Biên soạn:
1. Ths. Nguyễn Văn Toàn – Phó Vụ trưởng Vụ Hành chính – Tư pháp, Bộ Tư pháp.
2. Trần Thị Tú – Chuyên viên chính Vụ Hành chính – Tư pháp, Bộ Tư pháp;
3. Ths. Lê Thị Thu Hồng – Chuyên viên Vụ Hành chính – Tư pháp, Bộ Tư pháp;
4. Nguyễn Thị Ngọc Lâm – Chuyên viên Vụ Hành chính – Tư pháp, Bộ Tư pháp;
5. Vũ Thị Thảo – Chuyên viên Vụ Hành chính – Tư pháp, Bộ Tư pháp;
HỘI ĐỒNG PHỐI HỢP CÔNG TÁC
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CỦA CHÍNH PHỦ
QUỐC TỊCH
VÀ LUẬT QUỐC TỊCH VIỆT NAM
Phần thứ nhất:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUỐC TỊCH
1. Khái niệm về quốc tịch
Quốc tịch là một khái niệm ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến lên chủ nghĩa tư bản. Khái niệm này xuất hiện cùng với tư tưởng tiến bộ của cách mạng tư sản. Thông thường, người nào cũng có một tổ quốc và từ khi sinh ra đều mang một quốc tịch nhất định. Đây không chỉ là vấn đề tình cảm và tâm lý mà còn là mối liên hệ giữa cá nhân đó với nhà nước. Mối liên hệ này xác định địa vị pháp lý của họ. Trong các xã hội khác nhau, thời kỳ lịch sử khác nhau, công dân sẽ có địa vị pháp lý khác nhau. Địa vị pháp lý đó được củng cố và hoàn thiện hơn qua từng giai đoạn phát triển của xã hội. Bởi vậy, thời điểm lịch sử thay đổi dẫn đến khái niệm về quốc tịch, pháp luật về quốc tịch thay đổi.
Trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, quốc tịch là một chế định pháp lý bao gồm các quy định điều chỉnh hình thức và nội dung mối quan hệ pháp luật được thiết lập giữa cá nhân với một Nhà nước, trên cơ sở đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ qua lại giữa Nhà nước và công dân. Quốc tịch là căn cứ duy nhất xác định công dân của một Nhà nước, là “sự quy thuộc của một người vào một quốc gia nào đó”. Mỗi quốc gia có một chế định pháp lý khác nhau về quốc tịch, do vậy, Luật quốc tịch mỗi nước quy định cụ thể vấn đề về nhập quốc tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc tịch của mỗi công dân phù hợp với đặc thù của nước đó.
Pháp luật về quốc tịch của mỗi nước có những nội dung khác nhau trong đó có sự thừa nhận sự bình đẳng của các cá nhân với nhau trong mọi lĩnh vực đời sống đảm bảo thực hiện nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật phù hợp với luật quốc tế. Sự quy thuộc về mặt pháp lý trong vấn đề quốc tịch đồng nghĩa với việc một công dân nhận được các quyền lợi mà nhà nước và pháp luật nước này đảm bảo cho họ được thụ hưởng, đồng thời xác định trách nhiệm, nghĩa vụ của nhà nước đó đối với việc bảo vệ quyền lợi cho cá nhân trong mối quan hệ với cộng đồng dân cư của quốc gia mà họ là công dân, cũng như trong mối quan hệ quốc tế mà người đó tham gia nhân danh chính cá nhân họ.
Một yếu tố quan trọng góp phần cấu tạo nên quốc gia là cư dân sống trên lãnh thổ quốc gia và việc tổ chức Nhà nước có mối quan hệ qua lại với cư dân đó. Mỗi quốc gia có những tập hợp dân cư khác nhau và có mối quan hệ cũng rất khác nhau với Nhà nước. Mối quan hệ phức tạp này trong khoa học pháp lý gọi là quốc tịch.
Quốc tịch là một phạm trù chính trị – pháp lý, thể hiện mối quan hệ gắn bó, bền vững về chính trị và pháp lý giữa Nhà nước và cá nhân, là căn cứ pháp lý duy nhất xác định công dân của một Nhà nước và trên cơ sở đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ qua lại giữa Nhà nước và công dân.
Tuyên ngôn nhân quyền 1948 đã khẳng định “Tất cả mọi người đều có quyền có quốc tịch. Không ai được tùy tiện tước bỏ quốc tịch hoặc từ chối quyền thay đổi quốc tịch của người khác” (Điều 15 Tuyên ngôn nhân quyền 1948). Có thể nói, quyền có quốc tịch là kim chỉ nam xuyên suốt và là cơ sở đầu tiên cho việc thực thi các quyền công dân khác.
Theo từ điển Oxford của Anh: Quốc tịch là sự quy thuộc của một người vào một quốc gia nào đó. Theo từ điển Bách khoa Luật của Liên Xô cũ thì “quốc tịch là sự quy thuộc về mặt pháp lý và chính trị của một cá nhân vào một Nhà nước thể hiện mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước và cá nhân. Nhà nước quy định các quyền cho cá nhân là công dân của mình, bảo vệ và bảo hộ công dân đó ở nước ngoài. Về phần mình, công dân phải tuân theo pháp luật của Nhà nước và hoàn thành các nghĩa vụ đối với Nhà nước”. Còn các chuyên gia Mỹ thì cho rằng quốc tịch là một đặc tính phát sinh từ sự kiện quy thuộc của một người vào một quốc gia nào đó. Luật Quốc tịch Lào khẳng định: Quốc tịch Lào thể hiện mối quan hệ pháp luật và chính trị, ràng buộc một người nào đó với Nhà nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào và là cơ sở xác định người đó có địa vị là công dân Lào.
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 và Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 đều xác định: “Quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của cá nhân với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của công dân Việt Nam đối với Nhà nước và quyền, trách nhiệm của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với công dân Việt Nam”.
Như vậy, quốc tịch là một khái niệm, một phạm trù chính trị – pháp lý xác định một mối quan hệ giữa cá nhân một con người với một Nhà nước nhất định. Quan hệ này cho phép xác định con người nào đó là công dân của một nước cụ thể. Mỗi quốc gia có một chế độ pháp lý khác nhau về quốc tịch. Mối liên hệ pháp lý này được biểu hiện ở tổng thể các quyền và nghĩa vụ của người đó đối với quốc gia mà họ mang quốc tịch và tổng thể quyền và nghĩa vụ của quốc gia đối với công dân của mình. Do vậy, Luật quốc tịch quy định cụ thể về vấn đề nhập quốc tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc tịch, tước quốc tịch đối với công dân phù hợp với đặc thù của nước đó.
Quốc tịch gắn liền với mỗi con người từ khi sinh ra đến khi chết đi, là tiền đề để họ được hưởng các quyền công dân và làm nghĩa vụ công dân đối với nhà nước mà mình mang quốc tịch.
2. Nguyên tắc một quốc tịch, hai hay nhiều quốc tịch
2.1. Nguyên tắc một quốc tịch
Qua nghiên cứu Luật Quốc tịch của một số nước trên thế giới, chúng ta có thể nhận thấy rằng nguyên tắc một quốc tịch là nguyên tắc phổ biến nhất. Các nước theo nguyên tắc một quốc tịch như Trung Quốc, Hàn Quốc, Lào, Thái Lan, Nhật Bản, Nga, Đức… đưa ra các quy định nhằm đảm bảo nguyên tắc một quốc tịch là người nước ngoài muốn nhập quốc tịch của các nước này thì phải từ bỏ quốc tịch gốc của mình, công dân các nước này nếu tự nguyện nhập quốc tịch của nước ngoài sẽ đương nhiên mất quốc tịch gốc. Tuy nhiên ở một số nước, nguyên tắc một quốc tịch được đánh giá là nguyên tắc một quốc tịch mềm dẻo vì ngoài những trường hợp bắt buộc phải thôi quốc tịch, thì họ có thể được xem xét để được phép giữ quốc tịch gốc khi nhập quốc tịch nước ngoài.
Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là nước có nhiều dân tộc, người của các dân tộc đều mang quốc tịch Trung Quốc. Luật Quốc tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (15/6/2005) quy định người nước ngoài xin nhập quốc tịch Trung Quốc, ngoài các điều kiện quy định tại Điều 3 đến Điều 7 của Luật này như cư trú trên lãnh thổ Trung Quốc mỗi năm 183 ngày trong vòng 5 năm liên tục, đủ 20 tuổi trở lên, có vợ hoặc chồng là là công dân Trung Quốc, là con nuôi của công dân Trung Quốc…, người đó còn phải cung cấp Quyết định thôi quốc tịch của họ. Trường hợp người đó tuyên bố không thể có được Quyết định thôi quốc tịch mà lý do không phải do người đó và được điều tra, khẳng định điều đó là sự thật thì người đó không cần phải cung cấp Quyết định thôi quốc tịch.
Công dân Hàn Quốc tự nguyện nhập quốc tịch nước ngoài sẽ mất quốc tịch nước Cộng hoà Hàn Quốc ngay tại thời điểm nhập quốc tịch nước ngoài nếu người đó không gửi thông báo mong muốn được giữ quốc tịch Hàn Quốc đến Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong vòng 6 tháng kể từ khi người đó được nhập quốc tịch nước ngoài. Đối với những người đã mất quốc tịch Hàn Quốc do nhập quốc tịch nước ngoài thì nơi người đó được nhập quốc tịch sẽ là nơi cấp hộ chiếu đầu tiên đối với họ.
Nếu Luật Quốc tịch của Trung Quốc, Hàn Quốc quy định người xin nhập quốc tịch nước họ sẽ phải từ bỏ quốc tịch cũ thì Luật Quốc tịch Lào lại khẳng định tại Điều 2: Nhà nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào không cho phép công dân Lào cùng một lúc có nhiều quốc tịch.
Công dân Thái Lan đã nhập quốc tịch nước ngoài, hoặc người đã thôi quốc tịch Thái Lan, hoặc đã bị tước quốc tịch Thái Lan sẽ mất quốc tịch Thái Lan.
Người có quốc tịch Thái Lan mà có cha là người nước ngoài và có thể có quốc tịch của người cha theo pháp luật của nước mà người cha có quốc tịch sẽ mất quốc tịch Thái Lan nếu người này lấy thẻ căn cước người nước ngoài theo pháp luật về đăng ký người nước ngoài.
Tương tự như pháp luật một số nước trên thế giới, nguyên tắc xác định quốc tịch của Nhật Bản có sự kết hợp giữa truyền thống phương Đông và hội tụ những ưu điểm của luật pháp phương Tây. Đó chính là nguyên tắc một quốc tịch mềm dẻo. Bộ trưởng Bộ Tư pháp sẽ không đồng ý cho người nước ngoài nhập quốc tịch Nhật Bản nếu họ không xin thôi quốc tịch nước ngoài.
Tuy nhiên, trường hợp người nước ngoài không thể xin thôi quốc tịch hiện có của họ, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể cho phép họ nhập quốc tịch Nhật Bản, mặc dù người đó không đáp ứng được điều kiện này, nếu Bộ trưởng Bộ Tư pháp xét thấy hoàn cảnh ngoại lệ như có quan hệ với họ hàng với công dân Nhật Bản, hoặc một số trường hợp ngoại lệ khác.
Công dân nước ngoài được nhập quốc tịch Cộng hoà liên bang Nga trong trường hợp từ bỏ quốc tịch cũ của mình, nếu Điều ước quốc tế của Cộng hoà liên bang Nga không quy định khác. Việc xác định quốc tịch Nga có thể nói là linh hoạt, mềm dẻo, công dân Cộng hoà liên bang Nga có thể được cho phép, theo đơn yêu cầu của họ, đồng thời có quốc tịch của một nước mà Cộng hoà liên bang Nga có Điều ước quốc tế tương ứng quy định về vấn đề này.
Luật quốc tịch các nước không quy định thành nguyên tắc cứng nhưng quan điểm một quốc tịch là quan điểm xuyên suốt toàn bộ nội dung của Luật Quốc tịch các nước nêu trên, chỉ trừ những trường hợp đặc biệt luật quy định thì công dân của nước đó mới được phép mang hai quốc tịch.
2.2.Nguyên tắc hai hay nhiều quốc tịch
Bên cạnh các nước theo nguyên tắc một quốc tịch thì có một số nước cho phép công dân của nước họ có quyền mang hai hay nhiều quốc tịch.
Luật Quốc tịch Ôxtrâylia không bắt buộc người nước ngoài từ bỏ quốc tịch nước ngoài khi nhập quốc tịch Ôxtrâylia. Trong trường hợp kết hôn, công dân Ôxtrâylia có quyền mang cả hai quốc tịch.
Luật Quốc tịch Canada cũng có điểm tương đồng cơ bản nhất đó là cho phép công dân Canada có quốc tịch nước ngoài mà không bị mất quốc tịch Canada hoặc nhập quốc tịch Canada mà không phải thôi quốc tịch cũ của họ.
Theo nghiên cứu của một số nước thì việc có nhiều quốc tịch đem lại lợi ích thực tế cho bản thân như đảm bảo việc tìm kiếm việc làm hoặc lợi ích xã hội của từng cá nhân. Việc cho phép có hai quốc tịch có thể làm cho các cá nhân cảm thấy họ được gắn kết nhiều hơn vì họ có quan hệ chặt chẽ với nhiều quốc gia, họ thấy bản thân được tạo điều kiện hơn trong rất nhiều các lĩnh vực.
Tuy nhiên, vấn đề có nhiều quốc tịch cũng được một số nhà lập pháp dự liệu có thể đem lại bất lợi cho công dân của nước họ trong việc xung đột pháp luật giữa các nước và khó khăn đối với Nhà nước trong quan hệ quốc tế như tranh chấp về bảo hộ ngoại giao.
3. Các căn cứ để xác định quốc tịch
Việc xác định công dân có quốc tịch nước nào phải dựa trên những căn cứ pháp lý. Mỗi quốc gia đều có những căn cứ cụ thể để xác định quốc tịch cho công dân của mình.
Về cơ bản các quốc gia trên thế giới xác định quốc tịch theo ba nguyên tắc: nguyên tắc huyết thống, nguyên tắc lãnh thổ và nguyên tắc thỏa thuận quốc tế.
Nguyên tắc huyết thống: Nguyên tắc này quy định trẻ em sinh ra có cha mẹ, có cha hoặc mẹ là công dân nước nào thì được công nhận có quốc tịch nước đó. Trường hợp có xung đột về quốc tịch do cha và mẹ là công dân hai nước khác nhau thì pháp luật quy định lựa chọn quốc tịch cho con.
Nguyên tắc lãnh thổ: Nguyên tắc này quy định trẻ em sinh ra trên lãnh thổ nước nào thì mang quốc tịch nước đó nếu cha hoặc mẹ là công dân nước đó hoặc không xác định được cha mẹ là ai.
Nguyên tắc thỏa thuận quốc tế: Công ước Liên hợp quốc về hạn chế tình trạng không quốc tịch, các nước cam kết “hành động theo Nghị quyết 896 (IX) do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 04/12/1954; xem xét một cách thiện chí để giảm tình trạng không quốc tịch bằng một điều ước quốc tế”. Các quốc gia có thỏa thuận đa phương hoặc song phương về quốc tịch, những thỏa thuận này là cơ sở xác định một bộ phận dân cư nhất định thuộc quốc tịch nước nào.
Theo Luật Quốc tịch Cộng hòa Pháp, một người có quốc tịch Pháp theo hai con đường: hưởng quốc tịch Pháp và vào quốc tịch Pháp.
Hưởng quốc tịch Pháp dựa trên các quan hệ thuyết thống, do sinh ra trên lãnh thổ Pháp và có cha mẹ cũng được sinh ra tại Pháp.
Trẻ em sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Pháp thì có quốc tịch Pháp. Quan hệ huyết thống hình thành từ việc cho nhận con nuôi chỉ có hệ quả đối với việc hưởng quốc tịch Pháp khi việc cho con nuôi này được tiến hành theo chế định pháp lý con nuôi đầy đủ và tại thời điểm đó, trẻ em đang ở độ tuổi vị thành niên.
Bên cạnh căn cứ về huyết thống, trẻ em còn được hưởng quốc tịch Pháp do được sinh ra trên lãnh thổ nước Pháp và có cha hoặc mẹ cũng được sinh ra ở Pháp. Trẻ em sinh ra tại Pháp mà không rõ cha mẹ là ai hay cha mẹ là người không quốc tịch, hoặc cha mẹ không chuyển quốc tịch cho con thì được hưởng quốc tịch Pháp.
Ngoài ra, một người vào quốc tịch Pháp do kết hôn, do làm con nuôi trọn vẹn, do được sinh ra và cư trú tại Pháp, bằng cách khai xin nhập quốc tịch, xin trở lại quốc tịch.
Nếu như Luật Quốc tịch Pháp phân loại các căn cứ có quốc tịch Pháp thành hai loại: hưởng quốc tịch và vào quốc tịch thì Luật Quốc tịch Đức lại quy định rõ có 4 căn cứ chính: do sinh ra, do sự hợp pháp hóa, do được nhận làm con nuôi và thông qua việc nhập quốc tịch.
Người có quốc tịch Đức do sinh ra bao gồm con trong giá thú nếu có cha hoặc mẹ là công dân Đức, con ngoài giá thú nếu có mẹ là người Đức. Con ngoài giá thú của người đàn ông Đức được nhập quốc tịch Đức nếu việc xác định cha cho đứa trẻ đã có hiệu lực theo pháp luật của Đức, người con đã sinh sống thường xuyên ở trong nước từ 3 năm trở lên và làm đơn xin nhập quốc tịch trên cơ sở đơn yêu cầu, nếu phù hợp với các điều kiện tương tự xin gia nhập quốc tịch Đức.
Người có quốc tịch Đức do sự hợp pháp hoá bao gồm các trường hợp: con được bố là công dân Đức hợp pháp hoá mà sự hợp pháp hoá này có hiệu lực theo pháp luật của Đức được mang quốc tịch của bố hoặc thông qua việc kết hôn.
Việc nhận con nuôi cũng là căn cứ xác định quốc tịch cho trẻ em. Trẻ em chưa đủ 18 tuổi được công dân Đức nhận làm con nuôi thì được hưởng quốc tịch Đức.
Căn cứ thứ 4 để xác định quốc tịch Đức là thông qua việc nhập quốc tịch. Người nước ngoài định cư trong nước có thể được nhập quốc tịch theo đơn yêu cầu gửi tới Nhà nước Cộng hoà Liên bang Đức kèm theo việc đáp ứng các điều kiện của Luật Quốc tịch Cộng hoà liên bang Đức.
Ngoài những căn cứ cơ bản giống như các nước trên thế giới, Luật Quốc tịch Cộng hoà liên bang cũng như Luật Quốc tịch Việt Nam còn đưa ra căn cứ lựa chọn quốc tịch khi có thay đổi chủ quyền lãnh thổ quốc gia và do các lý do khác được quy định trong các Điều ước quốc tế.
Tương tự, nguyên tắc xác định Luật Quốc tịch Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc cũng theo thông lệ quốc tế là nguyên tắc lãnh thổ, nguyên tắc huyết thống và nguyên tắc thoả thuận quốc tế.
Xét về phương diện của mỗi quốc gia, quốc tịch gắn liền với mỗi con người kể từ khi sinh ra đến khi mất đi, là tiền đề để họ hưởng các quyền công dân và làm nghĩa vụ công dân trong quan hệ với Nhà nước mà mình mang quốc tịch. Do vậy, việc quy định các căn cứ xác định quốc tịch là nhiệm vụ quan trọng của các nhà làm luật.
>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoạigọi: 1900.0191
4. Điều kiện nhập quốc tịch
Trên cơ sở những căn cứ pháp lý để xác định quốc tịch, pháp luật mỗi nước quy định các điều kiện nhập quốc tịch cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước.
Đạo luật Quốc tịch Ôxtrâylia quy định các điều kiện về nhập quốc tịch Úc. Mọi cá nhân đang thường trú tại Ôxtrâylia đều có thể nộp đơn xin nhập quốc tịch Ôxtrâylia nếu họ đáp ứng đầy đủ các điều kiện luật định. Bộ trưởng Bộ Di trú và Đa sắc tộc Ôxtrâylia sau khi nhận được đơn theo đúng thể thức quy định sẽ cấp Giấy chứng nhận quốc tịch Ôxtrâylia cho đương sự nếu họ đáp ứng được các điều kiện : đủ 18 tuổi; hiểu được ý nghĩa của việc nộp đơn, có phẩm chất đạo đức tốt; đã thường trú tại Ôxtrâylia trong thời gian 2 năm trước khi nộp đơn; hiểu biết về quyền lợi và trách nhiệm của công dân Ôxtrâylia; sau khi được nhập quốc tịch phải thường xuyên có mối liên hệ chặt chẽ với đất nước Ôxtrâylia.
Đồng thời, Đạo luật Quốc tịch Ôxtrâylia quy định những trường hợp được ưu tiên, miễn trừ một số điều kiện đối với cá nhân đã phục vụ trong quân đội từ 3 tháng trở lên.
Có thể nói, hầu hết các nước Châu Á đều quy định điều kiện một người muốn nhập quốc tịch phải có khả năng đảm bảo cuộc sống. Điều này xuất phát từ điều kiện kinh tế – xã hội của từng nước, của khu vực. Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nhật Bản sẽ không đồng ý cho một người nhập quốc tịch Nhật Bản nếu họ không đáp ứng được các điều kiện về thời gian cư trú, về tư cách đạo đức, khả năng ngôn ngữ, về tư tưởng chính trị … như Luật Quốc tịch các nước quy định; ngoài ra con phải đáp ứng điều kiện: có khả năng đảm bảo cuộc sống của mình bằng nguồn tài sản tự có hoặc bằng khả năng của mình hoặc do vợ, chồng, những người họ hàng chi trả.
Xuất phát từ những quy định tại Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948), Công ước của Liên hợp quốc về hạn chế tình trạng không quốc tịch (1975) và đặc thù của mỗi nước, các nhà lập pháp quy định các điều kiện nhập tịch có những điểm tương đồng như mỗi cá nhân phải có phẩm chất đạo đức tốt, chưa bị kết án tù, có hiểu biết cơ bản về văn hóa của nước đó, từ 18 hoặc 20 tuổi trở lên, cư trú trên lãnh thổ nước đó một thời gian nhất định…Luật Quốc tịch các nước còn quy định cụ thể các trường hợp được miễn, giảm các điều kiện nhập quốc tịch để hạn chế tối đa tình trang không quốc tịch như tinh thần của Công ước của Liên hợp quốc về hạn chế tình trạng không quốc tịch.
5. Về vấn đề mất quốc tịch.
Bên cạnh những quy định về có quốc tịch, luật quốc tịch các nước còn quy định về vấn đề mất quốc tịch của một cá nhân. Nhìn chung, luật quốc tịch các nước có những quy định tương đối thống nhất, ít có xung đột pháp luật.
Luật quốc tịch Thái Lan quy định các trường hợp mất quốc tịch Thái Lan: do kết hôn, do tuyên bố từ bỏ, do bị tước quốc tịch, do có quốc tịch nước ngoài và một số trường hợp khác
Mất quốc tịch Thái Lan do kết hôn là việc một phụ nữ có quốc tịch Thái Lan kết hôn với người nước ngoài và có thể có quốc tịch của người chồng theo pháp luật nước mà người chồng có quốc tịch, phải tuyên bố thôi quốc tịch Thái Lan trước cán bộ có thẩm quyền.
Đối với phụ nữ nước ngoài đã có quốc tịch Thái Lan do kết hôn thì sẽ mất quốc tịch Thái Lan nếu việc kết hôn được đăng ký do giấu giếm các thông tin cá nhân, có những lời khai dối trá hoặc có những hành vi làm tổn hại an ninh quốc gia, trái với lợi ích của Nhà nước Thái Lan, trái với đạo đức xã hội.
Mất quốc tịch Thái Lan do tuyên bố từ bỏ quốc tịch trong trường hợp một cá nhân khi sinh ra đã có quốc tịch của người cha theo pháp luật của nước mà người cha có quốc tịch thì phải lựa chọn quốc tịch, tuyên bố từ bỏ quốc tịch Thái Lan trong vòng một năm kể từ ngày người đó đủ 20 tuổi. Bộ trưởng Bộ Nội vụ sẽ xem xét để cho thôi quốc tịch trừ trường hợp Thái Lan đang có xung đột vũ trang hoặc đang trong tình trạng chiến tranh thì Bộ trưởng có thể ra lệnh không cho thôi quốc tịch.
Trong những trường hợp cần thiết, Bộ trưởng Bộ Nội vụ có quyền tước quốc tịch Thái Lan như có chứng cứ cho thấy rằng người đó vẫn còn sử dụng quốc tịch trước đó của mình, người này đã cư trú ở nước ngoài mà không có nơi thường trú ở Thái Lan trong thời gian năm năm trở lên, người này thực hiện hành vi trái với trật tự, đạo đức xã hội. Sau khi ra quyết định tước quốc tịch, Bộ trưởng Bộ Nội vụ phải trình việc này lên để Nhà vua biết.
Khác với Luật quốc tịch Ôxtrâylia, Luật quốc tịch Thái Lan và một số nước khác, Luật quốc tịch Đức không quy định chế định tước quốc tịch. Do vậy, vấn đề mất quốc tịch không có trường hợp nào bị tước quốc tịch. Việc mất quốc tịch không được dẫn đến tình trạng công dân Đức trở thành người không quốc tịch. Lý do mất quốc tịch là do thôi quốc tịch, có quốc tịch nước ngoài, từ bỏ quốc tịch, được nhận làm con nuôi của một người nước ngoài. Tuy nhiên, việc cho thôi quốc tịch được coi là không có kết quả nếu trong vòng một năm kể từ ngày nhận được Quyết định cho thôi quốc tịch, người đó không được nhập quốc tịch nước ngoài. Trường hợp công dân Đức trước khi nhập quốc tịch nước ngoài mà có đơn xin giữ quốc tịch Đức thì sẽ được xem xét để không bị mất quốc tịch Đức của mình. Công dân Đức có thể từ bỏ quốc tịch Đức nếu họ có quốc tịch của một quốc gia khác. Việc từ bỏ quốc tịch Đức phải được tuyên bố bằng văn bản.
Luật quốc tịch Cộng hòa liên bang Nga quy định các lý do mất quốc tịch Nga như: do thôi quốc tịch Nga, do thay đổi quyết định cho nhập quốc tịch, lựa chọn quốc tịch khi có thay đổi lãnh thổ quốc gia và do các lý do khác quy định trong Điều ước quốc tế của Cộng hòa liên bang Nga tham gia hoặc ký kết.
Việc xin thôi quốc tịch có thể không được cơ quan có thẩm quyền Nga chấp thuận nếu công dân Nga xin thôi quốc tịch sau khi nhận được giấy gọi thực hiện nghĩa vụ quân sự hoặc đang thực hiện nghĩa vụ quân sự và trước khi hoàn thành nghĩa vụ đó. Nếu công dân Nga đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay đang phải chấp hành bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Một lý do làm mất quốc tịch Nga của công dân Nga là hủy Quyết định cho nhập quốc tịch Nga. Việc khai man và giả mạo giấy tờ nhập quốc tịch Nga của một người sẽ bị cơ quan có thẩm quyền Nga xem xét và hủy bỏ Quyết định cho nhập quốc tịch. Quyết định cho nhập quốc tịch Nga có thể bị hủy bỏ trong thời gian năm năm sau khi vào quốc tịch.
Xét về nội luật của từng quốc gia, chúng ta có thể nhận thấy một số điểm chung cơ bản trong việc đề ra nguyên tắc xác định quốc tịch, các quy định về có quốc tịch, mất quốc tịch của một con người. Các quy định này ghi nhận quyền và nghĩa vụ nói riêng cũng như địa vị pháp lý của công dân nước đó. Nhìn chung, ngày nay chế định quốc tịch đã được thay đổi và phát triển với những nội dung mới thể hiện đặc thù của quốc gia đồng thời phù hợp với pháp luật quốc tế.
6. Thẩm quyền giải quyết và cơ quan tiếp nhận hồ sơ quốc tịch
Quốc tịch là vấn đề mang tính chất quốc gia nên luật pháp các nước đều giao thẩm quyền giải quyết các việc quốc tịch cho các cơ quan chủ chốt. Cụ thể: Uỷ ban thường trực Hội đồng nhân dân tối cao Lào có thẩm quyền giải quyết các vấn đề nhập quốc tịch, mất, trở lại, thôi quốc tịch. Các hồ sơ quốc tịch của đương sự nộp tại Bộ Tư pháp nếu đương sự cư trú trong nước; nếu đương sự cư trú ở nước ngoài thì hồ sơ nộp tại Đại sứ quán hoặc Tổng lãnh sự quán của nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào ở nước sở tại đó. Trong trường hợp ở nước đó không có Đại sứ quán và Tổng lãnh sự quán Lào thì gửi đơn đến Bộ ngoại giao nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào.
Luật Quốc tịch Hàn Quốc, Nhật Bản quy định thẩm quyền giải quyết các việc về quốc tịch và cơ quan nhận hồ sơ thuộc về Bộ Tư pháp, trừ trường hợp nhập quốc tịch của người nước ngoài có công trạng đặc biệt với Hàn Quốc, Nhật Bản thì phải có sự đồng ý của người đứng đầu Nhà nước.
Khác với Nhật Bản, Luật Quốc tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Luật Quốc tịch Thái Lan quy định thẩm quyền giải quyết các vấn đề liên quan đến quốc tịch và cơ quan tiếp nhận hồ sơ lại thuộc về Bộ Nội vụ. Tiêu chuẩn xác định, kiểm tra, miễn kiểm tra, lệ phí và các vấn đề liên quan đến tiếng dân tộc và sự hiểu biết về quyền và nghĩa vụ của họ đối với đất nước do Bộ trưởng Bộ nội vụ quyết định.
Luật Quốc tịch Ôxtrâylia quy định thẩm quyền giải quyết các việc về quốc tịch: Bộ trưởng Bộ di trú và đa sắc tộc.
Luật Quốc tịch Canada quy định thẩm quyền giải quyết thuộc Thống đốc Hội đồng. Việc cấp Giấy chứng nhận quốc tịch do Bộ trưởng cấp – Bộ trưởng là thành viên của Hội đồng nội các của Nữ hoàng Canada. Các hồ sơ quốc tịch nộp tại Hội đồng nội các Canada.
Ở Nga, Tổng thống liên bang là người có toàn quyền quyết định các việc về quốc tịch. Hồ sơ quốc tịch được gửi tới Bộ Nội vụ nếu đương sự ở trong nước, ở nước ngoài thì nộp hơ sơ xin nhập quốc tịch Liên bang Nga tại Bộ ngoại giao, cơ quan đại diện ngoại giao và cơ quan lãnh sự.
Nhìn chung, việc quy định thẩm quyền giải quyết vấn đề cho nhập, thôi, trở lại, tước quốc tịch căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan nhà nước cũng như đặc thù của từng quốc gia cho phù hợp với tình hình cụ thể của đất nước và có được sự đồng thuận với các nước trên Thế giới.
7. Xử lý xung đột
Hiện tượng xung đột pháp luật trong quan hệ quốc tịch giữa các nước hiểu theo nghĩa rộng và cấu trúc của quy phạm xung đột pháp luật tưởng chừng như đã được hiểu biết một cách thấu đáo. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy các giải pháp nhằm xử lý các hiện tượng xung đột về thẩm quyền xét xử và xung đột về luật áp dụng vẫn chưa đạt được sự thống nhất cao. Để giải quyết xung đột quốc tịch, các nước thường tham gia ký kết các điều ước quốc tế. Vì vậy, Luật Quốc tịch các nước hầu như không quy định các điều khoản về xung đột quốc tịch.
Luật Quốc tịch Canada quy định: Người không có quốc tịch Canada vi phạm Luật này cũng bị toà án Canada xét xử như công dân Canada.
Luật Quốc tịch Cộng hoà liên bang Nga lại quy định: Công dân Cộng hoà liên bang Nga không thể bị dẫn độ cho một nước khác trừ trường hợp dẫn độ theo quy định của Luật hoặc Điều ước quốc tế của Cộng hoà liên bang Nga. Nếu các Điều ước quốc tế của Cộng hoà liên bang Nga có những quy định khác với các quy định của Luật này thì áp dụng các quy định của Điều ước quốc tế đó.
Theo nguyên tắc chung tại Công ước La-Haye (12-4-1930), tại một nước thứ ba, một người có nhiều quốc tịch sẽ được coi như chỉ có một quốc tịch, không phương hại đến việc áp dụng pháp luật của nước mình về địa vị pháp lý của cá nhân và các Hiệp định đang có hiệu lực, nước thứ ba chỉ công nhận duy nhất một quốc tịch trong số các quốc tịch mà người đó có, hoặc công nhận quốc tịch của nước mà người đó thường trú và cư trú chủ yếu hoặc quốc tịch của nước mà tại thời điểm hiện tại người đó có mối quan hệ gắn bó.
Về tổng thể, luật pháp áp dụng đối với cá nhân sẽ là luật pháp của quốc gia mà cá nhân đó hiện thời đang sinh sống. Chính sách pháp luật và việc thực hiện các chính sách đối với mỗi cá nhân là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến việc cư trú của cá nhân đó. Nhìn chung pháp luật mỗi nước áp dụng không phân biệt đối xử đối với cộng đồng các nước nhằm hạn chế tình trạng không quốc tịch. Mỗi nước sẽ quy định bằng Luật ai là công dân nước mình. Luật này sẽ được các nước khác công nhận khi nó xây dựng phù hợp với các Công ước quốc tế, tập quán quốc tế và với các nguyên tắc pháp luật được công nhận chung về vấn đề quốc tịch./.
II. KHÁI QUÁT SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TỊCH VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY
Nhận thức rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề quốc tịch, Nhà nước Việt Nam ngay từ khi ra đời đã rất quan tâm và coi trọng việc soạn thảo, ban hành các văn bản pháp luật về quốc tịch. Trong từng thời kỳ cách mạng, nhà nước ta đều ban hành các văn bản pháp luật quy định về quốc tịch cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, cho đến nay, hệ thống các văn bản pháp luật về quốc tịch của nhà nước Việt Nam đã có một số lượng đáng kể, góp phần quan trọng vào việc phát huy sức mạnh của dân tộc, của nhân dân trong công cuộc giải phóng đất nước trước đây và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
Xét về mặt lập pháp, có thể phân sự phát triển của pháp luật Việt Nam về quốc tịch thành 2 giai đoạn: từ năm 1945 đến năm 1975 và từ năm 1975 đến nay.
a) Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975.
Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, với chính sách “chia để trị” của thực dân Pháp đất nước ta bị chia cắt thành ba miền với ba chế độ cai trị và hệ thống pháp luật khác nhau. Vấn đề quốc tịch và công dân vì thế không được quy định một cách rõ ràng trong các văn bản pháp luật.
Cách mạng tháng 8 thành công, nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời. Lúc này, việc xác định một người có quốc tịch Việt Nam là vô cùng quan trọng, có ý nghĩa chính trị to lớn để chuẩn bị cho cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc Hội đầu tiên của Nhà nước Việt Nam. Chính vì thế, cùng với việc ban hành các văn bản pháp luật về nhiều lĩnh vực khác nhau, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 53/SL ngày 20 tháng 10 năm 1945 quy định quốc tịch Việt Nam.
Sắc lệnh số 53/SL ngay tại Điều 3 đã khẳng định quyền bình đẳng về quốc tịch Việt Nam giữa các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam “Những dân tộc thiểu số ở nước Việt Nam như Thổ, Mán, Mường, Nùng, Kha, Lolo,v.v…, có trụ sở nhất định trên lĩnh thổ nước Việt Nam, đều là công dân Việt Nam”.
Về có quốc tịch Việt Nam, Điều 2 của Sắc lệnh này quy định các trường hợp có quốc tịch Việt Nam do sinh ra:
“Những người thuộc một trong các hạng kể sau đây đều là công dân Việt Nam:
1- Cha là công dân Việt Nam;
2- Cha không rõ là ai hay không thuộc quốc tịch nào mà mẹ là công dân Việt Nam;
3- Đẻ ở trên lĩnh thổ nước Việt Nam mà cha mẹ không rõ là ai hay không thuộc một quốc tịch nào”.
Theo quy định này, việc xác định quốc tịch của trẻ em mới sinh được dựa trên việc kết hợp nguyên tắc “Quyền huyết thống” và nguyên tắc “Quyền nơi sinh” để hạn chế tối đa việc trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam bị rơi vào tình trạng không quốc tịch.
Đồng thời, Sắc lệnh số 53/SL còn quy định về trường hợp có quốc tịch Việt Nam do phục hồi quốc tịch:
“Kể từ ngày ban hành sắc lệnh này, những người Việt Nam đã vào dân Pháp, sẽ coi là công dân Việt Nam.
Những người ấy phải đến khai bỏ quốc tịch Pháp ở phòng Hộ tịch Toà Thị chính của một trong những thành phố sau này: Hà Nội, Hải Phòng, Vinh, Huế, Nha Trang, Sài Gòn, Biên Hoà hay ở một trong những nơi mà Uỷ ban Bắc bộ, Trung bộ hay Nam bộ sẽ định sau” (Điều 4).
Thủ tục xin khai bỏ quốc tịch Pháp để trở lại quốc tịch Việt Nam lúc ấy được quy định rất đơn giản cho kịp ngày Tổng tuyển cử. Người nào không ra khai sẽ mất quyền bầu cử.
Cùng với việc quy định về các trường hợp có quốc tịch Việt Nam, Sắc lệnh số 53/SL còn quy định các trường hợp mất quốc tịch Việt Nam tại Điều 7. Công dân Việt Nam sẽ bị mất quốc tịch Việt Nam nếu thuộc một trong các trường hợp:
1. Nhập một quốc tịch ngoại quốc;
2. Giữ một chức vụ gì ở ngoại quốc mà không chịu thôi, tuy đã được Chính phủ cảnh cáo;
3. Làm một việc gì phạm đến nền độc lập và chính thể dân chủ cộng hoà của nước Việt Nam.
Quy định về có quốc tịch do phục hồi quốc tịch cũng như các trường hợp mất quốc tịch Việt Nam cho thấy ngay từ thời kỳ này, nhà nước Việt Nam đã thực hiện chính sách một quốc tịch.
Tuy mới chỉ quy định một số vấn đề cơ bản nhất về quốc tịch nhưng Sắc lệnh 53/SL được ban hành trong thời điểm đất nước ta vừa mới ra đời nên có ý nghĩa chính trị to lớn, là bước chuẩn bị quan trọng cho cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc Hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà.
Nhập quốc tịch Việt Nam cũng là một vấn đề rất quan trọng nhưng chưa được quy định trong Sắc lệnh số 53/SL. Vì vậy, ngày 07/12/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ban hành Sắc lệnh số 73/SL quy định việc nhập quốc tịch Việt Nam. Sắc lệnh số 73/SL đã quy định điều kiện cụ thể đối với những người ngoại quốc muốn nhập quốc tịch Việt Nam (Điều 1): “Những người ngoại quốc muốn nhập quốc tịch Việt Nam phải có những điều kiện sau đây: 1- Đủ 18 tuổi; 2- Đã ở 10 năm trên đất nước Việt Nam; 3- Có trú quán nhất định trong nước Việt Nam; 4- Biết tiếng nói Việt Nam; 5- Có hạnh kiểm tốt; 6- Nếu có vợ hay chồng là người ngoại quốc, thì phải được người vợ hay chồng thoả thuận cho nhập quốc tịch Việt Nam”.
Cách thức xin nhập quốc tịch Việt Nam cũng được quy định cụ thể: người xin phải đệ đơn lên Uỷ ban nhân dân tỉnh nơi mình ở, Uỷ ban tỉnh phải điều tra và cho ý kiến rồi gửi lên Uỷ ban Kỳ, Uỷ ban Kỳ phê ý kiến rồi gửi lên Bộ Tư pháp. Nếu Bộ Tư pháp chấp nhận thì ra sắc lệnh cho nhập quốc tịch Việt Nam (Điều 4 Sắc lệnh số 73/SL). Việc quy định cụ thể trình tự, thủ tục xin nhập quốc tịch Việt Nam nhìn chung là đơn giản, thuận tiện cho dân.
Sắc lệnh số 73/SL còn quy định rõ “Người đã nhập quốc tịch Việt Nam được hưởng đủ quyền lợi và phải chịu tất cả trách nhiệm của một công dân Việt Nam” (Điều 3).
Tháng 12/1946, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, nhân dân ta lại bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đầy cam go, quyết liệt. Trong hoàn cảnh đó, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã ký và ban hành Sắc lệnh số 215/SL ngày 20/8/1948 ấn định những quyền lợi đặc biệt cho những người ngoại quốc giúp vào cuộc kháng chiến Việt Nam. Theo đó, “những người có công trạng với cuộc kháng chiến thì được miễn điều kiện thời hạn định trong Sắc lệnh số 73/SL ngày 07/12/1945 về sự xin gia nhập quốc tịch Việt Nam”. Tại thời điểm này, cả nước ta đang tập trung sức người sức của cho cuộc kháng chiến chống Pháp, Sắc lệnh số 215/SL đã thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với những người ngoại quốc có công giúp vào cuộc kháng chiến Việt Nam.
Cùng với việc ban hành các sắc lệnh quy định về nhiều lĩnh vực khác nhau, sự ra đời của các sắc lệnh nói trên về quốc tịch đã đặt nền tảng pháp lý quan trọng cho việc hình thành hệ thống các văn bản pháp luật về quốc tịch nói riêng và hệ thống các văn bản pháp luật Việt Nam nói chung.
Năm 1954, Hiệp định Geneve về Việt Nam được ký kết, đất nước ta bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác biệt. Ngày 14/12/1959, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã ký và ban hành Sắc lệnh số 51/SL bãi bỏ Điều 5, 6 Sắc lệnh 53/SL ngày 20/10/1945. Theo Sắc lệnh số 51/SL, “những phụ nữ Việt Nam lấy chồng có quốc tịch nước ngoài trước ngày ban hành Sắc lệnh này vẫn giữ quốc tịch Việt Nam. Người nào muốn theo quốc tịch của người chồng thì trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày ban hành Sắc lệnh này phải xin bỏ quốc tịch Việt Nam và phải được Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà cho phép”. Quy định này xét dưới góc độ quyền công dân đã bảo đảm quyền bình đẳng giữa nam và nữ, phù hợp với quy định tại Điều 9 Hiến pháp năm 1946 “đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”. Đồng thời cũng khẳng định, quyền có quốc tịch là quyền nhân thân của mỗi người, mỗi người đều có quyền quyết định lựa chọn quốc tịch cho mình, người đàn bà khi lấy chồng ngoại quốc vẫn có thể giữ quốc tịch gốc của mình nếu không có nguyện vọng theo quốc tịch của chồng. Ngược lại, trong trường hợp họ muốn theo quốc tịch của chồng thì phải xin bỏ quốc tịch Việt Nam và phải được Chính phủ cho phép.
Từ năm 1960, theo Luật Tổ chức Chính phủ, trong thành phần của Chính phủ không có Bộ Tư pháp, các nhiệm vụ của Bộ Tư pháp được chuyển giao cho Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao và một phần cho chính quyền địa phương. Về lĩnh vực quốc tịch, ngày 08/2/1971 Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã ban hành Nghị quyết số 1043/NQ-TVQHK6 về việc xin thôi hoặc nhập quốc tịch Việt Nam, trong đó “giao cho Hội đồng Chính phủ xét và quyết định về những trường hợp cụ thể xin vào hoặc xin thôi quốc tịch Việt Nam”.
Có thể khẳng định rằng, trước năm 1975, các vấn đề về quốc tịch chủ yếu được quy định trong một số sắc lệnh và nghị quyết nêu trên. Mỗi văn bản pháp luật chỉ giải quyết một vấn đề cụ thể do thực tiễn cách mạng lúc đó đặt ra. Mạc dù vậy, như đã phân tích ở trên, các văn bản đó đã thể hiện rõ quan điểm tiến bộ của Nhà nước Việt Nam đối với các vấn đề cơ bản về quốc tịch như: bình đẳng giữa các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam về quốc tịch Việt Nam, bảo đảm quyền của cá nhân trên lãnh thổ Việt Nam được có quốc tịch thông qua việc hạn chế tình trạng không quốc tịch, bình đẳng giữa các công dân Việt Nam với nhau về quyền và nghĩa vụ công dân, không kể người có quốc tịch gốc Việt Nam hay được nhập quốc tịch Việt Nam… Rõ ràng, các quy định về quốc tịch trong các văn bản trên đã đặt nền tảng ban đầu cho việc xây dựng và ban hành Luật quốc tịch Việt Nam ở giai đoạn sau.
b) Giai đoạn từ năm 1975 đến nay
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi (30/4/1975), đất nước ta hoàn toàn độc lập, non sông thu về một mối. Tại kỳ họp thứ 7, phiên họp ngày 18/12/1980 Quốc hội khoá VI nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã chính thức thông qua bản Hiến pháp năm 1980. Hiến pháp năm 1980 tại Điều 53 quy định: “Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam theo luật định”. Lần đầu tiên, vấn đề quốc tịch của công dân Việt Nam được quy định trong Hiến pháp – văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất, tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời của Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988.
Tại kỳ họp thứ 3, ngày 28/6/1988 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII đã thông qua Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988, có hiệu lực thi hành từ ngày 15/7/1988. Đây là đạo luật đầu tiên của nhà nước ta quy định khá đầy đủ các vấn đề về quốc tịch Việt Nam. Luật gồm 18 điều, chia thành 6 chương: Chương I: Những quy định chung; chương II: Xác định có quốc tịch Việt Nam; chương III: Mất quốc tịch, trở lại quốc tịch Việt Nam; chương IV: Quốc tịch trẻ em khi có sự thay đổi quốc tịch cha mẹ, quốc tịch con nuôi; chương V: Thẩm quyền giải quyết các vấn đề về quốc tịch; chương VI: Điều khoản cuối cùng. Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988 đã quy định rõ tại Điều 3: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam”. Như vậy, Luật quốc tịch năm 1988 đã quy định nguyên tắc một quốc tịch triệt để. Tuy thế, Luật năm 1988 chưa quy định cơ chế đảm bảo thực hiện nguyên tắc này, do đó gây khó khăn trong việc thực thi pháp luật cũng như để lại hậu quả pháp lý phức tạp trên thực tế.
Luật quốc tịch năm năm 1988 ra đời thay thế cho Sắc lệnh số 53/SL, Sắc lệnh số 73/SL, Điều 6 Sắc lệnh số 215/SL, Sắc lệnh số 51/SL và Nghị quyết số 1043-NQ/TVQH.
Để Luật quốc tịch 1988 thực sự đi vào cuộc sống, giải quyết được các vấn đề vướng mắc về quốc tịch Việt Nam, ngày 05/02/1990, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 37/HĐBT quy định chi tiết thi hành Luật quốc tịch Việt Nam. Tiếp theo đó, Chính phủ ban hành Nghị định số 06/1998/NĐ-CP ngày 14/01/1998 sửa đổi một số điều của Nghị định số 37/HĐBT. Nghị định số 37/HĐBT ngoài việc quy định chi tiết thi hành Luật quốc tịch còn quy định cụ thể thủ tục giải quyết các vấn đề về quốc tịch như: hồ sơ xin nhập, trở lại, thôi quốc tịch Việt Nam; nơi nộp hồ sơ; thời hạn và quy trình giải quyết các việc về quốc tịch.
Có thể thấy, Luật quốc tịch Việt Nam 1988 đã luật hoá một cách chính thức các quy định về quốc tịch Việt Nam, giải quyết được một số tồn tại, vướng mắc trong thực tế về quốc tịch.
Tuy vậy, Luật quốc tịch năm 1988 được ban hành vào thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới nên đến giai đoạn sau những năm 1990 không đáp ứng được chủ trương hội nhập quốc tế. Sự phát triển kinh tế xã hội, xu hướng hội nhập quốc tế dẫn đến ngày càng có nhiều người nước ngoài vào làm ăn, sinh sống tại Viêt Nam, công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài…Thêm vào đó, sự ra đời của Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Dân sự năm 1995 đã đặt ra yêu cầu cần phải cập nhật, hoàn thiện các quy định pháp luật về quốc tịch.
Trên cơ sở đó, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X tại kỳ họp thứ 3 ngày 20/5/1998 đã thông qua Luật quốc tịch Việt Nam và Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1999.
Để hướng dẫn thi hành và cụ thể hoá những quy định của Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998, Chính phủ và các cơ quan có liên quan đã ban hành một số văn bản dưới luật:
– Nghị định số 104/1998/NĐ-CP ngày 31/12/1998 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998.
– Thông tư liên tịch số 08/1998/TTLT/BTC-BTP-BNG ngày 31/12/1998 của liên bộ Tài chính -Tư pháp – Ngoại giao hướng dẫn mức thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí giải quyết việc nhập, trở lại, thôi quốc tịch Việt Nam và cấp giấy chứng nhận có quốc tịch Việt Nam, giấy xác nhận mất quốc tịch Việt Nam.
– Thông tư liên tịch số 09/1998/TTLT/BGDĐT-BTP ngày 31/12/1998 của Bộ Giáo dục và đào tạo và Bộ Tư pháp hướng dẫn việc cấp giấy chứng nhận trình độ tiếng Việt cho người nước ngoài xin nhập quốc tịch Việt Nam.
– Quyết định số 60/1999/QĐ-TP-QT ngày 07/4/1999 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành mẫu giấy tờ về quốc tịch Việt Nam.
– Thông tư số 09/1999/TT-BTP ngày 07/4/1999 của Bộ Tư pháp hướng dẫn việc cấp giấy xác nhận không có quốc tịch Việt Nam .
– Nghị định số 55/2000/NĐ-CP ngày 11/10/2000 của Chính phủ sửa đổi một số điều của Nghị định số 104/1998/NĐ-CP ngày 31/12/1998 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam.
Những nội dung cơ bản của Luật quốc tịch năm 1998.
So với Luật quốc tịch năm 1988, Luật quốc tịch năm 1998 vẫn giữ nguyên bố cục các chương (6 chương) nhưng tăng thêm 24 điều (42 điều so với Luật quốc tịch năm 1988 là 18 điều).
1. Quyền đối với quốc tịch và chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài.
Hiến pháp năm 1992 tại Điều 49 ghi nhận “công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam”, Bộ luật Dân sự ngày 28/10/1995 trong các quy định về quyền nhân thân của con người cũng khẳng định “Mỗi cá nhân đều có quyền có quốc tịch…”, Luật quốc tịch Việt Nam 1998 ngay tại Điều 1 đã quy định về quyền đối với quốc tịch: “1/ Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mỗi cá nhân đều có quyền có quốc tịch. Công dân Việt Nam không ai bị tước quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp quy định tại Điều 25 của Luật này. 2/ Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam; mọi thành viên của các dân tộc đều bình đẳng về quyền có quốc tịch Việt Nam”.
Đối với mỗi cá nhân, quyền có quốc tịch là quyền nhân thân gắn liền với bản thân mỗi người, quyền đó chỉ bị mất trong những trường hợp luật định, hạn chế tối đa tình trạng không quốc tịch. Điều này hoàn toàn không phụ thuộc vào nguồn gốc dân tộc. Sự bình đẳng này còn thể hiện ở quy định “việc kết hôn, ly hôn và huỷ việc kết hôn trái pháp luật giữa công dân Việt nam với người nước ngoài không làm thay đổi quốc tịchViệt Nam của đương sự…” (Điều 9) cũng như “việc vợ hoặc chồng nhập hoặc mất quốc tịch Việt Nam không làm thay đổi quốc tịch của người kia” (Điều 10). Các quy định này đã từng được ghi nhận trong Luật quốc tịch năm 1988 và tiếp tục được duy trì trong Luật năm 1998.
Tại Điều 4, Luật quốc tịch năm 1998 còn quy định “Người có quốc tịch Việt Nam là công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Quy định này mới được bổ sung so với Luật quốc tịch năm 1988.
Đặc biệt, so với Luật quốc tịch năm 1988, Luật quốc tịch năm 1998 đã bổ sung một số điều luật quy định về chính sách bảo hộ của nhà nước Việt Nam đối với người Việt Nam ở nước ngoài (Điều 5), chính sách đối với người gốc Việt Nam ở nước ngoài (Điều 6), chính sách đối với công dân Việt Nam ở nước ngoài (Điều 7). Những quy định này phù hợp với chính sách của Đảng và nhà nước ta về đại đoàn kết dân tộc, tạo ra sự gắn bó hơn nữa cả về mặt tình cảm cũng như mặt pháp lý giữa người Việt Nam ở nước ngoài với nhà nước Việt Nam.
2. Nguyên tắc một quốc tịch
Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988 đã quy định nguyên tắc một quốc tịch triệt để tại Điều 3, đến Luật quốc tịch năm 1998 nguyên tắc một quốc tịch vẫn được ghi nhận nhưng ở mức độ “nới lỏng” hơn bằng cách bỏ từ “chỉ”. Điều 3, Luật quốc tịch năm 1998 quy định “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam”. Tình trạng hai hay nhiều quốc tịch là nguyên nhân gây ra những hậu quả pháp lý phức tạp như trong vấn đề thực hiện nghĩa vụ công dân đối với nhà nước, việc bảo hộ ngoại giao của nhà nước đối với công dân…Tuy nhiên, do sự xung đột pháp luật giữa các nước cũng như chính sách hội nhập quốc tế thì trên thực tế vẫn phát sinh tình trạng này. Pháp luật của một số nước mặc dù quy định công nhận công dân có một quốc tịch nhưng cũng không thể ngăn ngừa một cách triệt để tình trạng hai hay nhiều quốc tịch.
Luật quốc tịch năm 1998 cũng có một số quy định nhằm hạn chế sự phát sinh tình trạng hai quốc tịch như: người dưới 15 tuổi tìm thấy cha mẹ, cha hoặc mẹ, người giám hộ có quốc tịch nước ngoài thì không còn quốc tịch Việt Nam (khoản 2 Điều 19), công dân nước ngoài nhập quốc tịch Việt Nam thì không còn giữ quốc tịch nước ngoài trừ trường hợp đặc biệt do Chủ tịch nước quyết định (khoản 3 Điều 20); ký kết điều ước quốc tế để hạn chế hai hoặc nhiều quốc tịch (Điều 41).
Tuy nhiên, nguyên tắc một quốc tịch vẫn là nguyên tắc mang tính hình thức. Vì trên thực tế, vẫn có nhiều trường hợp công dân Việt Nam đã nhập quốc tịch nước ngoài mà chưa thôi quốc tịch Việt Nam do pháp luật nước ngoài không bắt buộc phải từ bỏ quốc tịch gốc. Khi họ trở về Việt Nam đầu tư, làm ăn, họ chỉ sử dụng tư cách công dân của nước có lợi cho họ. Do đó, gây khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền trong công tác quản lý. Hơn nữa, nguyên tắc một quốc tịch cũng không phản ánh được nguyện vọng của đông đảo kiều bào ta ở nước ngoài tuy đã được nhập quốc tịch nước ngoài nhưng vẫn mong muốn được giữ quốc tịch Việt Nam để tạo sự gắn bó, gần gũi với mảnh đất ruột thịt của mình.
Thực tiễn thực hiện nguyên tắc một quốc tịch đã đặt ra vấn đề cần phải nghiên cứu, xem xét lại nguyên tắc này để quy định cho phù hợp.
3. Có quốc tịch Việt Nam.
Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 tiếp tục kế thừa và hoàn thiện 5 căn cứ pháp lý có quốc tịch Việt Nam của Luật quốc tịch năm 1988, đó là: Do sinh ra theo quy định tại các điều 16,17,18 của Luật; được nhập quốc tịch Việt Nam; được trở lại quốc tịch Việt Nam; theo điều ước quốc tế mà cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia; các căn cứ quy định tại các Điều 19,28 và 30 của Luật.
Như vậy, căn cứ cơ bản để có quốc tịch Việt Nam là do sinh ra, do nhập và do được trở lại quốc tịch Việt Nam.
Về quốc tịch của trẻ em, Luật quốc tịch năm 1998 quy định dựa trên nguyên tắc “Quyền huyết thống” (Quốc tịch của trẻ em khi sinh ra có cha mẹ là công dân Việt Nam – Điều 16, Quốc tịch của trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam – Điều 17) kết hợp với nguyên tắc “Quyền nơi sinh” (Quốc tịch của trẻ em khi sinh ra có cha mẹ là người không quốc tịch – Điều 18, Quốc tịch của trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ em được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam – Điều 19). Các quy định về quốc tịch của trẻ em đã bảo đảm tối đa quyền có quốc tịch của trẻ em, điều này phù hợp với Luật Bảo vệ Chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng như Công ước Quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam đã tham gia.
Được nhập quốc tịch là một trong những căn cứ để có quốc tịch Việt Nam. Điều 20 Luật quốc tịch năm 1998 đã quy định các điều kiện để công dân nước ngoài và người không quốc tịch được nhập quốc tịch Việt Nam. So với 3 điều kiện quy định tại Điều 7 Luật quốc tịch năm 1988, Điều 20 Luật quốc tịch năm 1998 quy định đầy đủ hơn, đó là:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật Việt Nam;
b) Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; tôn trọng truyền thống, phong tục, tập quán của dân tộc Việt Nam;
c) Biết tiếng Việt đủ để hoà nhập vào cộng đồng xã hội Việt Nam;
d) Đã thường trú ở Việt Nam từ năm năm trở lên;
đ) Có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam.
Để được nhập quốc tịch Việt Nam, công dân nước ngoài và người không quốc tịch phải đáp ứng đủ các điều kiện trên. Tuy nhiên, đối với một số trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 20 có thể được miễn điều kiện về biết tiếng Việt, thời gian thường trú và khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam.
Trở lại quốc tịch Việt Nam: Một người đã bị mất quốc tịch Việt Nam cũng có thể trở lại quốc tịch Việt Nam nếu thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 21 Luật quốc tịch năm 1998 và không làm phương hại đến lợi ích quốc gia của Việt Nam.
Ngoài ra, xuất phát từ yêu cầu thực tế, Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 còn quy định về “Giấy chứng nhận có quốc tịch Việt Nam” tại Điều 22 nhằm đáp ứng nguyện vọng của những người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn còn giữ quốc tịch Việt Nam khi họ đầu tư về nước và muốn xác nhận có quốc tịch Việt Nam để được hưởng các chính sách ưu đãi theo quy định của Nhà nước Việt Nam.
4. Mất quốc tịch Việt Nam.
Quốc tịch là quyền nhân thân của mỗi con người. Quốc tịch chỉ bị mất khi người đó chết đi hoặc bị tước quốc tịch với tư cách là một biện pháp chế tài của một nước áp dụng với công dân của họ. Một người cũng có thể xin thôi quốc tịch của một nước để nhập quốc tịch của nước khác.
Luật năm 1998 quy định 4 trường hợp công dân Việt Nam bị mất quốc tịch Việt Nam: 1/ Được thôi quốc tịch Việt Nam; 2/ Bị tước quốc tịch Việt Nam; 3/ Theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia; 4/ Trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 19, Điều 26 và Điều 28 của Luật này.
Công dân Việt Nam muốn nhập quốc tịch nước ngoài và có nguyện vọng thôi quốc tịch Việt Nam (thể hiện bằng đơn ) thì có thể được thôi quốc tịch Việt Nam trừ một số trường hợp. Người xin thôi quốc tịch Việt Nam chưa được thôi quốc tịch Việt Nam nếu đang nợ thuế đối với Nhà nước hoặc một nghĩa vụ tài sản đối với cơ quan, tổ chức hoặc công dân Việt Nam; đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; chưa chấp hành xong bản án, quyết định của Toà án Việt Nam (khoản 2 Điều 24). Các trường hợp này chỉ được thôi quốc tịch Việt Nam sau khi các hoàn cảnh trên chấm dứt. Người xin thôi quốc tịch Việt Nam không được thôi quốc tịch Việt Nam nếu việc thôi quốc tịch Việt Nam làm phương hại đến lợi ích quốc gia hoặc đối tượng xin thôi là cán bộ, công chức và những người đang phục vụ trong các lực lượng vũ trang nhân dân (khoản 3, 4 Điều 24).
Công dân Việt Nam cũng có thể bị mất quốc tịch Việt Nam do bị tước quốc tịch Việt Nam. Trường hợp công dân Việt Nam có hành động gây phương hại nghiêm trọng đến nền độc lập dân tộc, đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc đến uy tín của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đối với công dân Việt Nam có quốc tịch gốc Việt Nam bị áp dụng biện pháp chế tài này nếu họ cư trú ngoài lãnh thổ Việt Nam; còn đối với những người không phải có quốc tịch gốc Việt Nam mà họ có quốc tịch Việt Nam do được nhập thì sẽ bị áp dụng biện pháp chế tài này không kể họ cư trú ở trong hay ngoài lãnh thổ Việt Nam (Điều 25).
Với con chưa thành niên, khi cha mẹ hoặc một trong hai người bị tước quốc tịch Việt Nam thì quốc tịch của con chưa thành niên không thay đổi (Điều 29).
5. Thẩm quyền và thủ tục giải quyết các vấn đề về quốc tịch.
Từ một điều luật duy nhất của Luật năm 1988, Luật quốc tịch năm 1998 đã quy định đầy đủ, chi tiết hơn về thẩm quyền và thủ tục giải quyết các vấn đề về quốc tịch với 10 điều luật. Trong đó đã quy định rõ thẩm quyền của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài về quốc tịch. Đồng thời, Luật cũng quy định về nơi nộp đơn, thời hạn giải quyết đơn yêu cầu về quốc tịch, giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp về quốc tịch. Các quy định đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, giúp họ thực hiện tốt hơn các quyền và nghĩa vụ của mình về quốc tịch.
Phần thứ hai
GIỚI THIỆU
LUẬT QUỐC TỊCH VIỆT NAM NĂM 2008
I. SỰ CẦN THIẾT SỬA ĐỔI LUẬT QUỐC TỊCH VIỆT NAM NĂM 1998
Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 được Quốc hội khoá X nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 20/5/1998 tại kỳ họp thứ 3 (sau đây gọi là Luật quốc tịch năm 1998) là bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật về quốc tịch của Nhà nước ta. Luật quốc tịch năm 1998 đã điều chỉnh tương đối toàn diện các quan hệ xã hội trong lĩnh vực quốc tịch như: quyền của cá nhân đối với quốc tịch, nguyên tắc một quốc tịch, hạn chế tình trạng không quốc tịch, quốc tịch của vợ và chồng, các căn cứ xác định người có quốc tịch Việt Nam, mất quốc tịch Việt Nam, thay đổi quốc tịch của người chưa thành niên và của con nuôi; thẩm quyền và thủ tục giải quyết các vấn đề về quốc tịch. Sau hơn 9 năm thực hiện, Luật quốc tịch năm 1998 đã thực sự đi vào cuộc sống, phát huy vai trò là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xác định người có quốc tịch Việt Nam, cho nhập, cho thôi, cho trở lại quốc tịch Việt Nam, thực hiện chính sách bảo hộ của Nhà nước ta đối với công dân Việt Nam ở nước ngoài… Luật quốc tịch năm 1998 đã góp phần quan trọng vào việc hình thành mối quan hệ gắn bó giữa công dân Việt Nam với Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tuy nhiên, Luật quốc tịch năm 1998 cũng đã bộc lộ một số điểm hạn chế, bất cập sau đây:
Một là, nguyên tắc một quốc tịch quy định tại Điều 3 là cứng nhắc, bất cập so với yêu cầu hội nhập quốc tế, chưa thật phù hợp với nguyện vọng của kiều bào ta ở nước ngoài và thực sự khó khăn trong triển khai thực hiện trên thực tế.
Nguyên tắc một quốc tịch được quy định tại Điều 3 Luật quốc tịch năm 1998: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam”. Tuy nhiên, do thiếu cơ chế bảo đảm thực hiện nguyên tắc này (cơ chế đương nhiên mất quốc tịch Việt Nam khi đương sự chọn hoặc nhập quốc tịch nước ngoài) nên trên thực tế đã nảy sinh hệ quả là công dân Việt Nam định cư ở một số nước mà ở đó khi nhập quốc tịch pháp luật của nước sở tại không bắt buộc phải thôi quốc tịch Việt Nam dẫn đến một số lượng khá đông người Việt Nam định cư ở nước ngoài rơi vào tình trạng vừa có quốc tịch nước sở tại, vừa có quốc tịch Việt Nam. Thêm vào đó, trong khi Việt Nam quy định nguyên tắc xác định quốc tịch theo huyết thống thì luật quốc tịch một số nước lại xác định quốc tịch theo nơi sinh, sự xung đột pháp lý này cũng là lý do làm tăng thêm số người Việt Nam định cư ở nước ngoài có hai hay nhiều quốc tịch. Vì vậy, sự cứng nhắc của nguyên tắc một quốc tịch trong Luật quốc tịch năm 1998 đã làm cho các cơ quan nhà nước Việt Nam gặp nhiều khó khăn, lúng túng, thậm chí bị bó tay khi giải quyết các vụ việc cụ thể có liên quan đến quốc tịch.
Hơn nữa, nguyên tắc một quốc tịch theo Luật quốc tịch năm 1998 thực sự chưa phản ánh đúng nguyện vọng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Đại đa số kiều bào ta dù phải rời Tổ quốc do các hoàn cảnh khác nhau, nhưng vẫn có nguyện vọng thiết tha được gắn bó với quê hương nên không muốn bị mất quốc tịch Việt Nam khi nhập quốc tịch nước sở tại.
Từ những vấn đề đã nêu ở trên, yêu cầu bức xúc đặt ra là cần phải cân nhắc sửa đổi nguyên tắc một quốc tịch được quy định tại Điều 3 Luật quốc tịch 1998 cho phù hợp với tình hình thực tế.
Hai là, Luật quốc tịch năm 1998 chưa có cơ chế hữu hiệu, khả thi để thực hiện một chủ trương quan trọng là hạn chế tình trạng không quốc tịch ở nước ta.
Thực tế hiện nay số công dân nước ngoài, người không quốc tịch, người không rõ quốc tịch cư trú trên lãnh thổ nước ta là tương đối nhiều, việc giải quyết quốc tịch cho họ gặp rất nhiều khó khăn và trong nhiều trường hợp không thể giải quyết được. Ngoài ra, việc hoạch định lại biên giới giữa Việt Nam và các nước láng giềng trong những năm qua cũng dẫn đến hệ quả là một bộ phận khá lớn dân cư dọc biên giới tuy đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam nhưng chưa được nhập quốc tịch Việt Nam. Lý do là, phần lớn trong số họ không có giấy tờ tuỳ thân để xác định tình trạng quốc tịch, trình độ văn hoá rất thấp thậm chí không biết chữ, điều kiện kinh tế lại khó khăn, do đó nếu cứ buộc họ làm thủ tục nhập quốc tịch theo đúng quy định của Luật quốc tịch năm 1998 là không khả thi. Thực trạng này không những làm cho cuộc sống của họ gặp nhiều khó khăn, mà còn làm phát sinh nhiều vấn đề phức tạp trong việc quản lý dân cư dọc biên giới.
Để giải quyết vấn đề tồn đọng nêu trên về quốc tịch, cần phải quy định một thủ tục sát với yêu cầu thực tế hơn.
Ba là, cơ chế quản lý nhà nước về quốc tịch còn bất cập, hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao.
Theo quy định của Luật quốc tịch năm 1998, có nhiều cơ quan khác nhau có thẩm quyền tham gia vào quá trình giải quyết vấn đề quốc tịch, nhưng việc phân định trách nhiệm và quyền hạn có nhiều điểm chưa cụ thể, thiếu cơ chế phối hợp chặt chẽ dẫn đến tình trạng chậm trễ trong giải quyết các việc về quốc tịch, chia cắt về thông tin, yếu kém về thống kê quốc tịch. Đến nay chưa lập được cơ sở giữ liệu quốc gia về quốc tịch là một thiếu sót lớn, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả quản lý nhà nước về quốc tịch. Mặt khác, đối với những người Việt Nam định cư ở nước ngoài do thiếu cơ chế đăng ký quốc tịch nên thực sự chúng ta chưa nắm được tình trạng quốc tịch của hơn 3 triệu người Việt Nam định cư ở nước ngoài để có chính sách quản lý và bảo hộ.
Hơn nữa, so với bối cảnh tại thời điểm ban hành Luật quốc tịch năm 1998, hiện nay đất nước ta đã có nhiều thay đổi lớn, quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội; uy tín và vị thế quốc tế của nước ta ngày càng nâng cao. Nước ta đã và đang hội nhập sâu hơn vào đời sống kinh tế quốc tế (là thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), thành viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc). Thành tựu về phát triển kinh tế – xã hội trong hơn 20 năm đổi mới đã đưa nước ta tới ngưỡng cửa thoát nghèo, có thêm điều kiện để bảo đảm tốt hơn cho công dân được hưởng đầy đủ các quyền do pháp luật quy định, trong đó quyền có quốc tịch là một trong những quyền cơ bản của công dân. Đồng thời, phải nói rằng với sự phát triển của khoa học pháp lý, tư duy pháp lý cũng có nhiều đổi mới, tiếp cận gần hơn với các giá trị phổ biến của thế giới.
Đứng trước tình hình đó, việc sửa đổi Luật Quốc tịch là rất cần thiết nhằm khắc phục những điểm hạn chế của Luật Quốc tịch năm năm 1998, qua đó thể hiện rõ chính sách của Đảng và Nhà nước ta về quốc tịch là phát huy truyền thống nguyên tắc một quốc tịch, hạn chế tình trạng hai hay nhiều quốc tịch đối với công dân sống trên lãnh thổ Việt Nam; pháp lý hoá sự tồn tại thực tế của tình trạng hai quốc tịch đối với một bộ phận người Việt Nam định cư ở nước ngoài, xác định người Việt Nam định cư ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước; xác định rõ một số trường hợp ngoại lệ khi nhập quốc tịch Việt Nam không phải thôi quốc tịch gốc; tăng cường hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước đối với công tác quốc tịch; thiết lập cơ chế giải quyết những tồn đọng về tình trạng người không quốc tịch, làm ăn, sinh sống ổn định trên lãnh thổ Việt Nam; xác định cụ thể trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan trong việc quản lý, giải quyết các việc về quốc tịch, kế thừa và cụ thể hoá những quy định về trình tự, thủ tục giải quyết các vấn đề về quốc tịch, xây dựng cơ chế tháo gỡ những vướng mắc, tồn đọng trong thực tiễn giải quyết các công việc về quốc tịch.
Trong bối cảnh như vậy, Bộ Chính trị đã có sự đánh giá đúng đắn về các chính sách của nhà nước ta đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài: “các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước chưa được quán triệt sâu sắc và thực hiện đầy đủ, công tác bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài chưa được quan tâm đúng mức; các chính sách, văn bản pháp luật chưa đồng bộ, chưa thể hiện đầy đủ tinh thần đại đoàn kết dân tộc, chưa khuyến khích mạnh mẽ người Việt Nam định cư ở nước ngoài hướng về quê hương, đóng góp cho công cuộc phát triển đất nước” (trích Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 26/3/2004 về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài). Do đó, việc xây dựng và ban hành Luật quốc tịch (sửa đổi) là cần thiết, góp phần quan trọng vào việc thể chế hoá và bảo đảm thực hiện quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta coi người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước.
Nhằm mục đích này, ngày 13-11-2008, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa 12 đã thông qua Luật quốc tịch Việt Nam (sửa đổi). Luật đã được Chủ tịch nước ký Lệnh công bố ngày 28-11-2008. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2009.
II. BỐ CỤC CỦA LUẬT QUỐC TỊCH VIỆT NAM NĂM 2008
Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 gồm 6 chương, 44 điều, cụ thể như sau:
– Chương I: Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 12 ).
Chương này quy định các vấn đề chung về quốc tịch Việt Nam; quyền đối với quốc tịch; nguyên tắc quốc tịch; quan hệ giữa Nhà nước và công dân; bảo hộ đối với công dân; chính sách đối với người gốc Việt Nam; hạn chế tình trạng không quốc tịch; giữ quốc tịch khi kết hôn, ly hôn và huỷ việc kết hôn trái pháp luật; giữ quốc tịch khi quốc tịch của vợ hoặc chồng thay đổi; giấy tờ chứng minh quốc tịch và giải quyết vấn đề phát sinh từ tình trạng công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài.
– Chương II: Có quốc tịch Việt Nam (từ Điều 13 đến Điều 25)
Chương này quy định về người có quốc tịch Việt Nam; căn cứ xác định quốc tịch; quốc tịch của trẻ em; các điều kiện, trình tự, thủ tục, hồ sơ nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam; trình tự, thủ tục và hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam của người không quốc tịch cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam.
– Chương III: Mất quốc tịch Việt Nam (từ Điều 26 đến Điều 34)
Chương này quy định về căn cứ mất quốc tịch Việt Nam; các điều kiện, trình tự, thủ tục, hồ sơ xin thôi quốc tịch Việt Nam, tước, huỷ bỏ Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam.
– Chương IV: Thay đổi quốc tịch của người chưa thành niên và của con nuôi (từ Điều 35 đến Điều 37)
Chương này quy định về quốc tịch của con chưa thành niên khi cha mẹ được nhập, trở lại hoặc thôi quốc tịch Việt Nam hoặc bị tước, huỷ bỏ Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam.
– Chương V: Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước về quốc tịch (từ Điều 38 đến Điều 41)
Chương này quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước, Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài; Vấn đề thông báo và đăng tải kết quả giải quyết các việc về quốc tịch.
– Chương VI: Điều khoản thi hành (từ Điều 42 đến Điều 44)
Chương này quy định về điều khoản chuyển tiếp đối với việc giải quyết hồ sơ các việc về quốc tịch được tiếp nhận trước ngày Luật này có hiệu lực; Hiệu lực thi hành của Luật; việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành.
III. NHỮNG NỘI DUNG MỚI (CỦA LUẬT QUỐC TỊCH VIỆT NAM NĂM 2008) SO VỚI LUẬT QUỐC TỊCH VIỆT NAM NĂM 1998
Sơ với luật Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998, Luật quốc tịch Việt Nam (sửa đổi) năm 2008 có một số nội dung mới sau đây:
1. Về nguyên tắc quốc tịch (Điều 4)
“Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.”
So sánh với “nguyên tắc một quốc tịch” của Luật quốc tịch năm 1998, thì “nguyên tắc quốc tịch” trong Luật Quốc tịch năm 2008 có sự mềm dẻo hơn. Nếu như ở Luật năm 1998 có ghi là “nguyên tắc một quốc tịch” thì đến Luật năm 2008 đã bỏ bớt từ “một”, chỉ còn là “nguyên tắc quốc tịch”. Ngoài nội dung đã quy định trong Luật năm 1998 “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam”, Luật năm 2008 còn bổ sung thêm một điểm mới quan trọng “trừ trường hợp Luật này có quy định khác”. Như vậy Luật tiếp tục khẳng định nguyên tắc một quốc tịch, nhưng cũng công nhận có những trường hợp ngoại lệ vừa có quốc tịch Việt Nam, đồng thời có quốc tịch nước ngoài được quy định cụ thể trong các điều luật. Việc khẳng định một số ngoại lệ có thể có hai quốc tịch không có nghĩa từ bỏ nguyên tắc một quốc tịch mà chỉ sửa đổi nguyên tắc này cho mềm dẻo hơn, phù hợp hơn với thực tế biến động dân cư và trong xu hướng hội nhập, toàn cầu hoá hiện nay, quy định này cũng phù hợp với thực tiễn giao lưu quốc tế; nhiều nước trước đây thực hiện chính sách một quốc tịch cứng, mới đây đã sửa đổi theo hướng mềm dẻo hơn là vừa khẳng định nguyên tắc một quốc tịch nhưng có mở rộng ngoại lệ hai quốc tịch (như Nga, Đức, Mê-hi-cô…).
Những trường hợp ngoại lệ nêu trên là những trường hợp đặc biệt, được Chủ tịch nước cho phép khi xin nhập quốc tịch Việt Nam (khoản 3 điều 19), xin trở lại quốc tịch Việt Nam (khoản 5 Điều 23). Người xin nhập quốc tịch Việt Nam, xin trở lại quốc tịch Việt Nam thuộc một trong những trường hợp như là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ của công dân Việt Nam, người có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể được nhập quốc tịch Việt Nam, được trở lại quốc tịch Việt Nam mà không phải thôi quốc tịch nước ngoài, trong trường hợp đặc biệt, được Chủ tịch nước cho phép. Ngoài ra, Luật còn quy định có những trường hợp có thể có hai quốc tịch, đó là trường hợp quốc tịch của trẻ em là con nuôi (Điều 37), trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã nhập quốc tịch nước ngoài, nhưng vẫn mong muốn giữ quốc tịch Việt Nam (khoản 2 Điều 13).
2. Việc đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam (Điều 13)
Điều 13 quy định về việc đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam:
“1. Người có quốc tịch Việt Nam bao gồm người đang có quốc tịch Việt Nam cho đến ngày Luật này có hiệu lực và người có quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật này;
2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam trước ngày Luật này có hiệu lực thì vẫn còn có quốc tịch Việt Nam và trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, phải đăng ký với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để giữ quốc tịch Việt Nam”.
Quy định này mới được bổ sung, nhằm thể chế hoá Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài; để thực hiện chủ trương khép lại quá khứ, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gắn kết cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài với cộng đồng dân tộc Việt Nam, xác định người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ mối quan hệ gắn bó với gia đình, quê hương, góp phần xây dựng quê hương đất nước. Quy định này cũng để làm rõ hơn việc những người vẫn còn có quốc tịch Việt Nam đã được quy định tại khoản 1 Điều này. Mặt khác, trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã nhập quốc tịch của nước sở tại thì họ có quyền giữ quốc tịch Việt Nam nếu pháp luật về quốc tịch của nước đó cho phép công dân có hai quốc tịch. Trên thực tế, đối với bộ phận người Việt Nam định cư ở nước ngoài, việc phải đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam là để xác định rõ ràng tình trạng quốc tịch của họ giúp cho công tác quản lý quốc tịch và bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài hiệu quả hơn. Đây là một quy định mới hoàn toàn so với Luật Quốc tịch năm 1998.
Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đề ra chủ trương tăng cường bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài theo luật pháp, công ước và thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, trên thực tế những năm qua cho thấy, do không xác định được chính xác những ai trong số hơn 3 triệu người Việt Nam định cư ở nước ngoài còn giữ quốc tịch Việt Nam nên công tác quản lý quốc tịch, quản lý công dân cũng như thực hiện nhiệm vụ bảo hộ công dân của Nhà nước ta ở nước ngoài gặp nhiều khó khăn. Việc đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam là phù hợp với nguyện vọng của bà con ở nước ngoài, là giải pháp cụ thể để trong một thời gian nhất định Nhà nước ta xác định được rõ ràng những người Việt Nam định cư ở nước ngoài còn muốn giữ quốc tịch Việt Nam, qua đó xác định đúng tình trạng quốc tịch của họ, tạo điều kiện để làm tốt công tác quản lý về quốc tịch.
Khi Luật có hiệu lực, những người Việt Nam định cư ở nước ngoài muốn giữ quốc tịch Việt Nam thì phải đến đăng ký với cơ quan đại diện Việt Nam ở khu vực gần nhất. Nếu hết thời hạn 5 năm mà không làm thủ tục đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam thì người đó đương nhiên bị mất quốc tịch Việt Nam theo quy định tại khoản 3 Điều 26; sau này, nều người đó muốn có quốc tịch Việt Nam thì phải qua thủ tục xin trở lại quốc tịch Việt Nam.
3. Giải quyết vấn đề nhập quốc tịch Việt Nam đối với người không quốc tịch đã cư trú ổn định tại Việt Nam
Tình trạng người không quốc tịch đang thường trú trên lãnh thổ nước ta chủ yếu tập trung ở một số tỉnh, thành phố phía Nam, Tây Nguyên, các tỉnh biên giới với Trung Quốc, Lào, Campuchia. Do nước ta có chung đường biên giới trên đất liền với ba nước láng giềng, qua nhiều năm chiến tranh nên việc di cư tự do qua biên giới đã diễn ra dễ dàng và kéo dài. Trải qua nhiều năm cư trú, làm ăn, sinh sống ổn định trên lãnh thổ nước ta, đến nay số cư dân này đã thực sự hoà nhập vào cộng đồng người Việt về mọi mặt đời sống: sản xuất, sinh hoạt, học tập, hôn nhân… Nghề nghiệp của họ chủ yếu là làm ruộng, làm rẫy, một số ít kinh doanh buôn bán nhỏ. Tuy nhiên, về mặt pháp lý, những người này cũng như các con, cháu của họ chưa được hưởng quy chế công dân Việt Nam vì chưa được xác định quốc tịch Việt Nam.
Để giải quyết vấn đề quốc tịch cho những người không quốc tịch đã cư trú ổn định lâu dài trên lãnh thổ Việt Nam, Điều 22 Luật quy định “Người không quốc tịch mà không có đầy đủ các giấy tờ về nhân thân, nhưng đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam từ hai mươi năm trở lên tính đến ngày Luật này có hiệu lực thi hành và tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam thì được nhập quốc tịch Việt Nam theo trình tự, thủ tục và hồ sơ do Chính phủ quy định”.
Theo quy định của Luật thì những đối tượng này được nhập quốc tịch Việt Nam theo trình tự, thủ tục và hồ sơ do Chính phủ quy định. Quy định như vậy để Chính phủ chủ động trong việc giải quyết việc xin nhập quốc tịch Việt Nam cho đối tượng này theo một trình tự, thủ tục đơn giản, nhưng vẫn bảo đảm tuân thủ đúng thẩm quyền của Chủ tịch nước trong việc quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam. Quy định này sẽ góp phần quan trọng vào việc giải quyết một lần trong một thời hạn nhất định những tồn đọng lâu nay về vấn đề quốc tịch với đối tượng là những người đã thường trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam cho đến thời điểm Luật này có hiệu lực.
4. Bổ sung trình tự, thủ tục giải quyết các việc về quốc tịch (các điều 21, 25, 29, 32 và 34)
Để luật hoá các quy định hiện hành về quốc tịch của các văn bản dưới luật, Luật bổ sung các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết các việc về quốc tịch nhằm cải cách thủ tục hành chính, công khai, minh bạch hoá các trình tự, thủ tục này; quy định thời gian giải quyết hồ sơ ở từng công đoạn trong quy trình, tương ứng với trách nhiệm và tính chất công việc phải giải quyết của từng cơ quan, rút ngắn đáng kể thời gian giải quyết các việc về quốc tịch, tạo điều kiện cho người dân có cơ sở pháp lý yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các việc về quốc tịch.
So với Luật năm 1998, Luật năm 2008 đã bổ sung các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết các việc về quốc tịch như: trình tự, thủ tục giải quyết hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam; xin thôi quốc tịch Việt Nam; xin trở lại quốc tịch Việt Nam; tước quốc tịch Việt Nam; huỷ bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam. Đối với từng việc về quốc tịch, Luật quy định cụ thể hồ sơ gồm những giấy tờ gì (các Điều 20, Điều 24, Điều 28) và quy trình giải quyết hồ sơ từ cấp tỉnh đến cấp Trung ương. Theo đó, đối với những người muốn nhập, trở lại hoặc thôi quốc tịch Việt Nam nộp hồ sơ tại Sở Tư pháp nơi cư trú nếu cư trú ở trong nước; đối với người xin thôi quốc tịch Việt Nam hiện đang ở nước ngoài có thể nộp hồ sơ tại Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. Sau đó Sở Tư pháp sẽ có văn bản đề nghị cơ quan Công an cấp tỉnh xác minh về nhân thân của người xin nhập, trở lại, xin thôi quốc tịch Việt Nam. Sau khi nhận được kết quả xác minh của cơ quan Công an, Sở Tư pháp có trách nhiệm hoàn tất hồ sơ trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, kết luận và đề xuất ý kiến gửi Bộ Tư pháp. Riêng trường hợp người xin thôi quốc tịch Việt Nam gửi hồ sơ tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài thì cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm thẩm tra và chuyển hồ sơ về Bộ Ngoại giao để chuyển đến Bộ Tư pháp. Sau khi nhận được hồ sơ do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoặc cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài chuyển đến, Bộ Tư pháp có trách nhiệm xử lý hồ sơ, làm các thủ tục cần thiết và báo cáo Thủ tướng Chính phủ trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định.
Trong Luật năm 1998 chưa có quy trình giải quyết các việc về quốc tịch, mà các quy trình này được quy định tại Nghị định số 104/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 1998 của Chính phủ. Luật năm 2008 đã luật hoá các quy trình với trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết hồ sơ tại từng cơ quan một cách rõ ràng.
Đối với mỗi quy trình giải quyết về quốc tịch, Luật năm 2008 đều quy định cụ thể thời hạn giải quyết hồ sơ tại từng cơ quan; tổng thời gian giải quyết tại các cơ quan từ cấp tỉnh đến cấp Trung ương đối với việc nhập quốc tịch là 115 ngày (không kể thời gian bổ sung hồ sơ của người xin nhập quốc tịch), đối với việc xin trở lại quốc tịch Việt Nam là 85 ngày (trường hợp nộp hồ sơ ở trong nước) hoặc 70 ngày (trường hợp nộp hồ sơ ở cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài), đối với việc xin thôi quốc tịch Việt Nam là 80 ngày (trường hợp nộp hồ sơ ở Sở Tư pháp) hoặc 65 ngày (trường hợp nộp hồ sơ tại Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài). Các thời hạn trên là thời gian giải quyết hồ sơ thực tế tại các cơ quan có thẩm quyền, không tính thời gian trung chuyển hồ sơ. Luật năm 1998 không quy định trình tự giải quyết từng việc cụ thể nhưng có quy định thời hạn giải quyết đơn yêu cầu về quốc tịch tại Điều 38, theo đó, thời hạn giải quyết hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam là không quá 12 tháng, hồ sơ xin thôi quốc tịch Việt Nam, xin trở lại quốc tịch Việt Nam không quá 6 tháng kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Như vậy, so với thời hạn được quy định trong Luật năm 1998, thời hạn giải quyết các việc về quốc tịch quy định trong Luật năm 2008 đã được rút ngắn đáng kể. Đây có thể coi là bước đột phá trong việc giải quyết hồ sơ quốc tịch, góp phần thực hiện công khai, minh bạch hoá các thủ tục hành chính và cải cách hành chính theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Việc quy định thời gian giải quyết hồ sơ ở từng công đoạn trong quy trình tạo điều kiện cho người dân có cơ sở pháp lý yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các việc về quốc tịch.
5. Một số điểm mới khác
5.1. Quy định về “Quốc tịch Việt Nam”
Luật quốc tịch năm 2008 đã đưa ra khái niệm về “Quốc tịch Việt Nam” (Điều 1): “Quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của cá nhân với Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của công dân Việt Nam đối với Nhà nước và quyền, trách nhiệm của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với công dân Việt Nam”.
5.2. Về giải thích từ ngữ (Điều 3)
Ngoài việc lược bỏ một số thuật ngữ đã được giải thích trong các luật chuyên ngành khác, Luật năm 2008 đã bổ sung giải thích cụm từ “Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài”. Đây là một cụm từ được sử dụng nhiều trong Luật Quốc tịch nhưng các Luật quốc tịch trước đây chưa có sự giải thích rõ ràng, gây nhiều khó khăn trong việc áp dụng Luật. Theo giải thích tại Điều 3 Luật năm 2008, “Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài là người Việt Nam đã từng có quốc tịch Việt Nam mà khi sinh ra quốc tịch của họ được xác định theo nguyên tắc huyết thống và con, cháu của họ đang cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài”.
5.3. Giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam (Điều 11)
Các giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam đã được quy định tại Điều 11 Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998. Tuy nhiên, Luật quốc tịch năm 2008 đã quy định cụ thể hơn và theo trình tự logic hợp lý hơn. Bên cạnh việc lược bỏ một số loại giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam đã được quy định trong Luật năm 1998, Luật quốc tịch năm 2008 còn bổ sung thêm một số giấy tờ khác: “Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi đối với trẻ em là người nước ngoài; Quyết định cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi”.
5.4. Giải quyết vấn đề phát sinh từ tình trạng công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài (Điều 12)
Quy định này là sự kết hợp Điều 13 và Điều 41 của Luật năm 1998 và có bổ sung thêm. Điều 13 Luật năm 1998 chỉ quy định đơn thuần về “Áp dụng điều ước quốc tế về quốc tịch”, còn Điều 12 Luật năm 2008 đã quy định cụ thể “vấn đề phát sinh từ tình trạng công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài được giải quyết theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, trường hợp chưa có điều ước quốc tế thì được giải quyết theo tập quán và thông lệ quốc tế”.
5.5. Quốc tịch của trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam (Điều 16)
Khoản 2 Điều 17 Luật năm 1998 đã quy định về quốc tịch của trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam, theo đó “Trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam, còn người kia là công dân nước ngoài, thì có quốc tịch Việt Nam, nếu có sự thoả thuận bằng văn bản của cha mẹ vào thời điểm đăng ký khai sinh cho con”. Tuy nhiên, trên thực tế nảy sinh vấn đề, nếu tại thời điểm đăng ký khai sinh cho con mà cha mẹ không thoả thuận được việc lựa chọn quốc tịch cho con thì đứa trẻ sẽ mang quốc tịch của cha hay mẹ. Nhằm tháo gỡ vướng mắc này, Luật năm 2008 đã bổ sung quy định “Trường hợp trẻ em được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà cha mẹ không thoả thuận được việc lựa chọn quốc tịch cho con thì trẻ em đó có quốc tịch Việt Nam”. Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi cho trẻ em, hạn chế việc để trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam rơi vào tình trạng không quốc tịch.
5.6. Trở lại quốc tịch Việt Nam (Điều 23)
So với các điều kiện được trở lại quốc tịch Việt Nam quy định tại Điều 21 Luật năm 1998, Luật năm 2008 đã quy định mở rộng thêm một số trường hợp được trở lại quốc tịch Việt Nam, đó là: thực hiện đầu tư tại Việt Nam hoặc đã thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước ngoài, nhưng không được nhập quốc tịch nước ngoài đó. Quy định này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho những người gốc Việt Nam quay trở lại đầu tư về Việt Nam và muốn hưởng những ưu đãi đầu tư như đối với công dân Việt Nam. Đồng thời, cũng giải quyết được vướng mắc hiện nay là nhiều trường hợp đã xin thôi quốc tịch Việt Nam nhưng lại không được nhập quốc tịch nước ngoài do quá hạn, ly hôn, hồi hương.
Luật năm 2008 cũng bổ sung điều kiện được trở lại quốc tịch Việt Nam đối với người bị tước quốc tịch Việt Nam, bổ sung quy định về tên gọi Việt Nam của người xin trở lại quốc tịch Việt Nam và các trường hợp có thể được Chủ tịch nước cho phép giữ quốc tịch nước ngoài.
5.7. Bỏ quy định về cấp Giấy chứng nhận có quốc tịch Việt Nam, Giấy xác nhận mất quốc tịch Việt Nam.
Ngoài ra, để hướng tới một nền hành chính chuyên nghiệp, đơn giản hóa các thủ tục, tạo thuận lợi cho người dân, Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 không quy định về cấp Giấy chứng nhận có quốc tịch Việt Nam và cấp Giấy xác nhận mất quốc tịch Việt Nam. Tuy Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 có quy định việc cấp Giấy chứng nhận có quốc tịch Việt Nam và Giấy xác nhận mất quốc tịch Việt Nam, nhưng thực tế những năm qua cho thấy, nhu cầu xin cấp các loại giấy tờ này cũng không lớn, phần lớn được sử dụng vào việc làm thủ tục xin cấp hộ chiếu Việt Nam. Như vậy, để chứng minh một người còn hay mất quốc tịch Việt Nam, thì đã có quyết định của Chủ tịch nước. Ngoài ra công dân còn có thể sử dụng giấy khai sinh, chứng minh nhân dân, hộ chiếu để chứng minh quốc tịch của mình.
5.8. Mất quốc tịch Việt Nam (Điều 26)
Do bổ sung quy định về đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam tại khoản 2 Điều 13, nên Luật năm 2008 cũng bổ sung một căn cứ mất quốc tịch Việt Nam, đó là “Không đăng ký giữ quốc tịch Việt nam theo quy định tại khoản 2 Điều 13 của Luật này”.
Quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của cá nhân với Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của công dân Việt Nam đối với Nhà nước và quyền, trách nhiệm của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với công dân Việt Nam. Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 là một đạo luật rất quan trọng, trực tiếp liên quan đến mối quan hệ gắn bó của cá nhân với Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của công dân Việt Nam đối với Nhà nước và quyền, trách nhiệm của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với công dân Việt Nam; là cơ sở pháp lý quan trọng giải quyết các vấn đề về quốc tịch, tạo cơ chế phù hợp để giải quyết vấn đề quốc tịch cho người không quốc tịch đã cư trú ổn định lâu dài trên lãnh thổ Việt Nam và công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài đang định cư ở nước ngoài, thực hiện chính sách bảo hộ của Nhà nước ta đối với công dân Việt Nam ở nước ngoài, góp phần quan trọng vào việc thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta./.
Phần thứ ba
TÀI LIỆU THAM KHẢO
THỰC TRẠNG QUỐC TỊCH CỦA NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI
Dân cư là một trong những bộ phận cấu thành nên một quốc gia. Dân cư của một quốc gia không chỉ bao gồm công dân của nước đó mà còn có người có quốc tịch nước ngoài, người có hai hay nhiều quốc tịch và người không quốc tịch. Sở dĩ có tình trạng công dân của một nước này lại làm ăn, sinh sống ở một nước khác là do có hiện tượng di dân. Di dân không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên mà là sản phẩm của đời sống kinh tế, xã hội, an ninh, chính trị, văn hoá trong từng thời đại. Ngày nay, di dân thế giới là hệ quả của quá trình toàn cầu hoá. Dòng người Việt Nam di cư ra nước ngoài cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Người Việt Nam ra nước ngoài định cư từ rất sớm (khoảng từ thế kỷ thứ XIII) do nhiều nguyên nhân khác nhau, cư trú ở những địa bàn khác nhau về địa lý và chính trị. Từ đó đã tạo nên cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đa dạng và phức tạp.
Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài thì vấn đề quốc tịch hết sức quan trọng. Việc họ còn hay không còn giữ quốc tịch Việt Nam cũng như đã được nhập quốc tịch nước ngoài hay chưa có ảnh hưởng trực tiếp đến địa vị pháp lý của họ.
I. Khái quát tình hình người Việt Nam định cư ở nước ngoài
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài theo giải thích từ ngữ tại Điều 3 Luật quốc tịch Việt Nam là “công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài”. Như vậy, cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài bao gồm cả công dân Việt Nam (những người còn quốc tịch Việt Nam) và người gốc Việt Nam (người đã từng có quốc tịch Việt Nam mà khi sinh ra quốc tịch của họ được xác định theo nguyên tắc huyết thống và con, cháu của họ). Hiện nay, có khoảng 3,4 triệu người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cư trú ở gần 90 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó tập trung chủ yếu ở 21 nước thuộc các khu vực: Bắc Mỹ, Tây Bắc Âu, Nga và Đông Âu, Đông Nam Á, Đông Bắc Á và châu Úc. Một số khu vực khác như Nam và Tây Á, Trung Đông, Châu Phi và Nam Mỹ tuy cũng có người Việt làm ăn, sinh sống song số lượng rất ít.
Theo số liệu thống kê của Uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài, khoảng 80% người Việt Nam đang làm ăn, sinh sống tại các nước phát triển, trong đó tập trung đông nhất là ở Mỹ (1,5 triệu người), Pháp (300.000 người), Canada (250.000 người), Úc (245.000người). Ở các nước Đông Âu (Nga), các nước châu Á (Campuchia, Thái Lan) mỗi nước có khoảng 100.000 người Việt làm ăn, sinh sống.
Từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay, đặc biệt là từ những năm 2000, do chính sách mở cửa của Nhà nước ta trong quan hệ đối ngoại cũng như do ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hoá, số người Việt Nam ra nước ngoài định cư ngày càng đông. Họ ra nước ngoài để đoàn tụ gia đình hoặc làm ăn, kinh doanh, đi du học rồi ở lại. Cũng có nhiều trường hợp kết hôn với công dân nước ngoài rồi theo chồng ra nước ngoài định cư.
Tuy sống xa Tổ quốc nhưng cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài luôn hướng về Tổ quốc, gắn bó với gia đình, quê hương, có tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, có ý thức giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Nhiều người đã đóng góp về tinh thần, vật chất và cả xương máu cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Tuy thế, trong số những người Việt Nam định cư ở nước ngoài cũng có một số ít người còn có thành kiến hoặc những hành động đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc, ra sức chống phá đất nước. Nhưng nhìn chung, cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài luôn hướng về đất nước với tinh thần của những đứa con sống xa Tổ quốc. Họ thường xuyên giữ mối quan hệ với thân nhân trong nước, càng ngày càng có nhiều người về thăm thân nhân, đi du lịch hoặc hồi hương về Việt Nam.
Về mặt kinh tế, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có tiềm lực kinh tế nhất định mặc dù họ còn gặp phải những khó khăn do phải cạnh tranh với người dân nước sở tại. Trong số những người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã có những doanh nghiệp Việt Nam rất thành đạt, uy tín của người Việt Nam định cư ở nước ngoài ngày càng được nâng cao.
Cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài cũng là một cộng đồng có tiềm năng về chất xám. Hiện nay, nhiều người Việt Nam ở nước ngoài có trình độ Đại học, trên Đại học, chuyên gia kỹ thuật có tay nghề cao. Với truyền thống hiếu học của dân tộc, người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhất là người thuộc thế hệ thứ 3, 4 được đào tạo ở bậc cao, làm cho đội ngũ trí thức là người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng tăng.
I. Quy định của pháp luật Việt Nam về quốc tịch đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài
Ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, Nhà nước ta đã ban hành các văn bản pháp luật quy định về quốc tịch. Tuy nhiên, ngày 28/6/1988, Luật quốc tịch Việt Nam đ���u tiên mới được thông qua. Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988 lần đầu tiên đã chính thức “luật hoá” mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân bằng quy định tại Điều 2: “Công dân Việt Nam được Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm các quyền công dân và phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội theo quy định của pháp luật. Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của công dân Việt Nam ở nước ngoài”. “Quyền lợi chính đáng của công dân Việt Nam ở nước ngoài” được quy định chi tiết tại Điều 1 Nghị định số 37/HĐBT ngày 05/02/1990 quy định chi tiết thi hành Luật quốc tịch Việt Nam. Theo đó, “Quyền lợi chính đáng của công dân Việt Nam ở nước ngoài theo quy định tại Điều 2 Luật quốc tịch là những quyền lợi được pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết bảo đảm và những quyền lợi khác theo pháp luật và tập quán quốc tế, nếu việc hưởng những quyền lợi ấy không trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.
Các quy định của Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo hộ của Nhà nước Việt Nam đối với công dân Việt Nam ở nước ngoài, phù hợp với chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn đó.
Xuất phát từ những đòi hỏi về mặt pháp lý và thực tiễn, ngày 20/5/1998 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 thay thế Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988. Liên quan đến vấn đề người Việt Nam ở nước ngoài, Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 quy định: “Nhà nước Việt Nam bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam ở nước ngoài”, khác với Luật quốc tịch năm 1988 chỉ quy định việc bảo hộ đối với “công dân Việt Nam ở nước ngoài”. Như vậy, phạm vi bảo hộ của nhà nước Việt Nam đã được mở rộng. Nhà nước Việt Nam sẽ bảo hộ không những đối với người có quốc tịch Việt Nam (công dân Việt Nam) mà còn bảo hộ cả với những người gốc Việt Nam ở nước ngoài. Quy định này đã khiến cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Sau hơn 9 năm thực hiện, Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 đã phát huy vai trò là cơ sở pháp lý quan trọng trong vấn đề quản lý quốc tịch. Tuy nhiên, Luật năm 1998 cũng bộc lộ một số điểm hạn chế, bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung. Chính vì vậy, ngày 13 tháng 11 năm 2008, Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 thay thế Luật quốc tịch năm 1998. Luật quốc tịch năm 2008 so với Luật năm 1998 có nhiều điểm mới, riêng đối với quy định liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài, Luật quốc tịch năm 2008 ngoài việc kế thừa các quy định trước đó về quan hệ giữa Nhà nước với công dân, bảo hộ đối với công dân Việt Nam ở nước ngoài, chính sách đối với người gốc Việt Nam ở nước ngoài còn bổ sung quy định mới về quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài đang định cư ở nước ngoài. Theo đó, “quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài đang định cư ở nước ngoài được thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan”. Đặc biệt, tại Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008, lần đầu tiên vấn đề quốc tịch của người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã được khẳng định rõ tại khoản 2 Điều 13: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam trước ngày Luật này có hiệu lực thì vẫn còn quốc tịch Việt Nam và trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, phải đăng ký với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để giữ quốc tịch Việt Nam”. Quy định này phù hợp với nguyện vọng của đông đảo người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tạo tâm lý phấn khởi và yên tâm cho họ.
Có thể thấy rằng, những quy định tại Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài đã thể hiện rõ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay, luôn coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam.
II. Thực trạng quốc tịch của người Việt Nam định cư ở nước ngoài
1. Thực trạng quốc tịch của người Việt Nam định cư ở nước ngoài
Trong số hơn 3,4 triệu người Việt Nam ở nước ngoài hiện nay có khoảng 80% người Việt sống ở các nước công nghiệp phát triển và khoảng 70-80% số đó được nhập quốc tịch nước sở tại. Tình hình quốc tịch của người Việt Nam định cư ở nước ngoài có thể được xem xét theo các khu vực: các nước Đông Âu, các nước châu Á và các nước phương Tây.
Ở các nước Đông Âu: cộng đồng người Việt Nam ở các nước Đông Âu được hình thành chủ yếu vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ 20. Hầu hết họ sang Đông Âu để làm việc, học tập rồi ở lại hoặc một số khác thì đi theo con đường du lịch, thăm thân nhân. Họ ra đi hợp pháp nhưng sau đó ở lại quá hạn và trở thành cư trú bất hợp pháp. Do những nguyên nhân khác nhau như bị mất giấy tờ, không được cấp giấy tạm trú, không được phép đăng ký cư trú nên hiện có khoảng 80% người Việt Nam ở các nước này không có quy chế định cư hoặc giấy tờ hợp pháp. Trong số còn lại có quy chế định cư và giấy tờ hợp pháp thì cũng chỉ có một số ít là có quốc tịch của nước sở tại. Chính điều này đã khiến cho cuộc sống của họ không ổn định và gặp nhiều khó khăn.
Ở các nước châu Á: Các nước thuộc khu vực Đông Nam Á (Lào, Campuchia, Thái Lan) là những nước làng giềng lân cận với Việt Nam, do đó có khá đông người Việt Nam sang định cư tại các nước này. Hiện nay, số lượng người Việt Nam ở các nước này là 163.690 người[1]. Do chính sách của các nước sở tại đối với người nước ngoài không giống nhau nên địa vị pháp lý của người Việt Nam ở từng nước đó cũng khác nhau. Chẳng hạn ở Lào, do được sự quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện của Chính phủ Lào nên cộng đồng người Việt ở Lào đã ổn định cuộc sống, được hưởng quy chế cư trú và hơn nửa trong số đó đã được nhập quốc tịch Lào. Trong khi đó, tại Campuchia, địa vị pháp lý của người Việt Nam không rõ ràng, phần lớn không có giấy tờ tuỳ thân hợp pháp, chỉ có một số lượng ít người Việt có quốc tịch Campuchia. Chính vì vậy, cuộc sống của họ gặp rất nhiều khó khăn. Còn tại Thái Lan, theo thống kê của nhà chức trách Thái Lan năm 1997, người Việt tại đây có khoảng 43.690 người trong đó có 26.423 người đã được cấp giấy tờ định cư hoặc được nhập quốc tịch Thái Lan. Chính phủ Thái Lan có một số chính sách cởi mở, do đó, cuộc sống của người Việt ở Thái Lan ổn định hơn.
Tại một số nước khác thuộc khu vực châu Á như Hàn Quốc, Trung Quốc (Đài Loan) cũng có khá đông người Việt định cư. Phần lớn trong số này là các cô dâu Việt lấy chồng người Hàn Quốc hoặc Đài Loan rồi theo chồng về nước định cư.
Tại Đài Loan, hiện nay cộng đồng người Việt đã có hơn 100 nghìn người sinh sống, trong đó số người là các cô dâu Việt đến bằng con đường kết hôn chiếm hơn 70%. Chỉ tính từ năm 1995 đến cuối năm 2004, Việt Nam đã có khoảng 85.000 phụ nữ kết hôn với đàn ông Đài Loan. So với số lượng kết hôn năm 1998, từ năm 2000 đến nay tỷ lệ luôn tăng hơn 100%, cao nhất là năm 2002 (so với năm 1998) là 172%, với số lượng là 13.743 người đã kết hôn[2]. Hầu hết các cô dâu Việt Nam khi sang Đài Loan theo chồng đều có nguyện vọng muốn nhập quốc tịch Trung Quốc (Đài Loan) theo chồng. Vì vậy, hàng năm số lượng công dân Việt Nam ở Đài Loan xin thôi quốc tịch Việt Nam là rất lớn, năm 2005 là 9.200 người, năm 2006 là 6.000 người, năm 2007 là 11.398 người và năm 2008 là 4.200 người[3]. Số này sau khi xin thôi quốc tịch Việt Nam hầu hết sẽ được nhập quốc tịch Trung Quốc (Đài Loan). Nhưng cũng có khá nhiều trường hợp đã xin thôi quốc tịch Việt Nam song lại có mâu thuẫn gia đình dẫn đến ly hôn hoặc do người chồng chết, thẻ cư trú hết hạn nên không được nhập quốc tịch nước sở tại. Từ đó dẫn đến việc họ rơi vào tình trạng không quốc tịch, gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống ở đó. Nhiều người trong số họ đã trở về Việt Nam bằng Giấy thông hành do Văn phòng Kinh tế – Văn hoá Việt Nam tại Đài Bắc cấp. Tuy nhiên, cuộc sống của họ ở Việt Nam cũng có nhiều khó khăn do họ không còn là công dân Việt Nam, không có giấy tờ tuỳ thân.
Cùng với Đài Loan, Hàn Quốc cũng là một quốc gia có khá đông các cô dâu Việt Nam sinh sống. Theo thống kê của Cục thống kê Hàn Quốc, trong 5 năm (từ năm 2001 đến 2005) đã có 10.279 cô dâu Việt Nam kết hôn với đàn ông Hàn Quốc[4]. Đa số cô dâu Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc sau khi theo chồng ra nước ngoài định cư đều muốn xin thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch theo chồng. Đến nay, số cô dâu Việt Nam tại Hàn Quốc xin thôi quốc tịch Việt Nam năm 2007 là 273 trường hợp, năm 2008 là 543 trường hợp[5].
Ở các nước phương Tây: Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài tại các nước tư bản phát triển chiếm số lượng lớn nhất, khoảng 4/5 tổng số người Việt Nam ở nước ngoài trên toàn thế giới. Người Việt Nam ở khu vực này phần đông đã có quốc tịch nước sở tại (70-80%) do thủ tục xin nhập quốc tịch các nước này ít phức tạp, không đòi hỏi phải xin thôi quốc tịch gốc, chỉ cần đáp ứng các tiêu chuẩn theo luật nhập cư là có thể được nhập tịch (ví dụ: Mỹ, Pháp…). Riêng đối với Cộng hoà liên bang Đức, pháp luật về quốc tịch của Đức quy định người nước ngoài muốn nhập quốc tịch Đức thì phải thôi quốc tịch mà họ đang có. Do đó, hàng năm, số người Việt Nam định cư ở Đức xin thôi quốc tịch Việt Nam khá nhiều, năm 2005 là 933 trường hợp, năm 2006 là 886 trường hợp, năm 2007 là 862 trường hợp, năm 2008 là 1.097 trường hợp[6].
Như vậy, ngoại trừ số người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã xin thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước sở tại thì hiện nay, còn nhiều người vừa có quốc tịch Việt Nam, vừa có quốc tịch nước ngoài. Việc họ vẫn còn quốc tịch Việt Nam khi đã được nhập quốc tịch nước ngoài là do nước mà họ định cư công nhận 2 quốc tịch hoặc chấp nhận 2 quốc tịch trên thực tế. Trong khi đó, trong cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài này vẫn có một bộ phận chỉ có quốc tịch Việt Nam mà chưa được nhập quốc tịch nước sở tại. Số này chủ yếu sống ở Nga, các nước Đông Âu và những người ra đi hợp pháp đang định cư ở các nước phương Tây. Hầu hết họ đã được Việt Nam cấp đổi hộ chiếu trừ những người vượt biên hoặc ra đi bất hợp pháp. Những người này đã được nước sở tại cấp giấy chứng nhận quy chế ngoại kiều, giấy thông hành tỵ nạn…Đến nay, một số người không có giấy tờ gì, sống bất hợp pháp hoặc rơi vào tình trạng không quốc tịch, nhất là ở Nga và các nước Đông Âu. Bên cạnh đó, cũng có một bộ phận đã xin thôi quốc tịch Việt Nam để được gia nhập quốc tịch của nước sở tại như: Lào, Séc, Hàn Quốc, Trung Quốc (Đài Loan), Đức…
2. Nguyện vọng của cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài về vấn đề quốc tịch.
Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, vấn đề quốc tịch có ý nghĩa hết sức quan trọng. Phần đông cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài mong muốn Nhà nước Việt Nam công nhận quy chế hai hay nhiều quốc tịch, nghĩa là vừa có quốc tịch Việt Nam, vừa có quốc tịch nước ngoài. Ngoại trừ thế hệ thứ hai, thế hệ thứ ba mặc nhiên có quốc tịch nước ngoài do sinh ra, còn lại họ mong muốn được nhập quốc tịch nước ngoài vì những vấn đề liên quan trực tiếp tới lợi ích của bản thân họ như để được hưởng quy chế cư trú dài hạn, có hộ chiếu nước ngoài, được hưởng các quyền lợi như công dân nước sở tại về việc làm, bảo hiểm, trợ cấp xã hội, việc học hành của con cái…Nhưng đồng thời họ cũng không muốn từ bỏ quốc tịch Việt Nam vì họ muốn giữ mối liên hệ chặt chẽ với đất nước Việt Nam. Việc còn hay không còn giữ quốc tịch Việt Nam cũng ảnh hưởng trực tiếp tới một số quyền lợi của họ như vấn đề xuất nhập cảnh, cư trú, hồi hương…Đặc biệt, ngày 18/6/2009, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Điều 126 của Luật Nhà ở và Điều 121 của Luật Đất đai. Theo đó, nếu người Việt Nam định cư ở nước ngoài được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cho phép cư trú tại Việt Nam từ 3 tháng trở lên thì có quyền sở hữu nhà ở để bản thân và các thành viên trong gia đình sinh sống tại Việt Nam; Người gốc Việt Nam được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp Giấy miễn thị thực và được phép cư trú tại Việt Nam từ 3 tháng trở lên thì có quyền sở hữu một căn hộ riêng lẻ hoặc một căn hộ chung cư tại Việt Nam để bản thân và các thành viên trong gia đình sinh sống tại Việt Nam. Như vậy, pháp luật Việt Nam đã và đang được sửa đổi theo hướng chú trọng đến việc mở rộng việc hưởng các quyền lợi cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Chính điều này khiến cho việc có quốc tịch Việt Nam càng có ý nghĩa đối với cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài và tuy sống xa Tổ quốc nhưng họ thực sự mong muốn vẫn là công dân Việt Nam một cách chính thức trên phương diện pháp lý. Khoản 2 Điều 13 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định về việc “người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam…thì vẫn còn quốc tịch Việt Nam và trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, phải đăng ký với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam” xuất phát từ chính sách của Đảng và Nhà nước đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cũng như xu hướng hội nhập hiện nay. Việc khẳng định người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam thì vẫn còn quốc tịch Việt Nam là quyền lợi của họ, nhưng để được hưởng quyền lợi này, họ phải thực hiện nghĩa vụ đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. Quy định này sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài ngày càng gắn bó với quê hương, đất nước.
Đối với những người Việt Nam định cư ở các nước mà pháp luật các nước này có quy định nếu muốn xin nhập quốc tịch nước họ thì phải xin thôi quốc tịch gốc (Đức, Lào, Trung Quốc (Đài Loan)…) luôn có nguyện vọng pháp luật Việt Nam về quốc tịch sẽ có những cải cách, rút ngắn thời gian giải quyết việc thôi quốc tịch Việt Nam để thuận tiện cho họ. Với những quy định thực sự mang tính cải cách hành chính về trình tự, thủ tục giải quyết các việc về quốc tịch trong Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 chắc chắn sẽ đáp ứng được phần lớn nguyện vọng của cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Qua phân tích ở trên cho thấy, trong những năm qua, vấn đề quốc tịch của người Việt Nam định cư ở nước ngoài là vấn đề phức tạp, luôn thu hút được sự quan tâm đặc biệt của cộng đồng này. Trước khi Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 có hiệu lực, việc xác định quốc tịch cho những người này chưa được quy định rõ ràng. Chính vì vậy, có nhiều người cũng không khẳng định được là mình có còn quốc tịch Việt Nam trên phương diện pháp lý hay không, nhất là các thế hệ thứ 2, thứ 3. Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 ra đời với quy định tại khoản 2 Điều 13 đã khắc phục được tình trạng này, khiến bà con phấn khởi, yên tâm và ngày càng hướng về đất nước Việt Nam với tình cảm đặc biệt của những người con đang ở xa Tổ quốc. Các quy định của pháp luật Việt Nam nói chung và các quy định của pháp luật về quốc tịch nói riêng đã khẳng định rõ chính sách của Đảng và Nhà nước ta “luôn luôn coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”./.
VẤN ĐỀ NGƯỜI KHÔNG QUỐC TỊCH Ở VIỆT NAM
VÀ HƯỚNG GIẢI QUYẾT
1. Thực trạng về người không quốc tịch ở Việt Nam
Theo quan niệm quốc tế, tình trạng không quốc tịch có 2 dạng chính: người không quốc tịch theo luật (du jure) nghĩa là một người không xin được xác nhận quốc tịch hoặc không được coi là công dân của một nước theo quy định của luật pháp nước đó và người không quốc tịch từ thực tế (de factor) nghĩa là một người không thể có bất cứ giấy tờ gì để chứng minh quốc tịch của mình.
Khoản 2 Điều 2 Luật Quốc tịch Việt Nam 1998 đã giải thích cụm từ “người không quốc tịch” là người không có quốc tịch Việt Nam và cũng không có quốc tịch nước ngoài. Thuật ngữ này vẫn tiếp tục được sử dụng lại tại khoản 2 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008. Quan điểm và chính sách của Nhà nước ta về hạn chế tình trạng không quốc tịch được thể hiện tại Điều 8 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tạo điều kiện cho trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam đều có quốc tịch và những người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam được nhập quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật này”.
Trong những năm qua, Bộ Tư pháp chủ động, tích cực trong việc giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về quốc tịch, phối hợp với các Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, Uỷ ban nhân dân và Sở Tư pháp của các tỉnh, thành phố trực trung ương thụ lý, xem xét, giải quyết một khối lượng rất lớn hồ sơ xin nhập, xin thôi, xin trở lại quốc tịch Việt Nam. Tuy nhiên, việc giải quyết hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam trong nhiều năm qua chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân, số lượng người nước ngoài, đặc biệt là số người không quốc tịch được nhập quốc tịch Việt Nam là quá ít. Tính từ tháng 01 năm 1999 đến tháng 12 năm 2008, Bộ Tư pháp đã làm thủ tục trình Chủ tịch nước cho phép 296 trường hợp được nhập quốc tịch Việt Nam, trong số đó chủ yếu là người Hoa hiện đang sinh sống tập trung tại thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam và người Campuchia tị nạn; số lượng người không quốc tịch sống ổn định từ nhiều năm trên lãnh thổ Việt Nam được nhập quốc tịch Việt Nam là rất hạn chế.
Người không quốc tịch cư trú trên lãnh thổ Việt Nam vẫn còn tồn đọng từ nhiều năm nay. Theo nghiên cứu và báo cáo của các địa phương, có thể khái quát nguời không quốc tịch ở Việt Nam thành 2 nhóm cơ bản là những người tị nạn, người di cư tự do từ Campuchia đến sinh sống tại các tỉnh phía Nam và những người từ Lào di cư tự do sang Việt Nam sống dọc 10 tỉnh biên giới phía Tây. Ngoài ra còn có những người không quốc tịch từ Trung quốc di cư sang Việt Nam sống tại các tỉnh biên giới phía Bắc và một số người đã được thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước ngoài nhưng vì nhiều lý do khác nhau họ không nhập được quốc tịch của nước đó, nay họ đang rơi vào tình trạng không quốc tịch, về Việt Nam sinh sống (trở về từ Hàn Quốc, Đài Loan, Đức, Tiệp…).
Những người tị nạn và di cư tự do từ Cam pu chia đến sinh sống tại các tỉnh phía Nam:
Theo thống kê của các Sở Tư pháp các tỉnh phía Nam, từ những năm 1970 đến năm 1983 có hàng chục nghìn Việt kiều từ Campuchia, phụ nữ Campuchia lấy chồng là bộ đội Việt Nam và khoảng 125.000 người Campuchia tị nạn sang Việt Nam, tập trung chủ yếu tại một số địa phương như: TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, An Giang, Đồng Tháp, Tây Ninh v.v… Chính phủ Việt Nam đã chỉ đạo các địa phương, cùng với Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn (UNHCR) đã thành lập một số trại ở một số tỉnh phía Nam để quản lý và giúp đỡ số người lánh nạn này. Sau khi Pol Pốt bị lật đổ, với sự hỗ trợ của UNHCR, Chính phủ Việt Nam đã trao đổi với Chính phủ Campuchia thu xếp cho đa số người tị nạn nêu trên hồi hương về Campuchia, đồng thời một số được thu xếp cho đi tái định cư ở nước thứ ba. Số còn lại khoảng 10.000 người chủ yếu là người gốc Việt Nam và gốc Hoa vì không thể thu xếp đi định cư ở nước thứ ba nên họ đã ở lại Việt Nam làm ăn, sinh sống.
Trong số người Campuchia tị nạn này, có rất ít người có thể xuất trình được giấy tờ chứng minh quốc tịch Campuchia, còn hầu hết đều khồng có bất cứ một loại giấy tờ pháp lý gì để chứng minh quốc tịch Campuchia hoặc quốc tịch nước khác. Hiện tại quốc tịch của họ chỉ được xác định dựa trên cơ sở giấy thường trú của người nước ngoài do cơ quan công an cấp và các tài liệu tị nạn ghi lại lời khai là có quốc tịch Campuchia (kể cả người Hoa, người Đài Loan cũng khai là có quốc tịch Campuchia, đăng ký tại các trại tỵ nạn để được hưởng trợ cấp của cơ quan Cao uỷ Liên hợp quốc về người tị nạn. Có không ít trường hợp người tị nạn có bố, mẹ, vợ, chồng là công dân Việt Nam. Hầu hết những người trong số họ đều đã có công ăn việc làm, giao tiếp bình thường bằng tiếng Việt, chấp hành tốt pháp luật Việt Nam, họ đều có nguyện vọng xin nhập quốc tịch Việt Nam để ổn định, yên tâm, làm ăn sinh sống lâu dài tại Việt Nam.
Người không quốc tịch từ Lào di cư tự do sang Việt Nam: Vấn đề người Lào, người Lào gốc Việt di cư tự do sang cư trú ở các tỉnh có biên giới với Lào đã tồn tại từ nhiều năm nay và vẫn còn đang tiếp diễn. Vấn đề dân di cư ở khu vực biên giới rất phức tạp. Hầu hết đối tượng này đều có cuộc sống khó khăn về kinh tế, trình độ dân trí thấp, không có bất cứ giấy tờ gì để làm căn cứ xác định nhân thân của họ; quan niệm về hôn nhân còn đơn giản, nặng về phong tục, tập quán; con sinh ra cũng không đăng ký khai sinh. Theo số liệu thống kê được đưa ra trong Biên bản cuộc họp lần thứ XVI giữa hai Đoàn đại biểu biên giới Việt Nam-Lào ký ngày 30/12/2006 tại thủ đô Viêng Chăn, thì tổng số dân Lào di cư tự do sang Việt Nam được thống kê sơ bộ là 5.188 người và 666 trường hợp kết hôn không giá thú sống trên đất Việt Nam; tổng số dân Việt Nam di cư tự do sang Lào là 4.251 người và 992 trường hợp kết hôn không giá thú sống trên đất Lào.
Nguyên nhân của tình trạng người Lào di cư tự do sang Việt Nam và người Việt Nam di cư tự do sang Lào là: dân cư hai bên biên giới có quan hệ họ hàng, thân tộc, có tập quán du canh, du cư từ lâu đời; trình độ nhận thức về biên giới quốc gia, chủ quyền lãnh thổ còn rất hạn chế; cơ sở hạ tầng, điều kiện làm ăn sinh sống rất khó khăn, trong khi đó kinh tế, xã hội của Việt Nam và Lào đang ngày càng được cải thiện, phát triển. Những yếu tố đó đã tác động đến người dân của hai nước sống tại các tỉnh giáp biên di cư tự do để làm ăn, sinh sống; mặt khác do thực hiện Hiệp định về Quy chế biên giới Việt Nam – Lào dẫn đến việc dịch chuyển dân cư giữa một số địa phương hai nước, phần lớn người dân trước đây mà Việt Nam bàn giao cho Lào nay muốn quay trở lại Việt Nam cư trú ổn định lâu dài, xum họp với dòng tộc và hưởng các chế độ ưu đãi của Việt Nam. Riêng số dân di cư từ Lào sang Việt Nam hầu hết đều là những người lao động nghèo, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, nói thông thạo tiếng Việt, tiếng địa phương. Về cơ bản họ đều chấp hành tốt chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng như các quy định của địa phương, cần cù lao động sản xuất. Trong số dân di cư tự do này có một số gia đình có công với cách mạng, thuộc diện được hưởng chế độ chính sách của Nhà nước Việt Nam. Hầu hết số bà con di cư từ Lào sang Việt Nam cũng đều có nguyện vọng được nhập quốc tịch Việt Nam để ổn định và làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam.
2. Hướng giải quyết việc nhập quốc tịch cho người không quốc tịch đã cư trú ổn định tại Việt Nam
Trước tình hình tồn đọng số lượng đông người không quốc tịch sống ổn định trên lãnh thổ nước ta, từ năm 2007 đến năm 2008 Thủ tướng Chính phủ đã có những văn bản chỉ đạo cho các bộ, ngành và địa phương khẩn trương giải quyết việc nhập quốc tịch việt Nam cho những người từ Campuchia lánh nạn sang Việt Nam, những người dân di cư tự do tại khu vực biên giới với Lào trên cơ sở nguyện vọng của họ; Đăc biệt, ngày 13-11-2008, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi) có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-7-2009, theo đó có một số điều quy định liên quan đến việc giải quyết nhập quốc tịch Việt Nam của những người không quốc tịch theo hướng đơn giản hoá thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân có cuộc sống ổn định, hoà nhập tốt với cộng đồng xã hội Việt Nam, nhanh chóng ổn định cuộc sống, được hưởng đầy đủ quyền công dân và có điều kiện để làm nghĩa vụ của họ đối với tổ quốc Việt Nam.
Triển khai Kế hoạch giải quyết vấn đề quốc tịch cho người Campuchia lánh nạn: Ngày 04/12/2007 Văn phòng Chính phủ có Công văn số 1221/VPCP-NC thông báo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm đồng ý với đề nghị của Bộ Ngoại giao về việc đẩy nhanh giải quyết nhập quốc tịch Việt Nam cho người Campuchia lánh nạn trước đây, theo đó Thủ tướng Chính phủ giao cho Bộ Tư pháp thành lập Nhóm công tác liên Bộ: Tư pháp, Ngoại giao, Công an và một số cơ quan chức năng để lên kế hoạch cụ thể thực hiện việc đẩy nhanh giải quyết nhập quốc tịch Việt Nam cho số người này và xử lý các vấn đề nảy sinh. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm, sau khi trao đổi, thống nhất với đại diện của các cơ quan liên quan ở Trung ương, Bộ Tư pháp xây dựng và triển khai “Kế hoạch giải quyết vấn đề quốc tịch cho người Campuchia lánh nạn hiện đang sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương và Bình Phước”.
Đối tượng được giải quyết cụ thể là những trường hợp lánh nạn diệt chủng Pol Pot từ Campuchia đến Việt Nam từ những năm bảy mươi đến năm 1989 mà không có giấy tờ chứng minh quốc tịch gốc và đã từng được đăng ký tại các trại tị nạn do UNHCR bảo trợ kể cả con, cháu của họ nếu được sinh ra tại Việt Nam. Cách thức giải quyết là đơn giản hoá thủ tục, trình tự và miễn giảm một số điều kiện nhập quốc tịch Việt Nam. Hiện đa số những người này đều rơi vào hoàn cảnh khó khăn, đặc biệt là vấn đề kinh tế, vì vậy khi xem xét giải quyết cho họ làm thủ tục xin nhập quốc tịch Việt Nam, cơ quan tiếp nhận hồ sơ không thu lệ phí cũng như các chi phí có liên quan.
Theo kế hoạch này, Bộ Tư pháp có trách nhiệm chủ trì và phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành ở Trung ương và Uỷ ban nhân dân TP Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương và Bình Phước thúc đẩy nhanh chóng việc giải quyết vấn đề nhập quốc tịch cho người lánh nạn Campuchia một cách thống nhất và đồng bộ theo kế hoạch; chỉ đạo và hướng dẫn Sở Tư pháp cùng với các cơ quan liên quan ở địa phương thực hiện việc khảo sát, thống kê, phân loại, phỏng vấn, lập hồ sơ những người có nhu cầu xin nhập quốc tịch Việt Nam, trình cơ quan có thẩm quyền cấp trên xem xét, giải quyết; chỉ đạo và hướng dẫn Sở Tư pháp thực hiện đăng ký kết hôn và các việc hộ tịch khác theo các văn bản pháp luật hiện hành, đối với những trường hợp đã được Chủ tịch nước quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam; kiểm tra, đánh giá việc thực hiện của địa phương.
Uỷ ban nhân dân TP Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương và Bình Phước có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp để thực hiện Kế hoạch này tại địa phương; giao cho Sở Tư pháp làm đầu mối chủ trì, phối hợp với Sở Ngoại vụ, Công an tỉnh, thành phố và Uỷ ban nhân dân phường/xã liên quan thực hiện Kế hoạch giải quyết vấn đề quốc tịch cho người Campuchia lánh nạn tại Việt Nam; chỉ đạo Sở Tư pháp triển khai việc khảo sát, thống kê, phân loại, phỏng vấn, lập hồ sơ những người Campuchia lánh nạn có nhu cầu xin nhập quốc tịch Việt Nam, trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết; chỉ đạo Cơ quan Công an địa phương tiến hành việc đăng ký hộ khẩu, cấp Giấy chứng minh nhân dân cho những trường hợp sau khi được Chủ tịch nước ký Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam;
Sở Tư pháp TP Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương và Bình Phước có trách nhiệm triển khai việc khảo sát, thống kê, phân loại, phỏng vấn, lập hồ sơ những người Campuchia lánh nạn có nhu cầu xin nhập quốc tịch Việt Nam, trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết; thực hiện đăng ký kết hôn và các việc hộ tịch khác đối với những trường hợp đã được Chủ tịch nước quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam.
Lộ trình giải quyết vấn đề quốc tịch cho người Campuchia lánh nạn hiện đang sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương và Bình Phước được thực hiện từ tháng 10 năm 2008 đến tháng 9 năm 2009.
Triển khai Kế hoạch giải quyết tình trạng di cư tự do, vượt biên trái phép và kết hôn không giá thú ở khu vực biên giới với Lào: Ngày 20 tháng 10 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 31/2008/CT-TTg về việc giải quyết tình trạng di cư tự do, vượt biên trái phép và kết hôn không giá thú ở khu vực biên giới với Lào. Đó là cơ sở pháp lý để giải quyết nhanh chóng vấn đề nhập quốc tịch Việt Nam cho số dân di cư từ Lào sang Việt Nam. Bộ Tư pháp đã xây dựng và đang chỉ đạo thực hiện Kế hoạch giải quyết vấn đề dân di cư tự do, vượt biên trái phép tại các tỉnh biên giới Việt-Lào.
Kế hoạch này được triển khai thực hiện tại 10 tỉnh của Việt Nam có chung đường biên giới với Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, gồm: Điện Biên, Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên- Huế, Quảng Nam, Kon Tum. Cách thức giải quyết là đơn giản hoá thủ tục, trình tự và miễn giảm một số điều kiện nhập quốc tịch Việt Nam. Hiện đa số những người đều này đều rơi vào hoàn cảnh khó khăn, đặc biệt là vấn đề kinh tế, vì vậy khi xem xét giải quyết cho họ làm thủ tục xin nhập quốc tịch Việt Nam, cơ quan tiếp nhận hồ sơ không thu lệ phí cũng như các chi phí có liên quan.
Bộ Tư pháp có trách nhiệm chủ trì và phối hợp chặt chẽ với các Bộ ngành và Uỷ ban nhân dân các tỉnh biên giới thúc đẩy nhanh chóng việc giải quyết vấn đề đăng ký hộ tịch và nhập quốc tịch cho dân di cư tại khu vực biên giới Việt Nam- Lào một cách thống nhất, đồng bộ; giải quyết dứt điểm việc nhập quốc tịch Việt Nam cho số người Lào di cư tự do sang Việt Nam đã được phép cư trú ổn định và có nguyện vọng xin nhập quốc tịch Việt Nam. Đồng thời Bộ tư pháp chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao, Uỷ ban Dân tộc, các Bộ, ngành liên quan và Uỷ ban nhân dân 10 tỉnh có đường biên giới tiếp giáp với Lào tiến hành rà soát, hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật về giải quyết tình trạng di cư tự do, vượt biên trái phép và nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng chưa đăng ký kết hôn ở khu vực biên giới Việt Nam – Lào để phục vụ cho việc hướng dẫn, tuyên truyền và vận động nhân dân tuân theo pháp luật; sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành của Nhà nước ta trong lĩnh vực này vào năm 2009;
Bộ Tư pháp hướng dẫn Uỷ ban nhân dân 10 tỉnh có đường biên giới tiếp giáp với Lào chỉ đạo các Sở Tư pháp giúp các xã biên giới thực hiện tốt việc đăng ký kết hôn và các việc hộ tịch khác, đồng thời tiếp nhận giải quyết hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam đối với công dân Lào theo quy định của pháp luật; thực hiện việc rà soát, phân loại, thống kê danh sách những người dân di cư kết hôn không giá thú và có quốc tịch Lào đã cư trú ổn định tại các tỉnh biên giới và đề xuất hướng xử lý phù hợp với tình hình thực tiễn; liên hệ với cơ quan đại diện ngoại giao của Lào tại Việt Nam và Bộ Tư pháp Lào về danh sách số người Lào được phép ở lại xin nhập quốc tịch Việt Nam cũng như số người Việt Nam được phép ở lại xin nhập quốc tịch Lào và hoàn tất thủ tục trình cấp có thẩm quyền của hai nước xem xét, quyết định cho nhập quốc tịch trên nguyên tắc có đi, có lại.
Việc giải quyết vấn đề kết hôn không giá thú giữa công dân Việt Nam và công dân Lào và vấn đề quốc tịch của công dân hai nước tại các tỉnh có chung đường biên giới sẽ được tập trung thực hiện trong năm 2009 và năm 2010.
Việc nhập quốc tịch Việt Nam của người không quốc tịch đã cư trú ổn định tại Việt Nam: Điều 22 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định: “Người không quốc tịch mà không có đầy đủ các giấy tờ về nhân thân, nhưng đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam từ hai mươi năm trở lên tính đến ngày Luật này có hiệu lực và tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam thì được nhập quốc tịch Việt Nam theo trình tự, thủ tục và hồ sơ do Chính phủ quy định”. Đây là một bộ phận khá đông dân cư do nhiều nguyên nhân khác nhau (chiến tranh, di canh, di cư, kết hôn, quan hệ gia tộc) vào nước ta từ trước ngày 01-7-1989, sinh sống ở các tỉnh biên giới với Trung Quốc, Lào, Campuchia), một số trường hợp đã di chuyển vào các tỉnh, thành phố sâu trong lãnh thổ Việt Nam như TP Hồ Chí Minh, Bà Rịa-Vũng Tầu, Đồng Nai, Hà Nội, Hải phòng, Đà Nẵng….. Hầu hết trong số đó đã có cuộc sống ổn định, đã có thời gian khá lâu sống hòa nhập với cộng đồng xã hội Việt Nam mà không có giấy tờ về nhân thân để chứng minh quốc tịch, khai sinh, kết hôn của mình. Hầu hết họ đều chấp hành tốt đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Vì vậy, đối tượng này được hưởng sự ưu tiên khi làm hồ sơ, thủ tục xin nhập quốc tịch Việt Nam. Quốc hội giao cho Chính phủ sẽ thông qua một Nghị định để quy định trình tự, thủ tục và hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam theo hướng giảm các khâu trung gian trong quy trình giải quyết công việc, đơn giản hóa các thủ tục, thời gian giải quyết hồ sơ nhập quốc tịch cũng sẽ được rút ngắn hơn, các giấy tờ trong hồ sơ cũng sẽ được giảm bớt đến mức tối thiểu, hồ sơ được giải quyết theo diện tập thể hoặc theo danh sách của gia đình, tạo thuận lợi cho người dân, các đối tượng này đều được miễn lệ phí và các chi phí khác.
Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, với sự chỉ đạo kiên quyết, kịp thời của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp sẽ phối hợp với các bộ ngành và địa phương, đồng thời quan hệ hợp tác với cơ quan có thẩm quyền của các nước có chung đường biên giới nhanh chóng thực hiện có hiệu quả các kế hoạch giải quyết việc nhập quốc tịch Việt Nam cho những đối tượng người không quốc tịch, đưa Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 sớm đi vào cuộc sống./.
Phần thứ 3
TÀI LIỆU THAM KHẢO
LUẬT QUỐC TỊCH VƯƠNG QUỐC CAMPUCHIA
(09-10-1996)
CHƯƠNG I
QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1.
Mục đích của Luật này là xác định quốc tịch Khơ me cho những người sống trên lãnh thổ Vương quốc Campuchia hoặc ở nước ngoài đáp ứng các điều kiện quy định trong Luật này.
Điều 2.
Công dân Khơ me là người có quốc tịch Khơ me.
Công dân Khơ me không bị tước quốc tịch, bị trục xuất hay dẫn độ sang nước khác, trừ khi có thoả thuận song phương.
Điều 3.
Công dân Khơ me sống ở nước ngoài sẽ:
Được Nhà nước bảo hộ ngoại giao.
Không tự động mất quốc tịch.
CHƯƠNG II
CÓ QUỐC TỊCH KHƠ ME DO SINH RA
Điều 4.
1. Có quốc tịch phụ thuộc vào nơi sinh trong các trường hợp sau:
– Trẻ em có cha hoặc mẹ là công dân Khơ me.
– Trẻ em là con ngoài giá thú và được cha hoặc mẹ có quốc tịch Khơ me công nhận.
– Trẻ em không được cha mẹ công nhận nhưng có phán quyết của toà án rằng trẻ em đó có cha hoặc mẹ có quốc tịch Khơ me.
2. Có quốc tịch Khơ me do sinh ra trên lãnh thổ Vương quốc Campuchia:
a) Trẻ em sinh ra tại Campuchia, có cha hoặc mẹ là người nước ngoài sinh ra và sống hợp pháp tại Vương quốc Campuchia.
b) Trẻ em sinh ra không rõ cha mẹ là ai và trẻ sơ sinh được tìm thấy trên lãnh thổ Vương quốc Campuchia được coi như là sinh ra trên lãnh thổ Vương quốc Campuchia.
CHƯƠNG III
CÓ QUỐC TỊCH KHƠ ME DO KẾT HÔN
Điều 5.
Người nước ngoài kết hôn với công dân Khơ me có thể xin nhập quốc tịch Khơ me nếu đã chung sống 3 năm.
Thủ tục xin nhập quốc tịch Khơ me trong trường hợp này được quy định bằng văn bản dưới luật.
Thủ tục cho nhập quốc tịch trong trường hợp này được quyết định bởi Sắc lệnh của Hoàng gia.
Điều 6.
Công dân Khơ me không bị mất quốc tịch Khơ me khi kết hôn với người nước ngoài.
CHƯƠNG IV
NHẬP QUỐC TỊCH KHƠ ME
Điều 7.
Người nước ngoài có thể nộp đơn xin nhập quốc tịch Khơ me thông qua thủ tục nhập quốc tịch Khơ me.
Việc nhập quốc tịch Khơ me không phải là quyền của người nộp đơn mà là ưu đãi của Vương quốc Campuchia. Trong mọi trường hợp, đơn xin nhập quốc tịch Khơ me có thể bị từ chối b���i cơ quan có thẩm quyền.
Điều 8.
Người nước ngoài xin nhập quốc tịch Khơ me phải đáp ứng những điều kiện sau đây:
1. Có chứng nhận có tư cách đạo đức tốt của xã trưởng hoặc trưởng phòng.
2. Có giấy chứng nhận chưa bị kết án về tội hình sự.
3. Có giấy xác nhận có nơi ở tại Vương quốc Campuchia và sống liên tục trong thời gian 7 năm kể từ ngày được cấp giấy phép cư trú trong phạm vi của Luật nhập cư.
4. Có nơi ở tại Vương quốc Campuchia vào thời điểm nộp đơn xin nhập vào quốc tịch Khơ me.
5. Biết nói và viết tiếng Khơ me, có hiểu biết nhất định về lịch sử Khơ me và có bằng chứng rõ ràng là bản thân có thể sống tốt trong xã hội Khơ me, đồng thời chấp nhận phong tục, tập quán tốt của dân tộc Khơ me.
6. Tình trạng thể chất và tinh thần không phải là gánh nặng hoặc mối nguy hiểm đối với quốc gia.
Điều 9.
Thời gian cư trú liên tục 7 năm nêu trên tại khoản 3 Điều 8 Luật này sẽ được giảm xuống còn 3 năm đối với người nước ngoài sinh ra tại Vương quốc Campuchia.
Điều 10.
Thời gian cư trú nêu tại khoản 3 Điều 8 Luật này không áp dụng đối với người nước ngoài có giấy phép đầu tư của Hội đồng phát triển Campuchia và thực hiện dự án đầu tư cụ thể với số vốn từ 1.250.000.000 riel trở lên.
Điều 11.
Thời gian cư trú nêu tại khoản 3 Điều 8 Luật này không áp dụng đối với người nước ngoài không nhận được giấy phép đầu tư của Hội đồng phát triển Campuchia nhưng đã được cho phép hợp pháp và đã đầu tư với số vốn từ 1.250.000.000 riel trở lên.
Điều 12.
Người nước ngoài đóng góp cho ngân sách quốc gia bằng tiền mặt từ 1.000.000.000 riel trở lên cho việc phục hồi và xây dựng nên kinh tế của Vương quốc Campuchia có thể nộp đơn xin nhập quốc tịch Khơ me và chỉ cần đáp ứng những quy định tại khoản 1, 2, 5 và 6 Điều 8 Luật này.
Điều 13.
Người nước ngoài có bằng chứng chứng tỏ là đã có công lao hoặc đóng góp đặc biệt cho Vương quốc Campuchia có thể xin nhập quốc tịch Khơ me mà không cần đáp ứng những điều kiện quy định tại khoản 3 Điều 8 Luật này.
Điều 14.
Người nước ngoài có vợ, chồng hoặc con dưới 18 tuổi mà những người này có ý định xin nhập quốc tịch Khơ me thì có thể nộp đơn xin nhập quốc tịch cùng gia đình.
Điều 15.
Người nước ngoài có thể xin lấy tên Khơ me. Trong trường hợp này, người đó phải ghi rõ họ tên trong đơn xin nhập quốc tịch Khơ me.
Điều 16.
Việc cho nhập quốc tịch Khơ me được quyết định bởi sắc lệnh của Hoàng gia.
Thủ tục xin nhập quốc tịch được quy định bằng văn bản dưới luật.
Điều 17.
Người được phép nhập quốc tịch Khơ me phải tuyên thệ trước Toà án tối cao, nội dung tuyên thệ được ghi trong văn bản dưới luật.
CHƯƠNG V
MẤT QUỐC TỊCH KHƠ ME
Điều 18.
Bất cứ người nào từ 18 tuổi trở lên đã có quốc tịch Khơ me đều có thể xin thôi quốc tịch Khơ me trong trường hợp người đó đã có một quốc tịch khác và không có sự ép buộc. Thủ tục và điều kiện xin thôi quốc tịch Khơ me được quy định trong văn bản dưới luật.
CHƯƠNG VI
XỬ LÝ VI PHẠM
Điều 19.
Chỉ có công dân Khơ me mới có quyền được cấp và giữ Giấy chứng minh quốc tịch Khơ me và hộ chiếu của Vương quốc Campuchia.
Điều 20.
Người nước ngoài nào mang và sử dụng giấy chứng minh quốc tịch Khơ me hoặc hộ chiếu của Vương quốc Campuchia sẽ bị phạt tù từ 5 đến 10 năm.
Điều 21.
Người nào sửa chữa, tẩy xoá, cho mượn hoặc viết tên giả vào chứng minh quốc tịch Khơ me hoặc hộ chiếu của Vương quốc Campuchia, hoặc sử dụng các giấy tờ trên sẽ bị phạt tù từ 5 đến 10 năm.
Điều 22.
Viên chức Chính phủ hoặc bất cứ ai có ý che dấu hoặc cấp chứng minh quốc tịch Khơ me hoặc hộ chiếu cho bất cứ một người nào không có quốc tịch Khơ me, sẽ bị xử lý như người giữ chứng minh quốc tịch Khơ me hay hộ chiếu phi pháp, được nêu trong Điều 20 và 21 Luật này.
CHƯƠNG VII
ĐIỀU KHOẢN CUỐI CÙNG
Điều 23.
Những quy định trái với luật này sẽ bị bãi bỏ.
LUẬT QUỐC TỊCH NHẬT BẢN
(Luật số 147 năm 1950, được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 268 năm 1952,
Luật số 45 năm 1984 và Luật số 89 năm 1993).
CHƯƠNG I
QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1.
Các điều kiện cần thiết để trở thành công dân Nhật Bản sẽ được quy định trong các điều khoản của Luật này.
CHƯƠNG II
NHẬP QUỐC TỊCH
Điều 2. Có quốc tịch do sinh ra.
Trẻ em được công nhận là công dân Nhật Bản nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây:
1. Tại thời điểm trẻ em sinh ra, cha hoặc mẹ là công dân Nhật Bản.
2. Cha của trẻ em đã chết trước khi đứa trẻ sinh ra, có quốc tịch Nhật Bản ở thời điểm người cha chết.
3. Trẻ em không xác định được cha mẹ là ai hoặc cha mẹ là người không quốc tịch sinh ra trên lãnh thổ Nhật Bản thì mang quốc tịch Nhật Bản.
Điều 3. Có quốc tịch do đăng ký.
1. Trẻ em (kể cả trẻ em đã từng có quốc tịch Nhật Bản) dưới 20 tuổi phải được cha mẹ khai báo và công nhận thông qua việc kết hôn hoặc có thể khai báo với Bộ trưởng Bộ Tư pháp, nếu cha hoặc mẹ được công nhận đã từng có quốc tịch Nhật Bản, đang là công dân Nhật Bản thì tại thời điểm cha hoặc mẹ đứa trẻ chết đi, trẻ em sinh ra mang quốc tịch Nhật Bản.
2. Trẻ em khi đáp ứng phù hợp với khoản 1 Điều này sẽ được công nhận là công dân Nhật bản tại thời điểm khai báo.
Điều 4. Có quốc tịch do được nhập quốc tịch.
1. Một người không phải là công dân Nhật Bản có thể có quốc tịch Nhật Bản do nhập quốc tịch.
2. Bộ trưởng Bộ Tư pháp sẽ quyết định cho phép nhập quốc tịch.
Điều 5.
1. Bộ trưởng Bộ Tư pháp sẽ không đồng ý cho nhập quốc tịch trừ phi người xin nhập quốc tịch đáp ứng đầy đủ các yêu cầu sau đây:
(1) Cư trú trên lãnh thổ Nhật Bản 5 năm liên tiếp;
(2) Từ 20 tuổi trở lên và đầy đủ năng lực pháp luật theo quy định của nước họ;
(3) Có tư cách đạo đức tốt;
(4) Có khả năng đảm bảo cuộc sống của mình bằng nguồn tài sản tự có hoặc bằng khả năng của mình, do vợ, chồng hoặc những người họ hàng chi trả.
(5) Người không quốc tịch hoặc người nước ngoài sẽ được nhập quốc tịch Nhật Bản sau khi xin thôi quốc tịch nước ngoài;
(6) Không bao giờ có âm mưu, tổ chức liên quan đến đảng phái hoặc các tổ chức chính trị khác nhằm lật đổ Chính phủ và Hiến pháp Nhật Bản hiện hành, bởi những quy định bắt buộc của Hiến pháp Nhật Bản.
2. Trường hợp một người nước ngoài không thể xin thôi quốc tịch hiện có của họ, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể cho phép họ nhập quốc tịch Nhật Bản, mặc dù người đó không đáp ứng được điều kiện quy định tại mục (5) khoản 1 Điều này, nếu Bộ trưởng Bộ Tư pháp xét thấy hoàn cảnh ngoại lệ như có quan hệ với họ hàng với công dân Nhật Bản, hoặc một số trường hợp ngoại lệ khác.
Điều 6.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể cho phép một người nước ngoài nhập quốc tịch kể cả khi người nước ngoài không đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại mục (1), khoản 1 Điều 5, có căn cứ chứng minh người đó thuộc một trong các trường hợp sau, và hiện tại cư trú tại Nhật Bản:
(1) Đã có thời gian cư trú trên lãnh thổ Nhật Bản 3 năm liên tiếp và là con của công dân Nhật Bản (bao gồm cả con nuôi);
(2) Sinh ra trên lãnh thổ Nhật Bản và đã có thời gian cư trú tại Nhật Bản 3 năm liên tiếp, hoặc cha hoặc mẹ của họ (bao gồm cả cha và mẹ nuôi) sinh ra trên lãnh thổ Nhật Bản;
(3) Cư trú trên lãnh thổ Nhật Bản 10 năm liên tiếp trở lên.
Điều 7.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể quyết định cho người nước ngoài nhập quốc tịch trường hợp người đó là vợ, chồng của công dân Nhật Bản mặc dù người nước ngoài đó không có đầy đủ các điều kiện quy định tại mục (1) và (2) khoản 1 Điều 5, nếu người đó đã có nhà ở tại Nhật Bản hoặc đã có thời gian cư trú tại Nhật Bản từ 3 năm liên tiếp trở lên hoặc hiện tại đang có nhà ở tại Nhật Bản. Luật tương tự sẽ được áp dụng trong trường hợp ở nơi mà người nước ngoài đã từng là vợ, chồng của công dân Nhật Bản kết hôn với một công dân Nhật Bản đã có nhà ở tại Nhậ Bản 1 năm liên ti��p trở lên.
Điều 8.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể cho phép người nước ngoài nhập quốc tịch mặc dù người nước ngoài đó không đáp ứng được đầy đủ các điều kiện quy định tại mục (1), (2) và (4) khoản 1 Điều 5, nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
(1) Trẻ em (kể cả con nuôi) của công dân Nhật Bản và có nhà ở trên lãnh thổ Nhật Bản;
(2) Trẻ em là con nuôi của công dân Nhật Bản và đã có nhà ở trên lãnh thổ Nhật Bản 1 năm liên tiếp trở lên và là người vị thành niên theo luật pháp nước họ tại thời điểm nhận làm con nuôi;
(3) Người đã mất quốc tịch Nhật Bản (kể cả người đã mất quốc tịch Nhật Bản sau khi được nhập quốc tịch Nhật Bản) và có nhà ở tại Nhật Bản;
(4) Sinh ra trên lãnh thổ Nhật Bản và không có quốc tịch tại thời điểm sinh ra và có nhà ở trên lãnh thổ Nhật Bản 3 năm liên tiếp trở lên.
Điều 9. Đối với người nước ngoài có công với đất nước Nhật Bản, mặc dù không có các điều kiện quy định tại khoản 1, Điều 5, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể cho phép nhập quốc tịch cùng với sự phê chuẩn của Nghị Viện.
Điều 10.
1. Khi cho phép người nước ngoài nhập quốc tịch, Bộ trưởng Bộ Tư pháp sẽ thông báo rộng rãi trên công báo.
2. Việc nhập quốc tịch có hiệu lực kể từ ngày đăng công báo.
CHƯƠNG III
MẤT QUỐC TỊCH
Điều 11.
1. Khi nhập quốc tịch nước ngoài, công dân Nhật Bản sẽ mất quốc tịch do chính sự lựa chọn thôi quốc tịch của họ.
2. Công dân Nhật Bản có quốc tịch nước ngoài, sẽ mất quốc tịch Nhật Bản nếu họ lựa chọn quốc tịch nước ngoài phù hợp với quy định của pháp luật nước đó.
Điều 12. Công dân Nhật Bản sinh ra trên lãnh thổ nước khác và có quốc tịch nước ngoài do sinh ra sẽ mất quốc tịch Nhật Bản ngay từ khi sinh ra, trừ phi người đó mong muốn giữ lại quốc tịch Nhật Bản theo quy định của Luật Gia đình (Luật số 224 năm 1947).
Điều 13.
1. Công dân Nhật Bản có quốc tịch nước ngoài có quyền gửi thông báo tới Bộ trưởng Bộ Tư pháp để từ bỏ quốc tịch Nhật Bản.
2. Quyết định mất quốc tịch Nhật Bản sẽ có hiệu lực ngay từ thời điểm đăng công báo.
CHƯƠNG IV
LỰA CHỌN QUỐC TỊCH
Điều 14.
1. Công dân Nhật Bản có quốc tịch nước ngoài sẽ lựa chọn quốc tịch trước khi đủ 20 tuổi nếu có hai quốc tịch và trước khi đủ 20 tuổi hoặc trong vòng 2 năm kể từ khi người đó có quốc tịch thứ hai nếu như họ có quốc tịch nước đó sau khi đủ 20 tuổi.
2. Sự lựa chọn quốc tịch Nhật Bản sẽ được chấp nhận khi người đó có quyết định thôi quốc tịch và lời tuyên thệ theo quy định của Luật Gia đình trong đó người đó phải cam kết lựa chọn quốc tịch Nhật Bản và từ bỏ quốc tịch nước ngoài.
Điều 15.
1. Bộ trưởng Bộ Tư pháp gửi thông báo yêu cầu công dân Nhật Bản có quốc tịch nước ngoài mà đã quên lựa chọn quốc tịch Nhật Bản trong thời gian quy định tại khoản 1, Điều 14 phải lựa chọn một trong những quốc tịch mà họ đang có.
2. Thông báo nêu ở khoản 1, Điều này phải thể hiện thông cáo trên công báo trong trường hợp người nhận thông báo bị mất tích hoặc trong trường hợp khác không thể gửi thông báo đến người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Trong trường hợp này, thông báo sẽ được gửi tới người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan sau ngày có thông báo trên công báo.
3. Người được gửi thông báo theo quy định tại khoản 2, Điều này sẽ mất quốc tịch Nhật Bản trong thời hạn 1 tháng kể từ ngày nhận được thông báo, trừ khi người đó lựa chọn quốc tịch Nhật Bản trong thời gian quy định. Tuy nhiên, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không thể lựa chọn quốc tịch Nhật Bản trong thời gian luật định do nguyên nhân khách quan hoặc do một số nguyên nhân khác không phát sinh từ người đó thì người đó được phép lựa chọn quốc tịch sau 2 tuần kể từ ngày người đó có thể thực hiện việc lựa chọn.
Điều 16.
1. Công dân Nhật Bản khai báo lựa chọn quốc tịch sẽ cố gắng từ bỏ quốc tịch nước ngoài của họ.
2. Trường hợp một công dân Nhật Bản đã khai báo lựa chọn quốc tịch nhưng cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài vẫn công nhận người đó là công dân nước ngoài, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể sẽ tuyên bố người đó mất quốc tịch Nhật Bản nếu như Bộ trưởng phát hiện thấy những quy định trái với sự lựa chọn quốc tịch Nhật Bản của người đó.
3. Khai báo của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan sẽ được công bố rộng rãi.
4. Khai báo lựa chọn quốc tịch quy định tại khoản 2, Điều này được thông báo trên công báo.
5. Người nào làm trái với quy định tại khoản 2 Điều này sẽ mất quốc tịch Nhật Bản trong ngày thông báo trên công báo.
CHƯƠNG V
TRỞ LẠI QUỐC TỊCH
Điều 17.
1. Người dưới 20 tuổi bị mất quốc tịch Nhật Bản theo quy định tại Điều 12 có thể trở lại quốc tịch Nhật Bản bằng cách khai báo với Bộ trưởng Bộ Tư pháp, nếu người đó có nhà ở tại Nhật Bản.
2. Người nào nhận được thông báo theo khoản 2, Điều 15 và đã bị mất quốc tịch Nhật Bản theo khoản 3, Điều 15 có thể nhập quốc tịch trở lại bằng cách khai báo với Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong vòng 1 năm sau khi người đó mất quốc tịch, nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại mục (5), khoản 1, Điều 5. Trường hợp người đó không thể khai báo trong thời gian quy định do nguyên nhân khách quan hoặc một số nguyên nhân khác không xuất phát từ ý chí chủ quan thì thời gian khai báo sẽ được kéo dài 1 tháng sau khi người đó có thể tiến hành việc khai báo.
3. Người nào đã tiến hành khai báo theo quy định tại khoản 1, 2, Điều này sẽ được nhập quốc tịch tại thời điểm khai báo.
Điều 18.
Trường hợp người nào mong muốn nhập quốc tịch, lựa chọn quốc tịch hay từ bỏ quốc tịch dưới 15 tuổi, khai báo quốc tịch theo quy định tại khoản 1, Điều 3 hoặc khoản 1, Điều 17, đơn xin nhập quốc tịch, tuyên bố lựa chọn quốc tịch hay khai báo từ bỏ quốc tịch sẽ được thông qua bởi người đại diện có thẩm quyền vì lợi ích của họ.
CHƯƠNG VI
QUYẾT ĐỊNH CỦA BỘ TRƯỞNG BỘ TƯ PHÁP
Điều 19.
Ngoài những điều khoản tại Luật này, quá trình liên quan đến việc nhập quốc tịch hay từ bỏ quốc tịch được xem là thủ tục cần thiết bắt buộc được ghi nhận trong các quy định của Bộ Tư pháp.
LUẬT QUỐC TỊCH THÁI LAN
Điều 1. Luật này được gọi là “Luật quốc tịch B.E. 2508”.
Điều 2. Luật này có hiệu lực chính thức từ ngày đăng Công báo Chính phủ.
Điều 3. Những Luật sau đây sẽ được bãi bỏ:
(1) Luật quốc tịch B.E. 2495;
(2) Luật quốc tịch (số 2), B.E. 2496;
(3) Luật quốc tịch (số 3), B.E. 2499;
(4) Luật quốc tịch (số 4), B.E. 2503).
Điều 4. Trong Luật này:
“Người nước ngoài” có nghĩa là một người không có quốc tịch Thái Lan;
“Cán bộ có thẩm quyền” nghĩa là người được Thủ tướng chỉ định để thực thi Bộ luật này;
“Bộ trưởng” nghĩa là Bộ trưởng chịu trách nhiệm quản lý và điều hành việc thực thi Bộ luật này.
Điều 5. Việc được công nhận quốc tịch Thái Lan theo Điều 9 hoặc 12, tước quốc tịch Thái Lan quy định tại Chương II, hay việc trở lại quốc tịch Thái Lan quy định tại Chương III, có hiệu lực bắt đầu từ thời điểm đăng công báo và có hiệu lực riêng.
Điều 6. Bộ trưởng Bộ Nội vụ chịu trách nhiệm quản lý và điều hành việc thực hiện Luật này và có quyền chỉ định những cán bộ có thẩm quyền và ban hành những qui định cấp Bộ qui định các mức phí không vượt quá hạn mức theo Phụ lục của Luật này, và miễn phí cho bất kỳ ai đáp ứng đủ yêu cầu trong những trường hợp sau:
(1) Đăng ký nhập quốc tịch Thái Lan;
(2) Chứng nhận quốc tịch Thái Lan;
(3) Đăng ký trở lại quốc tịch Thái Lan.
Những qui định của Bộ trưởng sẽ có hiệu lực từ thời điểm đăng Công báo.
CHƯƠNG I
CÓ QUỐC TỊCH THÁI LAN
Điều 7. Những người sau đây được công nhận có quốc tịch Thái Lan do sinh ra:
(1) Trẻ em được sinh ra có cha hoặc mẹ mang quốc tịch Thái Lan, không kể được sinh ra ở trong hay ngoài lãnh thổ Thái Lan;
(2) Trẻ em được sinh ra trên lãnh thổ Thái Lan trừ những người được qui định tại Điều 7 bis, đoạn 1.
Điều 7. bis. Trẻ em được cha mẹ là người nước ngoài sinh ra tại Thái Lan không được công nhận là công dân Thái Lan nếu tại thời điểm sinh, người cha theo pháp luật hoặc cha đẻ mà chưa kết hôn với người mẹ, hoặc mẹ đẻ là:
(1) Người được cho phép sinh sống tạm thời tại Thái Lan như một trường hợp đặc biệt;
(2) Người được phép tạm trú ở Vương quốc Thái Lan;
(3) Người mới vào sinh sống tại Thái Lan mà không được phép theo Luật nhập cư.
Trong trường hợp Bộ trưởng xét thấy hợp lý, ông có thể xem xét và đồng ý cấp quốc tịch Thái Lan cho bất kỳ ai qui định tại đoạn 1 phù hợp với các qui định đã được Chính phủ đưa ra.
Một người được sinh ra tại Thái Lan và không có quốc tịch Thái Lan theo đoạn một được coi là đã vào sinh sống mà không được sự cho phép theo luật nhập cư trừ khi đã được cho phép theo luật về vấn đề cụ thể này.
Điều 8. Trẻ em do cha mẹ người nước ngoài sinh ra tại Thái Lan không có quốc tịch Thái Lan nếu tại thời điểm sinh, cha hoặc mẹ là:
(1) Trưởng một cơ quan ngoại giao hoặc một thành viên của tổ chức này;
(2) Trưởng một cơ quan lãnh sự quán hoặc thành viên của tổ chức này;
(3) Nhân viên hoặc chuyên gia của một tổ chức quốc tế;
(4) Thành viên của một gia đình, cho dù là thành viên bảo trợ hoặc được bảo trợ, đến từ nước ngoài để sinh sống với người quy định tại mục (1), (2) hoặc (3).
Điều 9. Phụ nữ là người nước ngoài kết hôn với một người có quốc tịch Thái Lan nếu muốn mang quốc tịch Thái Lan có thể đệ trình đơn xin nhập quốc tịch lên cán bộ có thẩm quyền theo mẫu và hướng dẫn được qui định trong “Những qui định của Bộ trưởng”.
Việc đồng ý hoặc từ chối cho phép nhập quốc tịch Thái Lan hoàn toàn phụ thuộc vào sự xem xét của Bộ trưởng.
Điều 10. Người nước ngoài đáp ứng những điều kiện sau đây có thể làm đơn xin nhập quốc tịch Thái Lan:
(1) Trở thành một thành viên tự lập (sui juris) theo qui định pháp luật Thái Lan và luật mà nhờ đó người đó có thể có quốc tịch;
(2) Có tư cách, đạo đức tốt;
(3) Có nghề nghiệp ổn định;
(4) Sinh sống ở tại Thái Lan từ 5 năm liên tục trở lên cho đến ngày nộp đơn xin nhập quốc tịch;
(5) Có khả năng sử dụng tiếng Thái Lan như qui định trong “Những quy định chung”.
Điều 11. Những khoản (4) và (5) trong Điều 10 sẽ được áp dụng nếu người đăng ký nhập quốc tịch Thái Lan;
(1) Đã hoàn thành nghĩa vụ đối với Thái Lan hoặc đã thực hiện các nhiệm vụ vì lợi ích của Nhà nước do Bộ trưởng xét thấy đã hoàn thành;
(2) Là con hoặc vợ của một người có quốc tịch Thái Lan hoặc đã được trở lại quốc tịch Thái Lan; hoặc
(3) Là người đã từng có quốc tịch Thái Lan.
Điều 12. Bất kỳ cá nhân nào mong muốn có quốc tịch Thái Lan có thể nộp đơn xin nhập quốc tịch cho cán bộ có thẩm quyền theo mẫu và hình thức được qui định tại “Những qui định của Bộ trưởng”.
Nếu người đăng ký nhập quốc tịch Thái Lan theo đoạn 1 có con chưa trưởng thành theo pháp luật Thái Lan và có chỗ ở tại Thái Lan thì đồng thời có thể xin nhập quốc tịch cho con. Trong trường hợp này, trẻ em được miễn việc đáp ứng các phẩm chất theo Điều 10 (1), (3), (4) và (5).
Việc chấp thuận hay từ chối nhập quốc tịch Thái Lan phụ thuộc vào sự xem xét của Bộ trưởng. Trong trường hợp đồng ý nhập quốc tịch, Bộ trưởng sẽ đệ trình vấn đề này để Quốc vương phê chuẩn. Sau khi được phê chuẩn, người đăng ký nhập quốc tịch phải khẳng định lòng trung thành với Vương quốc Thái Lan.
Một người đã được nhập quốc tịch Thái Lan có quyền xin giấy chứng nhận mang quốc tịch Thái Lan.
CHƯƠNG II
TƯỚC QUỐC TỊCH THÁI LAN
Điều 13. Phụ nữ mang quốc tịch Thái Lan kết hôn với người nước ngoài và có nguyện vọng mang quốc tịch của chồng có thể nộp đơn xin thôi mang quốc tịch Thái Lan (nếu muốn) cho cán bộ có thẩm quyền theo mẫu và hình thức đã qui định trong “Những qui định của Bộ trưởng”.
Điều 14. Người có quốc tịch Thái Lan có cha là người nước ngoài và đã có quốc tịch của cha theo luật pháp về quốc tịch của cha, hoặc người có quốc tịch Thái Lan theo Điều 12, đoạn 2, nếu muốn có thể giữ lại quốc tịch kia của họ bằng cách làm đơn xin thôi quốc tịch Thái Lan trong vòng 1 năm sau khi bước sang tuổi 20 theo mẫu và hình thức qui định trong “Những qui định của Bộ trưởng”.
Nếu sau khi xem xét đơn như đã nói trên, Bộ trưởng xét thấy có lý do chính đáng để người đó nhập quốc tịch của cha hoặc một quốc tịch nước ngoài, Bộ trưởng sẽ phê duyệt việc xin thôi quốc tịch. Trong trường hợp ở những nước mà Thái Lan đang có tranh chấp quân sự hay chiến tranh, Bộ trưởng có thể đề nghị trì hoãn việc thôi quốc tịch Thái Lan.
Điều 15. Trừ trường hợp như trong Điều 14, mọi cá nhân có quốc tịch Thái Lan và các quốc tịch khác, hoặc người được nhập quốc tịch Thái Lan, nếu muốn, có thể xin thôi quốc tịch Thái Lan bằng cách nộp đơn lên cán bộ có thẩm quyền theo mẫu và hình thức qui định trong “Những qui định của Bộ trưởng”.
Việc phê duyệt hay phản đối việc xin thôi quốc tịch Thái Lan phụ thuộc hoàn toàn vào sự suy xét của Bộ trưởng.
Điều 16. Đối với phụ nữ nước ngoài lấy chồng mang quốc tịch Thái Lan đã được nhập quốc tịch khi kết hôn sẽ bị tước quốc tịch Thái Lan nếu:
(1) Hôn nhân bị ảnh hưởng bởi việc che giấu sự thật hoặc gây ra bất kỳ một phát biểu nào sai trái với trong các vấn đề cụ thể;
(2) Gây ra bất kỳ một hành động nào không có lợi đến an ninh, hoặc mâu thuẫn với lợi ích của Nhà nước, hoặc xúc phạm danh dự đất nước Thái Lan;
(3) Gây ra bất kỳ một hành động nào trái với qui tắc cư xử công cộng và đạo đức.
Điều 17. Đối với người có quốc tịch Thái Lan do được sinh ra tại Thái Lan có cha là người nước ngoài sẽ bị tước quốc tịch Thái Lan nếu:
(1) Người đó đã sinh sống tại nước ngoài nơi cha có hoặc đã từng có quốc tịch trong vòng 5 năm liên tục tính từ ngày người đó trưởng thành;
(2) Có bằng chứng chứng tỏ rằng người đó sử dụng quốc tịch cha hoặc quốc tịch nước ngoài, hoặc có mong muốn tích cực được sử dụng quốc tịch của cha hoặc quốc tịch nước ngoài;
(3) Gây ra bất kỳ một hành động nào không có lợi đến an ninh, hoặc mâu thuẫn với lợi ích của Nhà nước, hoặc xúc phạm danh dự đất nước Thái Lan;
(4) Gây ra bất kỳ một hành động nào trái với qui tắc cư xử công cộng và đạo đức.
Dựa trên yêu cầu của Uỷ viên công tố, Bộ trưởng sẽ yêu cầu tước quốc tịch Thái Lan đối với người thuộc quy định tại khoản (1) và (2) Điều này và Toà án sẽ yêu cầu tước quốc tịch Thái Lan đối với người thuộc quy định tại khoản (3) và (4) Điều này.
Điều 18. Trong trường hợp cần thiết phải giữ gìn an ninh và lợi ích của quốc gia, Bộ trưởng được quyền tước quốc tịch Thái Lan của người có quốc tịch Thái Lan theo Điều 7 Bis. đoạn 2.
Điều 19. Bộ trưởng có quyền tước quốc tịch Thái Lan của những người xin nhập quốc tịch Thái Lan nếu:
(1) Việc nhập quốc tịch là do động cơ có che giấu hoặc khai báo sai trong một phần cụ thể nào đó;
(2) Có bằng chứng về việc người đó vẫn sử dụng quốc tịch trước kia của mình;
(3) Người đó gây ra bất kỳ hành động nào gây tổn hại đến an ninh hoặc mâu thuẫn với lợi ích của Nhà nước hoặc xúc phạm danh dự đất nước Thái Lan;
(4) Người đó gây ra các hành động trái với qui tắc cư xử công cộng và đạo đức;
(5) Người đó đã sinh sống ở nước ngoài mà không có chỗ ở tại Thái Lan trong vòng 5 năm trở lên;
(6) Người đó vẫn giữ quốc tịch của đất nước đang có chiến tranh với Thái Lan.
Việc tước quốc tịch Thái Lan theo đoạn này có thể mở rộng ra đối với trẻ em là con của người bị tước quốc tịch Thái Lan trong trường hợp những trẻ em này chưa đến tuổi thành niên và có quốc tịch Thái Lan theo Điều 12, đoạn 2. Bộ trưởng sau khi yêu cầu tước quốc tịch Thái Lan phải đệ trình vấn đề này lên Quốc vương.
Điều 20. Một Uỷ ban sẽ được thiết lập bao gồm Thứ trưởng Bộ Nội vụ làm Chủ tịch, một đại diện Bộ Ngoại giao, đại diện của cơ quan Hành chính, đại diện của cơ quan cảnh sát và một đại diện của cơ quan Dân sự làm thành viên có trách nhiệm xem xét việc tước quốc tịch Thái Lan theo Điều 16, 17(1) và 18, 19.
Đối với các trường hợp liên quan đến bất kỳ ai có thể bị tước quốc tịch Thái Lan, cán bộ có thẩm quyền đệ trình đơn xem xét lên Hội đồng. Sau khi xem xét, Hội đồng đề xuất ý kiến về cách giải quyết cho Bộ trưởng.
Điều 21. Người mang quốc tịch Thái Lan có cha là người nước ngoài và có quốc tịch nước ngoài theo cha sẽ mất quốc tịch Thái Lan nếu người đó có thẻ chứng minh của người nước ngoài theo Luật đăng ký đối với người nước ngoài.
Điều 22. Công dân Thái Lan đã nhập quốc tịch nước ngoài, hoặc người đã thôi quốc tịch Thái Lan, hoặc đã bị tước quốc tịch Thái Lan sẽ mất quốc tịch Thái Lan.
CHƯƠNG III
TRỞ LẠI QUỐC TỊCH THÁI LAN
Điều 23. Phụ nữ có quốc tịch Thái Lan nhưng đã thôi quốc tịch Thái Lan khi kết hôn với một người nước ngoài như qui định tại Điều 13 có thể nộp đơn xin trở lại quốc tịch Thái Lan nếu cuộc hôn nhân đổ vỡ vì bất cứ lý do gì.
Khi nộp đơn xin nhập lại quốc tịch Thái Lan, cần viết đơn trình bày nguyện vọng cho cán bộ có thẩm quyền theo mẫu và hình thức qui định tại “Những qui định của Bộ trưởng”.
Điều 24. Trẻ em vị thành niên có quốc tịch Thái Lan sinh sống cùng với cha mẹ nếu muốn trở lại quốc tịch Thái Lan thì nộp đơn lên cán bộ có thẩm quyền theo mẫu và hình thức qui định trong “Những qui định của Bộ trưởng” trong vòng 2 năm kể từ ngày người đó trưởng thành theo pháp luật Thái Lan và pháp luật mà nhờ đó người đó có quốc tịch.
Việc chấp thuận hay từ chối xin trở lại quốc tịch Thái Lan hoàn toàn phụ thuộc vào sự xem xét của Bộ trưởng.
Mức phí.
(1) Đơn xin nhập quốc tịch Thái Lan mỗi lần 5,000 baht
(2) Đơn xin nhập quốc tịch Thái Lan mỗi lần 2,500 baht
dành cho con của người nộp đơn khi chưa thành niên
(3) Chứng nhận quốc tịch Thái Lan mỗi bản 500 baht
(4) Thay giấy chứng nhận quốc tịch Thái Lan mỗi bản 500 baht
(5) Đơn xin trở lại quốc tịch Thái Lan mỗi lần 1,000 baht
(6) Các loại đơn khác mỗi bản 5 baht
LUẬT QUỐC TỊCH NƯỚC CỘNG HOÀ HÀN QUỐC
(Luật số 5431, ngày 13-12-1997)
Điều 1. Mục đích
Luật này quy định các thủ tục để trở thành công dân nước Cộng hoà Hàn Quốc.
Điều 2. Có quốc tịch do sinh ra.
(1) Người nào đáp ứng một trong các điều kiện sau đây sẽ được công nhận là công dân nước Cộng hoà Hàn Quốc tại thời điểm sinh ra:
1. Cha hoặc mẹ người đó là công dân nước Cộng hoà Hàn Quốc tại thời điểm người đó sinh ra;
2. Người có cha đã từng là công dân nước Cộng hoà Hàn Quốc tại thời điểm chết, nếu như chết trước khi người đó sinh ra;
3. Người được sinh ra trên lãnh thổ nước Cộng hoà Hàn Quốc, không xác định được cha mẹ là ai hoặc cha mẹ là người không quốc tịch.
(2) Trẻ em bị bỏ rơi được tìm thấy trên lãnh thổ nước Cộng hoà Hàn Quốc được xem như là sinh ra trên lãnh thổ nước Cộng hoà Hàn Quốc.
Điều 3. Có quốc tịch do được thừa nhận.
(1) Người không có quốc tịch nước Cộng hoà Hàn Quốc được công nhận bởi cha hoặc mẹ là công dân nước Cộng hoà Hàn Quốc và theo quy định sau đây, người đó có thể được nhập quốc sau khi gửi thông báo cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
1. Người đang ở tuổi thành niên chiểu theo quy định của Bộ luật dân sự của Cộng hòa Hàn Quốc và;
2. Ở vào thời điểm người đó sinh ra, bố hoặc mẹ có quốc tịch Hàn Quốc
(2) Người làm đơn theo như quy định tại khoản (1) sẽ có quốc tịch Hàn Quốc ở vào thời điểm nộp đơn.
(3) Thủ tục nộp đơn theo quy định tại khoản (1) và các vấn đề cần thiết khác được quy định bởi quyết định của Tổng thống.
Điều 4. Có quốc tịch do được nhập tịch.
(1) Người nước ngoài chưa từng có quốc tịch của Cộng hòa Hàn Quốc có thể được nhập quốc tịch Hàn Quốc bởi sự cho phép của Bộ trưởng Bộ tư pháp.
(2) Bộ trưởng Bộ tư pháp sau khi quy định các thủ tục nhập quốc tịch đối với những trường hợp quy định tại Điều 5 đến Điều 7, sẽ cho phép người đáp ứng đủ các điều kiện luật định được nhập tịch.
(3) Người được phép nhập tịch theo quy định tại đoạn 1 sẽ có quốc tịch Hàn Quốc ở vào thời điểm được Bộ trưởng Bộ Tư pháp đồng ý.
(4) Các thủ tục cần thiết đối với đơn xin nhập tịch và quyết định theo đoạn 1 và 2 sẽ được quy định bởi quyết định của Tổng thống.
Điều 5. Các thủ tục chung quy định việc nhập quốc tịch
Người nước ngoài phải đáp ứng các điều kiện dưới đây để được nhập quốc tịch Hàn Quốc trừ những trường hợp đã được quy định tại Điều 6 và Điều 7:
1. Người được xác nhận đã từng cư trú ở nước Cộng hòa Hàn Quốc liên tiếp từ 5 năm trở lên.
2. Người đã thành niên chiểu theo quy định của Bộ luật dân sự của Cộng hòa Hàn Quốc.
3. Người có tư cách đạo đức tốt.
4. Người được xác nhận có thể tự đảm bảo cuộc sống của mình bằng khả năng tài sản của chính người đó hoặc gia đình.
5. Người có kiến thức cơ bản như một công dân của Cộng hòa Hàn Quốc , như khả năng nói tiếng Hàn Quốc và hiểu biết về phong tục tập quán của Hàn Quốc.
Điều 6. Các điều kiện để nhập quốc tịch thuần tuý.
(1). Người nước ngoài phải tuân thủ một trong những điều kiện sau đây và có chỗ ở ổn định tại Cộng hoà Hàn Quốc trong vòng 3 năm liên tiếp có thể được nhập quốc tịch mặc dù họ không đáp ứng được điều kiện quy định tại đoạn 1, Điều 5:
1. Người có cha hoặc mẹ là công dân nước Cộng hoà Hàn Quốc;
2. Người được sinh ra trên lãnh thổ nước Cộng hoà Hàn Quốc và cha hoặc mẹ của người đó sinh ra trên lãnh thổ nước Cộng hoà Hàn Quốc
3. Người được công dân Hàn Quốc nhận làm con nuôi và đã trưởng thành tại thời điểm được nhận nuôi chiểu theo Luật Dân sự của nước Cộng hoà Hàn Quốc.
(2). Người nước ngoài có vợ hoặc chồng là công dân Hàn Quốc có đủ các điều kiện sau đây sẽ được nhập quốc tịch kể cả khi họ không đáp ứng được điều kiện quy định tại đoạn 1 Điều 5:
1. Người có chỗ ở ổn định tại Hàn Quốc trong vòng không dưới 2 năm liên tục từ khi đăng ký kết hôn.
2. Người đã ly hôn trong vòng 3 năm và có chỗ ở ổn định tại nước Cộng hoà Hàn Quốc trong vòng không dưới 1 năm liên tục từ khi đăng ký kết hôn.
Điều 7. Các điều kiện nhập quốc tịch đặc biệt.
(1) Người nước ngoài nào thuộc một trong các trường hợp sau đây và hiện tại đang có chỗ ở tại Cộng hoà Hàn Quốc có thể được phép nhập quốc tịch mà không có các điều kiện tại khoản 1, 2, 4 của Điều 5:
1. Người nước ngoài có bố hoặc mẹ có quốc tịch Hàn Quốc: ngoại trừ chứng minh rằng người đó được nhận nuôi sau khi trưởng thành theo quy định của Luật Dân sự nước Cộng hoà Hàn Quốc;
2. Người nước ngoài có thành tích nổi bật đối với Nhà nước Hàn Quốc.
(2) Bộ trưởng Bộ Tư pháp cho phép người nước ngoài nhập quốc tịch khi họ đáp ứng điều kiện tại mục 2, khoản 1 Điều này, sẽ được Tổng thống Hàn Quốc phê chuẩn.
Điều 8. Quyền lợi kèm theo.
(1) Người nước ngoài được nhập quốc tịch thì con của họ đang ở tuổi vị thành niên theo quy định của Luật Dân sự nước Cộng hoà Hàn Quốc cũng đồng thời được nhập quốc tịch.
(2) Người nước ngoài được nhập quốc tịch theo khoản 1 sẽ có được quốc tịch Hàn Quốc ngay tại thời điểm Bộ trưởng Bộ Tư pháp thông báo đồng ý cho cha mẹ của người đó nhập quốc tịch.
(3) Các thủ tục xin nhập quốc tịch theo quy định tại khoản (1) và những yếu tố cần thiết khác sẽ được khẳng định thông qua quyết định của Tổng thống Hàn Quốc.
Điều 9. Có quốc tịch thông qua việc trở lại quốc tịch.
(1) Người nước ngoài đã từng có quốc tịch Cộng hoà Hàn Quốc có thể có quốc tịch Hàn Quốc thông qua sự đồng ý cho trở lại quốc tịch của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
(2) Bộ trưởng Bộ Tư pháp thông báo không đồng ý cho phép trở lại quốc tịch đối với người thuộc một trong các trường hợp sau đây, sau khi xem xét kỹ đơn xin trở lại quốc tịch:
1. Người có hành động gây tổn hại cho Nhà nước và xã hội;
2. Người có đạo đức, hạnh kiểm xấu;
3. Người đã mất hoặc thôi quốc tịch nước Cộng hoà Hàn Quốc vì mục đích trốn nghĩa vụ quân sự; và
4. Người được Bộ trưởng Bộ Tư pháp cho tra%
(MINH KHUE LAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)