1. Tổng quan quy định của pháp luật của pháp luật Việt Nam về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển 

Việt Nam hiện là thành viên của Tổ chức hàng hải quốc tế, đồng thời đã tham gia vào khá nhiều các điều ước quốc tế trong lĩnh vực hàng hải. Tuy nhiên, trong lĩnh vực vận tải hàng hoá bằng đường biển, Việt Nam chưa tham gia vào Quy tắc Hague, Quy tắc Hague-Visby hay Quy tắc Hamburg. Dù có tham gia vào quá trình đàm phán, soạn thảo Quy tắc Rotterdam, Việt Nam cũng chưa ký tham gia Quy tắc này. So với các lĩnh vực khác, lĩnh vực pháp luật hàng hải của Việt Nam được pháp điển hoá tương đối sớm. Bộ luật Hàng hải Việt Nam lần đầu tiên được ban hành năm 1990. Vấn đề vận chuyển hàng hoá bằng đường biển được đề cập đến trong bộ luật này tương đối sơ sài. Sau các lần sửa đổi, ban hành bổ sung thì vấn đề này được đề cập một cách cụ thể và cập nhật rõ ràng hơn.

Các quy định quốc tế về bảo hiểm xuất nhập khẩu hàng hóa mà Việt Nam áp dụng đó là pháp luật trong nước và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Theo đó các nguyên tắc về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bao gồm:

  • Nguyên tắc lợi ích bảo hiểm (insurable interest): 

+ Người có liên quan hợp pháp đối với hành trình vận chuyển tài sản/ hàng hóa.

+ Người ấy có thể được hưởng lợi nếu tài sản đó.

+ Được an toàn hay về tới nơi đến đúng hạn.

+ Hoặc bị thiệt hại nếu tài sản đó bị tổn thất hay tổn hại, bị cầm giữ hoặc có thể chịu trách nhiệm về những tổn thất đó

+ Người được bảo hiểm phải có lợi ích bảo hiểm.

+ Lợi ích bảo hiểm không cần có khi ký kết hợp đồng nhưng phải có khi xảy ra tổn thất.

  • Nguyên tắc trung thực tuyệt đối (utmost good faith): Theo nguyên tắc này người được bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp tất cả những thông tin mà họ biết liên quan đến rủi ro được bảo hiểm. Người bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm cung cấp thông tin liên quan đến Hợp đồng bảo hiểm, không xúi dục khách hàng hoặc nhận một rủi ro mà họ biết là không còn nữa khi người yêu cầu bảo hiểm còn chưa biết.
  • Nguyên tắc bồi thường (indemnity): Là một cơ chế mà công ty bảo hiểm sử dụng để cung cấp khoản bồi thường tài chính, với mục đích khôi phục tình trạng tài chính ban đầu cho người được bảo hiểm sau khi tổn thất xảy ra”. Đây là nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm nói chung, hàng hải nói riêng.
  • Nguyên tắc thế quyền (subrogation)​: Người bảo hiểm, sau khi bồi thường cho người được bảo hiểm, có quyền thay mặt người được bảo hiểm để đòi người thứ ba có trách nhiệm bồi thường cho mình.
  • Nguyên tắc cam kết (warranty: Là nguyên tắc bảo hiểm hàng hải nói chung, bảo hiểm hàng hoá nói riêng 

+ Cam kết ngụ ý (implied warranty): hành trình hợp pháp, tàu đủ khả năng đi biển 

+ Cam kết thành văn (Expressed warranty): tàu có P&I, tàu tuân thủ ISM Code….

+ Hậu quả pháp lý: người bảo hiểm có quyền từ chối một phần 

  • Nguyên tắc bảo hiểm trước (Advanced insurance): Ở nguyên tắc này người được bảo hiểm có thể mua bảo hiểm trước cho hàng hoá (khi chưa có đủ thông tin chi tiết về lô hàng) ngay sau khi ký kết hợp đồng ngoại thương hay mở chứng từ tín dụng L/C. Người bảo hiểm sẽ phát hành đơn bảo hiểm và xác nhận các thông tin còn thiếu sẽ được thông báo sau.

​2. Những quy định của Bộ luật dân sự 2015 về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển 

2.1 Khái niệm hợp đồng vận chuyển

Khái niệm hợp đồng vận chuyển được lần đầu tiên được đưa ra tại Điều 538 Bộ luật Dân sự 1995 (BLDS),  gần đây nhất được quy định tại Điều 530 BLDS 2015. Quy định về khái niệm hợp đồng vận chuyển trong các Bộ luật Dân sự những năm sau được kế thừa toàn bộ từ năm trước, không có điểm gì khác biệt về nội dung, chỉ khác biệt về các tiểu tiết, các câu chữ, cụ thể đều quy định: “Hợp đồng vận chuyển tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên vận chuyển có nghĩa vụ chuyển tài sản đến địa điểm đã định theo thỏa thuận và giao tài sản đó cho người có quyền nhận, bên thuê vận chuyển có nghĩa vụ trả cước phí vận chuyển”. Theo quy định trên có thể nhận diện các yếu tố sau:

  • Chủ thể của hợp đồng vận chuyển tài sản bao gồm bên vận chuyển và bên thuê vận chuyển. Bên vận chuyển là thường là người có phương tiện vận chuyển như xe tải, tàu thuyền, xe container…
  • Khách thể trong quan hệ hợp đồng vận chuyển tài sản, các chủ thể hướng tới mục đích là “chuyển tài sản đến địa điểm đã định”, hay nói cách khác là công việc di chuyển một tài sản từ vị trí này đến một vị trí nhất định nào đó. Vì là công việc nên việc tiêu chuẩn, chất lượng dịch vụ thường không có thước đo cụ thể, trong hợp đồng vận chuyển tài sản, công việc sẽ được dựa trên số tài sản, quãng đường, loại phương tiện để tính giá trị công việc. 
  • Nội dung BLDS 2015 đã ấn định việc vận chuyển tài sản là phải được trả phí. Trong thực tiễn, có nhiều trường hợp vận chuyển tài sản không lấy thù lao như: Làm từ thiện, vận chuyển trong các trường hợp tình thế cấp thiết. Các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên đã được quy định cụ thể trong các điều luật khác.

2.2.  Hình thức của hợp đồng vận chuyển 

Theo quy định tại BLDS 2005, hợp đồng vận chuyển tài sản có hình thức bằng lời nói hoặc bằng văn bản. Tuy nhiên, để phù hợp với sự phát triển của xã hội và tinh thần coi trọng nội dung của giao dịch dân sự hơn sự hình thức thể hiện ra bên ngoài của giao dịch, BLDS 2015 đã ghi nhận hợp đồng vận chuyển tài sản có thể được giao kết bằng văn bản, bằng lời nói hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể (Điều 536 BLDS 2005). Hợp đồng vận chuyển tài sản bằng hành vi là quy định mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005,  là hình thức giản tiện nhất trong giao kết hợp đồng. Các bên có thể xác lập quan hệ hợp đồng mà không cần có sự gặp gỡ, thương lượng tại địa điểm giao kết. Hình thức giao kết hợp đồng bằng hành vi sẽ ngày càng trở lên phổ biến và được các chủ thể sử dụng rộng rãi.

2.3. Nội dung của hợp đồng vận chuyển

2.3.1. Quyền và nghĩa vụ của bên vận chuyển.

  • Quyền của bên vận chuyển.

Quy định về quyền của bên vận chuyển tại BLDS 2015 là sự kế thừa toàn bộ quy định của BLDS 2005. Theo đó, quyền của bên vận chuyển được xác định:

Một là, bên vận chuyển có quyền “Kiểm tra sự xác thực tài sản, của vận đơn hoặc chứng từ vận chuyển tương đương khác” (Khoản 1 Điều 535 BLDS 2015). Quyền này được ghi nhận dựa trên cơ sở công việc vận chuyển được bên vận chuyển kiểm tra cần rõ: tài sản vận chuyển là loại gì, số lượng, chất lượng, chủng loại, quy cách đóng gói… Kiểm tra, xác minh rõ tài sản để biết chắc chắn công việc vận chuyển loại tài sản này có phải là tài sản bị cấm vận chuyển không.

Hai là, trong trường hợp kiểm tra tính xác thực về loại tài sản không đúng với loại tài sản đã thỏa thuận trong hợp đồng, bên vận chuyển có quyền từ chối vận chuyển tài sản (Khoản 2 Điều 535 BLDS 2015). Tại thời điểm đàm phán trước khi ký kết hợp đồng vận chuyển, bên vận chuyển đã thể hiện ý chí và loại bỏ những rủi ro, trở ngại, khó khăn nhất định trong quá trình thực hiện nghĩa vụ của mình; nhưng tại thời điểm giao tài sản, bên thuê vận chuyển lại giao tài sản khác. Đây là hành vi vi phạm nghĩa vụ, nên bên vận chuyển hoàn toàn có quyền từ chối. 

 Ba là, bên vận chuyển có quyền “yêu cầu bên thuê vận chuyển thanh toán đủ cước phí vận chuyển đúng thời hạn” (Khoản 1 Điều 535 BLDS 2015). Như đã phân tích ở mục 1, tác giả cho rằng, đây là quy định về hợp đồng vận chuyển nói chung, nên Khoản này nên quy định lại thành “Yêu cầu bên thuê vận chuyển thanh toán đủ cước phí vận chuyển đúng thời hạn nếu có thỏa thuận về cước phí”.

 Bốn là, bên vận chuyển có quyền “từ chối vận chuyển tài sản, cấm giao dịch, tài sản có tính chất nguy hiểm, độc hại, nếu bên vận chuyển biết hoặc phải biết” (Khoản 4 Điều 535 BLDS 2015). Đối với tài sản cấm giao dịch, bên vận chuyển đương nhiên phải từ chối và phải từ chối ngay từ lúc đàm phán hợp đồng, cũng như khi nhận bàn giao tài sản. Còn đối với tài sản có tính chất nguy hiểm và độc hại vẫn là tài sản được phép chuyên chở trong những trường hợp nhất định. Vì vậy, nếu trong trường hợp bên vận chuyển có chức năng vận chuyển các chất nguy hiểm, độc hại, bên thuê vận chuyển có quyền tài sản hợp pháp với tài sản và các bên có thỏa thuận, bên vận chuyển không có quyền từ chối.

  • Nghĩa vụ của bên vận chuyển

Bộ luật Dân sự đưa ra quy định về nghĩa vụ của một bên trước, sau đó mới đề cập đến quyền. Thông thường, các bên phải thực hiện nghĩa vụ trước,  quyền sẽ đến sau. Theo đó, bên vận chuyển có các nghĩa vụ sau:

 Một là, Khoản 1 Điều 534 BLDS 2015: “bảo đảm vận chuyển tài sản đầy đủ, an toàn đến địa điểm đã định, theo đúng thời hạn”. Đây là nghĩa vụ đầu tiên, quan trọng nhất trong việc vận chuyển tài sản. Tuy nhiên, thời gian còn được hiểu về thời hạn và thời điểm, thời hạn chỉ khoảng thời gian, trong khi đó nhiều trường hợp giao đúng cả về thời điểm. Vì vậy, khoản này nên quy định thành “Bảo đảm vận chuyển tài sản đầy đủ, an toàn đến đúng thời gian và địa điểm đã thỏa thuận”.

 Hai là, Khoản 2 Điều 534 BLDS 2015: “giao tài sản cho người có quyền nhận” . Vì bên có quyền nhận tài sản không nhất thiết phải là bên thuê vận chuyển, mà còn có thể là bên thứ ba do bên thuê ủy quyền hoặc người thụ hưởng dịch vụ khác.

 Ba là, Khoản 3 Điều 534 BLDS 2015: “chịu các chi phí liên quan đến việc chuyên chở tài sản, trừ trường hợp thỏa thuận khác”. Các khoản chi phí liên quan đến việc chuyên chở tài sản có thể kể đến như: Xăng, dầu, khấu hao phương tiện, phí đường bộ, phí bồi dưỡng sức khỏe cho người chuyên chở hoặc phụ giúp. Về nguyên tắc, nếu không có thỏa thuận khác thì bên vận chuyển phải chịu các khoản phí này, vì thông thường cước phí vận chuyển người vận chuyển đã tính toán các chi phí này. 

Bốn là, Khoản 4 Điều 534 BLDS 2015: “Mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật”. Quy định nghĩa vụ của bên vận chuyển như trên có thể hiểu: Nếu bên vận chuyển được xác định là chủ thể có chức năng kinh doanh dịch vụ vận chuyển tài sản, bắt buộc phải có trách nhiệm bảo hiểm dân sự mới được cơ quan nhà nước cấp phép hoạt động. Nhưng nếu bên vận chuyển sử dụng các phương tiện luật không bắt buộc phải mua bảo hiểm như: các phương tiện là xe thô sơ như xe thồ, phương tiện sử dụng sức kéo động vật khác,  có thể không bao giờ họ mua bảo hiểm.

Năm là, Khoản 5 Điều 534 BLDS 2015: “bồi thường thiệt hại cho bên thuê vận chuyển trong trường hợp bên vận chuyển để mất, hư hỏng tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Quy định như trên là phù hợp với thực tế, bởi nhiều khi, trong quá trình vận chuyển, bên vận chuyển làm mất tài sản hoặc làm vỡ, hư hại hoặc hỏng tài sản.

2.3.2. Quyền và nghĩa vụ của bên thuê vận chuyển

  • Quyền của bên thuê vận chuyển

Quy định về quyền của bên thuê vận chuyển tại Điều 537 BLDS 2015 đã được sửa đổi so với quy định tại Điều 542 BLDS năm 2005. Theo đó, bên vận chuyển có 2 quyền chính, đó là:

1.Yêu cầu bên vận chuyển chuyên chở tài sản đến đúng địa điểm, thời điểm đã thỏa thuận;

2. Trực tiếp hoặc chỉ định người thứ ba nhận lại tài sản đã thuê vận chuyển”.

Hợp đồng vận chuyển tài sản là hợp đồng song vụ, vì vậy, khi xét về mức độ tương xứng giữa quyền và nghĩa vụ giữa bên vận chuyển và bên nhận vận chuyển tài sản, nếu quy định cho bên vận chuyển có nghĩa vụ vận chuyển đúng thời gian, địa điểm và loại tài sản cũng nên quy định về quyền nhận tài sản đúng thời gian, địa điểm và loại tài sản (bao gồm số lượng, chất lượng, quy cách đóng gói, bảo quản…) của bên thuê vận chuyển.

Việc bên thuê vận chuyển có quyền chỉ định người thứ ba nhận tài sản đã thuê vận chuyển là một quy định không phụ thuộc vào việc thực hiện nghĩa vụ của bên vận chuyển, và là căn cứ để xác định bên vận chuyển có thực hiện đúng nghĩa vụ hay không, nhưng lại là một quy định phù hợp với các quy định trước đó và phù hợp với thực tế. Bởi lẽ, việc vận chuyển tài sản có thể vì lợi ích của bên thứ ba, nên phải quy định quyền chuyển giao việc nhận tài sản của bên thuê vận chuyển cho người khác.

  • Nghĩa cụ của bên thuê vận chuyển

Theo quy định tại khoản 1 Điều 536 BLDS 2015 bên thuê vận chuyển có quyền “trả đủ tiền cước phí vận chuyển theo đúng thời hạn bên thuê vận chuyển theo đúng thời hạn, phương thức đã thỏa thuận”. Vẫn theo tinh thần của Điều 530, vận chuyển tài sản là phải trả phí, nên nghĩa vụ trả phí vận chuyển của bên thuê là tất yếu. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào các bên cùng thỏa thuận trả thù lao bằng “tiền”. Các chủ thể có thỏa thuận thay thế bằng các tài sản khác, hoặc là đổi công cho nhau. Vì vậy, nên quy định “Trả đủ thù lao vận chuyển cho bên vận chuyển theo đúng thỏa thuận nếu có”.

Bên thuê vận chuyển có quyền “cung cấp thông tin cần thiết liên quan đến tài sản vận chuyển để bảo đảm an toàn cho tài sản vận chuyển”. Đây là một nghĩa vụ mới được bổ sung cho bên vận chuyển trong BLDS 2015. Việc bổ sung nghĩa vụ này là điều cần thiết và hợp lý, vì với mỗi tài sản khác nhau, phương thức vận chuyển và cách thức bảo quản tài sản khác nhau.

Cuối cùng, BLDS 2015 quy định bên thuê vận chuyển có quyền “trông coi tài sản trên đường vận chuyển, nếu có thỏa thuận. Trường hợp bên thuê vận chuyển trông coi tài sản để bị mất, hư hỏng thì không được bồi thường”. Về nguyên tắc, bên vận chuyển phải trông coi tài sản trong thời gian vận chuyển. Nhưng nếu các bên thỏa thuận, bên thuê vận chuyển sẽ trông coi tài sản, thì đây sẽ là nghĩa vụ của bên vận chuyển. Nếu để xảy ra tài sản bị mất, hư hỏng sẽ không được bồi thường.

Ngoài ra, bên thuê vận chuyển còn có một nghĩa vụ khác không quy định tại Điều 536 về nghĩa vụ của bên vận chuyển, những quy định tại Điều 532 BLDS 2015 như sau: “Bên thuê vận chuyển có nghĩa vụ giao tài sản cho bên vận chuyển đúng thời hạn, địa điểm và đóng gói theo đúng quy cách đã thỏa thuận; phải chịu chi phí xếp, dỡ tài sản lên phương tiện vận chuyển, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.

Việc thực hiện nghĩa vụ đúng thời gian, địa điểm rất quan trọng đối với vận chuyển tài sản và bất cứ hợp đồng dân sự nào. Quy cách đóng gói là một yêu cầu rất riêng biệt, liên quan đến đối tượng của hợp đồng này là vận chuyển tài sản, trong khi mỗi tài sản lại mang một đặc trưng khác nhau, như: tài sản dễ vỡ, hay tài sản cần tránh mưa, tránh nắng; tài sản là chất lỏng, chất rắn hay chất khí… đều có cách đóng gói và bảo quản khác nhau. Vì vậy, cần quy định về giao đúng quy cách đóng gói, để trong quá trình vận chuyển, tài sản không bị hư hỏng, mất mát.

Mặc dù quy định trên chi tiết, nhưng vẫn chưa đầy đủ, trong một số trường hợp như: Tài sản vận chuyển là đặc trưng hoặc chỉ cần các bên có thỏa thuận khác chi tiết hơn ngoài những gì điều luật đã liệt kê, chúng ta vẫn thấy vướng mắc ngay lập tức. Một số trường hợp vì bên thuê vận chuyển không giao tài sản đúng số lượng, nên việc vận chuyển không thể tiến hành, hoặc phải tiến hành trong tình trạng thiếu hàng hóa. Việc vận chuyển sao cho chuyển đủ số lượng sẽ phải chia làm nhiều lần, dẫn đến chi phí tăng cao. Vì không quy định rõ ràng, nên việc xác định bên nào phải chịu chi phí và bên nào phải bồi thường thiệt hại nếu có là khó khăn.

Mặc dù, bộ luật cũng đề cập về nghĩa vụ và quyền của các bên trong hợp đồng vận chuyển, nhưng chưa đưa ra được những nguyên tắc chung để thống nhất về việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng vận chuyển, ví dụ: trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên vận chuyển nếu để tài sản bị mất mát, hư hỏng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên thuê vận chuyển nếu tài sản vận chuyển có tính chất nguy hiểm, độc hại mà không có biện pháp đóng gói, đảm bảo an toàn trong quá trình vận chuyển.

Ngoài các quy định trên, bộ luật cũng đề cập về nghĩa vụ và quyền của các bên trong hợp đồng vận chuyển, nhưng chưa đưa ra được những nguyên tắc chung để thống nhất về việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng vận chuyển, ví dụ: trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên vận chuyển nếu để tài sản bị mất mát, hư hỏng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên thuê vận chuyển nếu tài sản vận chuyển có tính chất nguy hiểm, độc hại mà không có biện pháp đóng gói, đảm bảo an toàn trong quá trình vận chuyển.

Bộ luật cũng quy định trong một số trường hợp “bất khả kháng”, bên vận chuyển có thể được miễn trách nhiệm khi thiệt hại phát sinh. Điều này phù hợp với các quy định trong Công ước quốc tế và Bộ luật Hàng hải Việt Nam về những trường hợp “miễn trách của người chuyên chở”.

Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có quy định cụ thể về hợp đồng có tính chất quốc tế, vì vậy có thể lý giải tính chất quốc tế trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển theo quan điểm của tư pháp quốc tế. Nó liên quan đến dấu hiệu chủ thể, khách thể và sự kiện pháp lý quy định tại Điều 663 BLDS Việt Nam 2015.