn luật nên hệ thống các văn bản pháp luật hay nguồn luật cũng chính là hệ thống pháp luật thực định.
Theo quan điểm nói trên thì khái niệm hệ thống pháp luật dù được phân tích và thể hiện thế nào (có cấu trúc bên trong và hình thức bên ngoài) vẫn không thoát khỏi cái nhìn về một hệ thống pháp luật thành văn. Nói cách khác, hệ thống pháp luật ở đây gần như đồng nghĩa với hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của một quốc gia.
>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoạigọi: 1900.0191
Luật sư tư vấn & bào chữa tại tòa án – Ảnh minh họa
Tuy nhiên gần đây, nhiều nhà nghiên cứu, người làm công tác thực tiễn trong giới luật học đã có một cách nhìn khác, một quan niệm khác về khái niệm hệ thống pháp luật (theo quan điểm hiện đại ở các nước phát triển). Luận bàn về khái niệm hệ thống pháp luật theo quan điểm hệ thống pháp luật chỉ bao gồm hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật (bao gồm cả cấu trúc bên trong là hệ thống các quy phạm pháp luật) họ cho rằng, đây là quan điểm cũ kỹ, theo trường phái pháp luật Xô viết trước đây, hiểu hệ thống pháp luật với một nghĩa hẹp, chưa bao quát được hết những yếu tố có mối quan hệ biện chứng và logic với nhau xoay quanh hạt nhân trung tâm là hệ thống các văn bản pháp luật thành văn. Theo đó, nhiều người đã thừa nhận quan điểm mới cho rằng, hệ thống pháp luật bao gồm bốn bộ phận, nói cách khác, có bốn trụ cột trong cấu trúc hệ thống pháp luật, đó là: 1) hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật; 2) các thiết chế bảo đảm cho việc thực thi pháp luật; 3) tổ chức thi hành pháp luật; 4) nguồn nhân lực và việc đào tạo nguồn nhân lực làm công tác pháp luật và nghề luật2.
Trong bốn trụ cột nói trên thì hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật là trụ cột quan trọng nhất, là xương sống của hệ thống pháp luật (theo quan điểm hiện đại, bộ phận này được gọi là hệ thống nguồn luật, bao gồm không chỉ hệ thống các văn bản pháp luật mà có án lệ, thậm chí gồm cả các học thuyết pháp lý). Nếu thiếu các yếu tố khác, có thể chúng ta vẫn có một hệ thống pháp luật dù không hoàn chỉnh nhưng nếu thiếu hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật thì không thể nói đến sự tồn tại của một hệ thống pháp luật3.
Các thiết chế bảo đảm cho việc thực thi pháp luật là trụ cột thứ hai, gồm các tổ chức, các cơ quan hoặc các định chế cần thiết khác được hình thành một cách tương ứng với hệ thống văn bản pháp luật (hệ thống nguồn luật), để bảo đảm cho việc thực thi có hiệu quả hệ thống văn bản pháp luật. Nếu có một hệ thống các văn bản pháp luật đầy đủ nhưng thiếu các thiết chế cần thiết để thực thi các quy định của pháp luật, để đưa pháp luật vào cuộc sống thì hệ thống văn bản pháp luật đó cũng trở nên ít ý nghĩa và kém hiệu quả.
Thực tiễn tổ chức thi hành pháp luật là một trụ cột nữa của hệ thống pháp luật mà người ta thường ít để ý đến, nhưng cũng rất quan trọng. Nếu có một hệ thống văn bản pháp luật đầy đủ nhưng không hoặc ít chú ý đến việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật, đặc biệt là việc bảo đảm những nguồn lực cần thiết cho việc thực hiện pháp luật không tương xứng với những quy định của pháp luật, thì cũng làm giảm hiệu quả điều chỉnh của pháp luật.
Và cuối cùng, nguồn nhân lực và việc đào tạo nguồn nhân lực làm công tác pháp luật, nghề luật là trụ cột thứ tư trong khái niệm hệ thống pháp luật. Bộ phận này tưởng như chỉ là hệ quả tất yếu của các trụ cột nói trên nhưng trên thực tế, đào tạo nguồn nhân lực và việc bảo đảm nguồn nhân lực làm công tác pháp luật lại chính là cơ sở bảo đảm cho việc hiện thực hóa tất cả các trụ cột khác trong hệ thống pháp luật, từ đội ngũ các chuyên gia xây dựng pháp luật đến đội ngũ những người làm công tác giáo dục, tuyên truyền pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật, những người làm công tác xét xử, hoạt động tư pháp khác, Luật sư của LVN Group, công chứng…
Nhìn lại bốn trụ cột nói trên, chúng ta thấy rằng, quan niệm về một hệ thống pháp luật hiện đại có lẽ cần được hiểu như vậy, vì đây là bốn yếu tố có mối quan hệ nội tại, biện chứng và logic với nhau, không thể tách rời nhau. Nếu thiếu đi một khâu, một mắt xích trong hệ thống thì hệ thống đó sẽ không còn là một chỉnh thể, mà yếu tố bản chất, trước hết của một hệ thống đó là tính chỉnh thể, là sự cùng tồn tại của các yếu tố có mối quan hệ nội tại, gắn bó mật thiết với nhau.
Từ quan niệm về một hệ thống pháp luật theo quan điểm hiện đại nói trên, chúng ta cần xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ với đủ bốn yếu tố hay bốn trụ cột. Và khi đánh giá, xem xét về một hệ thống pháp luật phải đánh giá toàn diện trên cả bốn phương diện đó.
2. Quan niệm về sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật
Nếu quan niệm hệ thống pháp luật như nói trên thì một hệ thống pháp luật hoàn thiện (hiểu theo nghĩa tương đối) là hệ thống có đủ bốn trụ cột nói trên, và điều quan trọng hơn, sự phát triển của bốn trụ cột ấy phải đạt đến một trình độ nhất định, phù hợp và đáp ứng các yêu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với đời sống kinh tế – xã hội, đồng thời, cũng cần phải có sự phát triển hài hòa, tương xứng của cả bốn trụ cột.
Tuy nhiên, đó chỉ là trên phương diện lý thuyết về một hệ thống pháp luật hoàn thiện. Chiến lược của chúng ta là xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, và để đánh giá về một giai đoạn triển khai thực hiện Chiến lược chúng ta cần tiếp cận vấn đề trên khía cạnh của thực tiễn hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Với cách nhìn như vậy, ý kiến của chúng tôi dưới đây không đi sâu phân tích về sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật Việt Nam theo bốn trụ cột nói trên mà phân tích ở khía cạnh thực tiễn xây dựng pháp luật để trả lời câu hỏi: muốn đạt được một hệ thống pháp luật hoàn thiện như tinh thần của Nghị quyết 48 thì xét trên góc độ của thực tiễn xây dựng và thực thi pháp luật, chúng ta phải làm gì và đã làm được gì?
Theo chúng tôi, một hệ thống pháp luật cần phải được xây dựng và hoàn thiện trên cả ba phương diện (cũng có thể nói đây là ba giai đoạn cho việc soạn thảo, thông qua và thực thi một đạo luật): 1) đề án hóa chính sách – hình thành ý tưởng chính sách; 2) quy phạm hóa chính sách – thể chế hóa chính sách thành pháp luật; 3) hiện thực hóa chính sách – tổ chức thi hành pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống xã hội.
Thực tiễn xây dựng và thực thi pháp luật ở Việt Nam thời gian qua cho thấy, chưa có sự đồng bộ thực sự và nhuần nhuyễn của cả ba hoạt động nói trên. Có thể nói, do quan niệm truyền thống về hệ thống pháp luật của chúng ta chỉ là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật đã dẫn đến sự tách bạch, rời rạc của các hoạt động liên quan. Tức là chúng ta mới chỉ quan tâm nhiều đến khâu giữa – khâu xây dựng hệ thống các văn bản pháp luật mà ít quan tâm đến khâu đầu – khâu phân tích chính sách, hình thành định hướng chính sách và khâu sau – khâu hiện thực hóa chính sách, đưa chính sách, pháp luật vào cuộc sống. Và do khâu đề án hóa chính sách kém dẫn đến sự thiếu khả thi của các chương trình xây dựng luật, pháp lệnh (buộc phải điều chỉnh nhiều: hoãn, rút, thêm, bớt); sự lúng túng, chậm trễ trong khâu soạn thảo, quy phạm hóa chính sách. Và khi văn bản pháp luật đã ra đời rồi thì cũng ít quan tâm đến việc tổ chức thi hành pháp luật, đến sức sống của văn bản trong thực tiễn. Tức là khâu hiện thực hóa chính sách cũng rất yếu, biểu hiện như: chậm trễ trong ban hành các văn bản quy định chi tiết thi hành luật; thiếu các thiết chế và các nguồn lực tương xứng để triển khai thi hành luật, dẫn đến hiệu quả điều chỉnh của pháp luật không cao.
Với cách nhìn nhận và đánh giá nói trên, chúng tôi đưa ra một nhận xét khái quát về thực trạng và mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay (về hình thức) là: chúng ta mới chỉ làm tương đối tốt ở khâu giữa là xây dựng hệ thống văn bản pháp luật, còn khâu đầu và khâu cuối là phân tích, định hướng chính sách và tổ chức thi hành pháp luật còn rất yếu kém.
3. Kiến nghị quy trình ba giai đoạn trong hoạt động xây dựng và thực thi pháp luật, bảo đảm cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong thời gian tới4
3.1. Giai đoạn Đề án hóa chính sách
Theo chúng tôi và cũng là kinh nghiệm xây dựng pháp luật của các nước trên thế giới, giai đoạn phân tích chính sách là rất quan trọng. Việc phân tích chính sách và xây dựng đề án chính sách để chuẩn bị cho việc thể chế hóa chính sách cũng tương tự như chúng ta xác định tư tưởng cho việc xây dựng một chiến lược, hình thành lộ trình cho một chuyến đi, lập bản vẽ thiết kế cho một công trình kiến trúc… Chúng ta không thể xây dựng chiến lược về một lĩnh vực mà không có tư tưởng hay ý tưởng ở tầm chiến lược về lĩnh vực đó, không thể xây dựng công trình kiến trúc mà không có bản vẽ thiết kế, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật cho một thời kỳ mà không có chiến lược. Tương tự như vậy, việc xây dựng một đạo luật không đơn thuần như dựng một túp lều cỏ mà là xây dựng một công trình kiến trúc, và vì vậy, để chuẩn bị cho sự ra đời của một đạo luật, dứt khoát phải có các ý tưởng chính sách đã được phê duyệt.
Vậy, chính sách là gì và mối quan hệ giữa chính sách với pháp luật như thế nào?5. Chúng tôi quan niệm rằng, chính sách là cơ sở nền tảng để chế định nên pháp luật. Nói cách khác, pháp luật là kết quả của sự thể chế hóa chính sách. Có thể có chính sách chưa được luật pháp hóa (thể chế hóa), hoặc cũng có thể không bao giờ được luật pháp hóa vì nó không được lựa chọn để luật pháp hóa khi không còn phù hợp với tư tưởng hay thực tiễn, nhưng sẽ không có pháp luật phi chính sách hay pháp luật ngoài chính sách. Theo nghĩa đó, chính sách chính là linh hồn, là nội dung “vật chất” của pháp luật, còn pháp luật là hình thức, là phương tiện thể hiện của chính sách. Và vì vậy, chính sách và pháp luật là hai phạm trù rất gần gũi và có những điểm giao nhau, là cơ sở tồn tại của nhau. Tuy nhiên, khi đã được thể chế hóa thì, vì chính sách là nội dung, pháp luật là hình thức nên chính sách có vai trò chi phối, quyết định đối với pháp luật. Khi tư tưởng chính sách thay đổi, pháp luật phải thay đổi theo. Ngược lại, pháp luật là công cụ hiện thực hóa chính sách, chính sách mà không được thể chế hóa thành pháp luật thì rất có thể sẽ chỉ là một thứ “bánh vẽ”, nằm trên giấy, khó có thể đi vào và phát huy hiệu quả trong cuộc sống.
Bởi vậy, trong hoạt động lập pháp, cần phải nhận thức và cư xử cho đúng mối quan hệ phụ thuộc và ràng buộc lẫn nhau giữa hai khái niệm, hai phạm trù: chính sách và pháp luật, trong đó có thể hiểu pháp luật là một phạm trù “hai trong một” – pháp luật là sự thể hiện của chính sách và cũng chính là chính sách. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động lập pháp của Việt Nam trong thời gian qua đã không xử lý tốt mối quan hệ này.
Chúng tôi cho rằng, một trong những nhược điểm lớn nhất của quy trình lập pháp hiện nay là chúng ta đã đồng nhất quy trình hoạch định và xây dựng chính sách với quy trình làm luật (quy trình soạn thảo và thông qua luật). Điều đó cũng có nghĩa chúng ta đồng nhất quy trình nội dung với quy trình hình thức (kỹ thuật), vì quy trình xây dựng chính sách thực chất là hình thành các nội dung “vật chất” cho một đạo luật, còn quy trình làm luật (soạn thảo luật) chỉ là một quy trình kỹ thuật – viết luật.
Thực tiễn pháp lý (các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật) và thực tiễn xây dựng luật, pháp lệnh ở nước ta thời gian qua đã chỉ rõ việc lồng ghép hai quy trình, hai hoạt động nói trên. Sau khi dự án luật, pháp lệnh đã được Quốc hội quyết định đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh thì Ban soạn thảo vừa phải thực hiện các hoạt động tổng kết đánh giá thực trạng pháp luật, thực tiễn thi hành luật; vừa phải khảo sát, tham khảo kinh nghiệm, thu thập và đánh giá thông tin; vừa phải định hướng phạm vi, nội dung điều chỉnh về mặt chính sách; vừa phải xây dựng (thiết kế) các điều luật (các quy phạm pháp luật); vừa phải dự báo đánh giá tác động của luật. Tất nhiên, nhà làm luật không thể không nghiên cứu chính sách, không phải chỉ biết thể chế hóa chính sách thành các quy phạm pháp luật, vấn đề mà chúng tôi muốn nhấn mạnh là thực hiện nó ở mức độ nào và điều quan trọng là không nên lồng ghép tất cả những hoạt động đó trong một quy trình, thậm chí là một giai đoạn.
Cơ sở pháp lý cũng như thực tiễn của quy trình lập pháp xét ở một vài khía cạnh trên đây cho thấy, chúng ta đang lồng ghép, đang đồng nhất hai quy trình, hai giai đoạn: xây dựng chính sách và xây dựng luật. Thực trạng này cùng với nhiều vấn đề tồn tại đáng bàn khác của quy trình lập pháp theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành đã đem đến hệ quả: việc hình thành chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm còn mang yếu tố cảm tính, thiếu cơ sở là các đề án chính sách, dẫn đến chương trình thiếu tính khả thi, còn điều chỉnh, rút hoặc hoãn rất nhiều; việc soạn thảo luật kéo dài, không đáp ứng được yêu cầu đẩy nhanh tiến độ cũng như đòi hỏi ngày càng nhiều hơn số lượng các luật cần phải được ban hành, sửa đổi đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; tình trạng lúng túng, không rõ định hướng chính sách gây chậm trễ trong soạn thảo hoặc phải điều chỉnh chương trình xây dựng; đặc biệt là có khi luật được ban hành nhưng chưa thể đi vào cuộc sống hoặc không phù hợp với cuộc sống, do việc nghiên cứu xây dựng chính sách còn yếu, cũng tức là chưa đưa được cuộc sống vào luật. “Chúng ta thường chỉ quan tâm và băn khoăn về một vấn đề là tại sao luật không đi vào cuộc sống (tức là thường chỉ xem xét, đánh giá dưới góc độ thực thi pháp luật), theo chúng tôi, đó chỉ là hệ quả. Cái gốc của vấn đề chính là ở chỗ, chúng ta đã không đưa được cuộc sống vào luật, và nguyên nhân của lỗi lầm đó chủ yếu thuộc về những yếu kém trong khâu nghiên cứu và hoạch định chính sách!”6.
Từ đó, xét trên góc độ của quy trình lập pháp, chúng tôi kiến nghị, cần bóc tách giai đoạn xây dựng chính sách ra khỏi giai đoạn soạn thảo luật. Chỉ xây dựng luật khi đã có những nghiên cứu chín muồi về mặt chính sách. Cần phải xây dựng Đề án chính sách hoàn chỉnh trước khi quyết định xây dựng một dự án luật. Cơ quan, tổ chức có đề nghị xây dựng luật phải xây dựng Đề án chính sách và bảo vệ đề án đó trước các cơ quan đệ trình luật, thậm chí trước các Uỷ ban của Quốc hội và UBTVQH. Quốc hội chỉ chấp nhận đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm đối với các dự án luật, pháp lệnh đã có Đề án chính sách được xây dựng hoàn chỉnh theo đề nghị của UBTVQH7. Đề án chính sáchphải được giao cho các cơ quan chức năng – là các cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước hoặc nắm vững các vấn đề thuộc lĩnh vực dự kiến ban hành luật nghiên cứu và xây dựng. Việc giao nghiên cứu xây dựng Đề án chính sách nên được bắt đầu sớm, ngay từ khi hình thành những ý tưởng chính sách hay yêu cầu của thực tiễn cuộc sống, chí ít cũng là ngay sau khi Quốc hội thông qua nghị quyết về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của cả khoá Quốc hội.
Đề án chính sách chỉ là kết quả cuối cùng của giai đoạn phân tích và định hướng chính sách. Giai đoạn này theo chúng tôi gồm các hoạt động sau: 1) Hình thành ý tưởng chính sách; 2) Phân tích chính sách; 3) Định hướng chính sách; 4) Lựa chọn chính sách và xử lý chính sách; 5) Đánh giá tác động của chính sách. Có rất nhiều phương án lựa chọn và xử lý chính sách, trong đó luật pháp hóa chính sách, tức là cần phải ban hành mới hay sửa đổi, bổ sung đạo luật, văn bản quy phạm pháp luật chỉ là một phương án được lựa chọn. Và chúng tôi cho rằng, các cơ quan quản lý nhà nước cần phải tập trung nhiều hơn vào các hoạt động phân tích và hoạch định chính sách, điều hành chính sách ở tầm vĩ mô hơn là chỉ quan tâm đến các hoạt động sự vụ ở tầm vi mô, như phê duyệt các đề án, dự án hay cấp phép, chấp thuận…, thậm chí can thiệp cụ thể vào đời sống dân sự một cách không cần thiết.
3.2. Giai đoạn quy phạm hóa chính sách
Đây là giai đoạn thể chế hóa chính sách thành các văn bản quy phạm pháp luật. Sau khi Đề án chính sách được xây dựng và phê duyệt, dự án luật, pháp lệnh đã được Quốc hội chấp nhận đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm thì hệ quả của vấn đề này là Ban soạn thảo dự án luật không phải mất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc để đầu tư cho những hoạt động đánh giá và nghiên cứu xây dựng chính sách, như: tổng kết thực tiễn; đánh giá pháp luật; nghiên cứu kinh nghiệm, đánh giá thông tin; hoạch định ra những nguyên tắc, những định hướng về mặt chính sách… mà dành thời gian cho xây dựng dự thảo luật. Và nếu giai đoạn đề án hóa chính sách được làm tốt với đầy đủ năm hoạt động như nói trên, thì giai đoạn quy phạm hóa chính sách chỉ thuần túy là một hoạt động mang tính kỹ thuật. Dựa trên những định hướng chính sách đã được phân tích, lựa chọn và phê duyệt, các nhà làm luật sẽ thiết kế thành các điều luật và sản phẩm cuối cùng là một dự thảo luật.
Việc bóc tách giai đoạn xây dựng Đề án chính sách ra khỏi giai đoạn soạn thảo luật, phân biệt rạch ròi hai giai đoạn như nói trên, theo chúng tôi sẽ đem lại nhiều ưu việt hơn quy trình hiện hành ở những điểm sau:
Thứ nhất, việc phân định rạch ròi hai giai đoạn nói trên giúp cho Quốc hội có đủ cơ sở trong việc lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm. Chương trình sẽ khả thi hơn rất nhiều nếu Quốc hội nhất quán một nguyên tắc là chỉ đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm các dự án luật, pháp lệnh có Đề án chính sách đã được phê duyệt.
Thứ hai, sẽ rút ngắn được nhiều thời gian soạn thảo một dự án luật. Thông thường hiện nay, một dự án luật từ khi chuẩn bị soạn thảo đến khi thông qua phải mất vài ba năm, nhưng nếu bóc tách được hai quy trình, hai công đoạn nói trên thì việc soạn thảo (quy phạm hoá chính sách) và thông qua một dự án luật có lẽ chỉ cần đến một năm. Và nếu làm theo quy trình này, chúng tôi cho rằng, một dự án luật không cần thiết phải đưa ra xem xét ở hai kỳ họp Quốc hội như hiện nay, trừ những dự án có vấn đề về mặt thủ tục hay chưa bảo đảm về mặt chất lượng để xem xét và thông qua trong một kỳ họp. Và như vậy, Quốc hội có thể xem xét và thông qua được nhiều luật hơn trong một kỳ họp.
Thứ ba, nếu việc chuẩn bị tốt về mặt chính sách bằng một đề án được nghiên cứu và xây dựng công phu, bài bản thì chắc chắn sẽ nâng cao chất lượng của dự án luật, cuộc sống sẽ đi vào luật nhiều hơn và cũng tức là luật sẽ đi vào cuộc sống được tốt hơn. Đồng thời, nó kéo theo nhiều hệ quả tiến bộ khác, như: việc soạn thảo luật sẽ được linh hoạt hơn, Quốc hội không nhất thiết phải giao cho cơ quan đã chủ trì xây dựng Đề án chính sách hay cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực đó soạn thảo luật mà có thể giao cho một cơ quan khác hoặc một ban soạn thảo độc lập được thành lập bởi UBTVQH hay Chính phủ mà không thuộc một bộ hay cơ quan nào, thậm chí có thể áp dụng cơ chế đấu thầu để các cơ quan, tổ chức, các viện nghiên cứu, kể cả các công ty luật cũng có thể tham gia đấu thầu xây dựng các dự án luật; từ đó sẽ hạn chế được tình trạng “luật khung”; xóa bỏ được tính cục bộ lợi ích của ngành nọ, ngành kia vẫn thường tồn tại khá phổ biến trong các luật như hiện nay.
3.3. Giai đoạn hiện thực hóa chính sách
Ở đây, chúng tôi muốn đề cập đến giai đoạn tổ chức thi hành pháp luật. Một văn bản pháp luật được ban hành mới chỉ là công đoạn thể chế hóa chính sách thành pháp luật, để văn bản pháp luật đi vào cuộc sống, phát huy hiệu quả trong cuộc sống cần phải tổ chức thi hành pháp luật. Có thể nói, hình như từ trước tới nay mỗi khi thông qua, ban hành được một đạo luật, một văn bản quy phạm pháp luật là chúng ta đã cảm thấy thành công, đã cảm thấy thỏa mãn. Xét rộng ra, chúng ta cứ tưởng rằng hoàn thiện hệ thống pháp luật chỉ cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật là đủ, là đã chạm được tay mình vào “đỉnh vinh quang” của pháp luật! Việc ít quan tâm đến tổ chức thi hành pháp luật có lẽ chính là sai lầm của chúng ta, dẫn đến một loạt hệ quả là: luật đi vào cuộc sống chậm hoặc không đi vào cuộc sống; hiệu quả điều chỉnh của pháp luật nói chung còn thấp; tính tuân thủ pháp luật không cao, vi phạm pháp luật nhiều nhưng xử lý không nghiêm hoặc ít bị xử lý, trường hợp xử lý có khi thiếu khách quan, không đúng luật hoặc tư lợi, tham nhũng gây mất lòng tin, từ đó nảy sinh tình trạng người vi phạm pháp luật “nhờn luật” như con bệnh nhờn thuốc kháng sinh trở nên đáng báo động, người dân thờ ơ với những hành vi vi phạm pháp luật hoặc không dám ra tay can thiệp hay tố cáo những hành vi vi phạm pháp luật.
Các biểu hiện cụ thể của tình trạng tổ chức thi hành pháp luật kém là:
– Việc ban hành các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật chậm. Đây có lẽ là một căn bệnh kinh niên trong tổ chức triển khai thi hành luật, pháp lệnh lâu nay. Tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh có thời điểm (như giữa năm 2006) lên đến 60% số lượng các văn bản cần ban hành nhưng chưa được ban hành khi luật, pháp lệnh đã có hiệu lực thi hành. Sau những nỗ lực của Văn phòng Chính phủ trong việc tham mưu cho Thủ tướng và Chính phủ khắc phục tình trạng này thì đến đầu năm 2008, tỷ lệ này đã giảm xuống còn hơn 10%. Thời gian gần đây, số văn bản nợ đọng lại có chiều hướng gia tăng. Vấn đề nợ đọng văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh vì thế thường được đặt ra, chất vấn trong các kỳ họp Quốc hội, đôi khi trở thành vấn đề bức xúc trên nghị trường.
– Thiếu các thiết chế tương ứng với các quy định của luật để có thể tổ chức triển khai thi hành luật hoặc để thực hiện những nội dung của luật. Ví dụ như cần có các cơ quan, tổ chức (thậm chí là phải được thành lập mới) để đảm nhận trách nhiệm tổ chức triển khai luật hoặc để bảo đảm hiện thực hóa những quy định của luật mà thiếu các cơ quan, tổ chức này thì không triển khai, không thi hành được hoặc hiệu quả thi hành không cao8.
– Thiếu các nguồn lực cần thiết, tương xứng với quy định của luật để triển khai thi hành luật. Ví dụ như: nguồn tài chính không có hoặc không đủ bảo đảm; nguồn nhân lực thiếu về số lượng hoặc không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng.
Nguyên nhân của tình trạng nói trên là do: 1) tình trạng duy ý chí trong xây dựng pháp luật ở cả giai đoạn phân tích, định hướng chính sách đến xây dựng chương trình và soạn thảo ban hành pháp luật; thiếu các nghiên cứu đầy đủ và đặc biệt là thiếu kinh nghiệm và hiểu biết thực tiễn (tình trạng xây dựng chính sách kiểu “chính sách phòng lạnh”) dẫn đến chính sách, pháp luật không phù hợp với thực tiễn, với trình độ phát triển kinh tế – xã hội, ý thức pháp luật; 2) sự bất tương xứng của các lĩnh vực chính sách, pháp luật có liên quan hay của các cơ sở hạ tầng về kinh tế, kỹ thuật, về xã hội khác, như về tài chính, thông tin, công nghệ, về nhận thức của cơ quan, người tổ chức thi hành pháp luật và cả người chấp hành pháp luật; 3) ý thức trách nhiệm của các cơ quan có liên quan trong tổ chức thi hành pháp luật chưa cao, kỷ luật, kỷ cương hành chính còn thấp. Và cuối cùng, 4) chúng tôi cho rằng, việc tổ chức thi hành pháp luật kém còn do chúng ta chưa có một văn bản pháp luật quy định, điều chỉnh về vấn đề này.
Giải pháp thúc đẩy tổ chức thực thi pháp luật có nhiều và cũng đã bàn đến nhiều nhưng tại sao lĩnh vực này vẫn chưa có những chuyển biến tích cực? Theo chúng tôi, nguyên nhân chính vẫn là chúng ta còn thiếu một nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của vấn đề và vì vậy, còn thiếu một quyết tâm ở tầm chính trị – pháp lý để tìm ra và triển khai những giải pháp toàn diện về vấn đề. Chúng tôi mạnh dạn đề xuất giải pháp là cần có đạo luật về tổ chức thi hành pháp luật. Trong hoạt động xây dựng pháp luật, chúng ta đã có Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đưa ra được những quy trình cũng như trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong đề xuất sáng kiến pháp luật, trong soạn thảo, thẩm định, thẩm tra và thông qua một dự án luật, một văn bản quy phạm pháp luật, nhưng chúng ta lại không có một đạo luật, thậm chí một văn bản ở cấp thấp hơn về tổ chức thi hành pháp luật. Chúng tôi cho rằng, cần phải sớm nghiên cứu ban hành đạo luật về tổ chức thi hành pháp luật. Đạo luật này sẽ quy định trách nhiệm trong tổ chức triển khai thi hành pháp luật của các cơ quan, tổ chức có liên quan, đặc biệt là trong hệ thống cơ quan hành pháp từ trung ương đến địa phương; quy định về quy trình, thủ tục trong tổ chức thi hành pháp luật và điều quan trọng hơn là đạo luật phải chế định rõ các chế tài xử phạt. Nếu chỉ quy định trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn, quy trình, thủ tục mà không quy định chế tài xử phạt đối với những hành vi thiếu trách nhiệm, vi phạm pháp luật; hoặc vi phạm mà không bị xử lý thì cũng sẽ rơi vào tình trạng “đánh trống bỏ dùi”.
(1) Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, H., 2009, tr. 401.
(2) Trong phạm vi bài viết, chúng tôi chỉ đưa ra hai quan điểm phổ biến về hệ thống pháp luật gắn với thực tiễn Việt Nam hiện nay, chưa bàn đầy đủ về các quan điểm, khái niệm hệ thống pháp luật hoặc cách phân chia các hệ thống, dòng họ pháp luật. Xin được trở lại vấn đề này trong một dịp khác.
(3) Tất nhiên là chúng tôi đang nói theo quan niệm của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa – hệ thống pháp luật thành văn chứ không phải theo hệ thống pháp luật Anh – Mỹ (Anglo-saxon) – hệ thống luật thông lệ).
(4) Ở đây, chúng tôi muốn nói đến một quy trình ba giai đoạn trong xây dựng và tổ chức thực thi pháp luật với mục đích kiến nghị cho việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện một cách có hiệu quả hệ thống pháp luật Việt Nam trong giai đoạn tới chứ không có ý định coi giai đoạn đề án hoá chính sách là một giai đoạn trong quy trình xây dựng pháp luật. Hoạt động (giai đoạn) xây dựng định hướng nội dung chính sách có nên coi là một giai đoạn của quy trình xây dựng pháp luật hay không xin được trao đổi trong một dịp khác.
(5) Xin tham khảo thêm: TS. Đinh Dũng Sỹ, Chính sách và mối quan hệ giữa chính sách với pháp luật trong hoạt động lập pháp, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 11 (127), tháng 7/2008.
(6) Xem: TS. Đinh Dũng Sỹ, Chính sách và mối quan hệ giữa chính sách với pháp luật trong hoạt động lập pháp, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 11 (127), tháng7/2008, tr. 41.
(7) Đây không phải là lần đầu tiên chúng tôi đưa ra đề xuất này. Chúng tôi đã có một nghiên cứu rất cơ bản với những giải pháp khá toàn diện tại kết quả nghiên cứu Tiểu đề án 2 của Đề án 2 thuộc Chương trình 909 (đây là một chương trình rất lớn về đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 909/2003/QĐ-TTg ngày 14/8/2003 – gọi tắt là Chương trình 909 – do Bộ Tư pháp làm chủ Chương trình với sự tham gia của nhiều cơ quan của Quốc hội, Chính phủ và đã được nghiệm thu năm 2007).
(8) Ngay cả việc triển khai thực hiện Nghị quyết 48 cũng rơi vào tình trạng tương tự: Tháng 5/2005, Bộ Chính trị ra Nghị quyết nhưng đến tháng 3/2007, UBTVQH mới có Kế hoạch triển khai, và đến nay vẫn chưa thành lập được Ban chỉ đạo quốc gia về triển khai thực hiện Chiến lược như đã ghi nhận trong Nghị quyết 48.
PGS, TS. Đinh Dũng Sĩ – Vụ Pháp luật, Văn phòng Chính phủ.
Theo: Tạp chí nghiên cứu lập pháp