Kính chào công ty luật LVN Group, tôi có thắc mắc pháp lý cần được Luật sư của LVN Group giải đáp. Luật sư cho tôi hỏi Bộ luật hình sự năm 2015 có những sửa đổi gì về hình phạt tử hình? Rất mong nhận được tư vấn của Luật sư của LVN Group? Tôi xin chân thành cảm ơn!

Người gửi: Thanh Tâm – Quảng Ninh

Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật Hình sự của Công ty luật LVN Group

>> Luật sư tư vấn pháp luật Hình sự, gọi: 1900.0191

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật của Công ty Luật LVN Group. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ Luật sư của LVN Group của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

Cơ sở pháp lý:

– Hiến pháp năm 2013

– Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017

1. Hình phạt tử hình là gì?

Khái niệm hình phạt được quy định tại Điều 30 Bộ luật Hình sự 2015. Theo đó: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó”.

Hình phạt tử hình là một loại hình phạt truyền thống, có từ lâu đời. Thuật ngữ hình phạt tử hình có tên tiếng Anh là “death penalty” hay là “capital punishment”. Capital có nguồn gốc từ tiếng Latin là capitalis, trong đó có gốc của từ kaput, có nghĩa là đầu. “Capital punishment” có nghĩa là hình phạt mà khi áp dụng, người bị áp dụng sẽ bị mất đầu, tức là tước bỏ quyền sống của một người. Trong tiếng Pháp hình phạt này có tên “peine de mort” hay còn gọi là “peine capitale”; trong tiếng Đức nó có tên gọi là“todesstrafe”.

Trong Luật hình sự Việt Nam “Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định” (Điều 40 BLHS 2015).

2. Đặc điểm của hình phạt tử hình là gì?

Thứ nhất, hình phạt tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất – tước đoạt mạng sống của người phạm tội, không một hình phạt nào trong hệ thống hình phạt có khả năng này. Hình phạt tử hình tước bỏ quyền được sống – quyền năng tự nhiên, thiêng liêng, cao quý nhất của con người. Áp dụng tử hình đối với người phạm tội, loại bỏ hoàn toàn sự tồn tại của họ trong đời sống xã hội vì lợi ích chung của cộng đồng.

Thứ hai, tử hình chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng được quy định trong BLHS. Chỉ khi hành vi phạm tội gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội, người phạm tội ở vào các trường hợp được BLHS dự liệu trước, cùng với bản án có hiệu lực của Tòa án, việc áp dụng tử hình mới có giá trị pháp lý thực tế.

Thứ ba, hình phạt tử hình không đặt ra mục đích cải tạo, giáo dục người bị kết án. Tuy nhiên, tử hình vẫn đạt được mục đích phòng ngừa riêng của nó khi loại bỏ khả năng phạm tội mới của người bị kết án. Và mục đích phòng ngừa chung khi có tác dụng răn đe mạnh mẽ, ngăn ngừa những cá nhân không vững vàng trong xã hội đi vào con đường phạm tội. Xuất phát từ điểm này chúng ta có thể thấy hình phạt tử hình luôn có tính chất không thể thay đổi. Bởi nếu ở những hình phạt khác, thì khi phát hiện có oan sai, chúng ta vẫn có thể khắc phục được hậu quả. Nhưng người bị kết án tử hình thì sau đó dù có chứng minh được người đó hoàn toàn vô tội thì cũng không làm cách nào để họ có thể sống lại để tiếp tục cuộc sống mà họ đáng được có.

Thứ tư, quy định về hình phạt tử hình trong BLHS vẫn phù hợp với nguyên tắc nhân đạo vì hình phạt này tuy tước đi quyền sống của người phạm tội nhưng để bảo vệ lợi ích của cả cộng đồng, loại trừ nguy cơ đe dọa cộng đồng. Bên cạnh đó, việc áp dụng hình phạt tử hình chỉ được áp dụng với một số loại tội danh, và loại trừ đối tượng bị tử hình là người chưa thành niên, phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi bị xét xử.

3. Vì sao ghi nhận hình phạt tử hình?

Mục đích của hình phạt tử hình là sự phản ánh rõ nét bản chất xã hội, bản chất giai cấp của hình phạt nói chung và hình phạt tử hình nói riêng. Trước đây, nếu các nhà làm luật quan niệm người phạm tội là kẻ đã gây ra tội ác và ác giả ác báo, phải trừng trị thích đáng thì sẽ dẫn đến việc lạm dụng hình phạt tử hình. Các hình thức thi hành hình phạt tử hình trong trường hợp đó cũng dã man, tàn khốc hơn, thể hiện mục đích “trả thù” người phạm tội. Dần dần các quan điểm tiến bộ, nhân đạo về hình phạt tử hình đã thay thế, mặc dù vẫn duy trì ở đa số các nước nhưng hình phạt tử hình chỉ được áp dụng đối với người phạm tội như là biện pháp cuối cùng và nghiêm khắc nhất để “trừng trị” họ.

Sự nghiêm khắc và triệt để của hình phạt tử hình cho thấy mục đích phòng ngừa riêng, ngăn ngừa người bị kết án phạm tội mới. Bởi các nhà làm luật xét thấy rằng người phạm tội bị kết án tử hình là những người không thể cải tạo, giáo dục, không còn khả năng tái hòa nhập với xã hội. Việc loại bỏ hoàn toàn khả năng tái phạm với mức độ nguy hiểm cao là cần thiết hơn cả. Tuy nhiên, có thể thấy tác dụng răn đe, phòng ngừa chung của hình phạt tử hình trong việc ngăn ngừa các thành viên khác trong xã hội không phạm tội, tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Một trong những định hướng Bộ luật hình sự là đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội; tôn trọng và bảo đảm thực thi đầy đủ quyền con người, quyền công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 mà một trong những nội dung quan trọng là tiếp tục hạn chế hình phạt tử hình.

4. Vì sao cần hạn chế hình phạt tử hình?

Thứ nhất, đáp ứng yêu cầu bảo vệ quyền con người nói chung và quyền sống nói riêng theo Hiến pháp năm 2013

Một trong những quyền tự nhiên thiêng liêng nhất của con người là quyền sống. Tinh thần này được thể hiện rõ trong Công ước về quyền chính trị và dân sự mà nước ta là thành viên. Hiến pháp năm 1992 khẳng định rõ, ở Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng (Điều 50) và công dân được pháp luật bảo hộ về tính mạng (Điều 71). Đến Hiến pháp năm 2013 thì các quyền con người được tiếp tục khẳng định mạnh mẽ hơn, đầy đủ hơn, theo đó, ở Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật (Điều 14). Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên đã có một điều riêng để ghi nhận và bảo vệ quyền sống của con người, theo đó, “mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” (Điều 19).

Thứ hai, đáp ứng yêu cầu tiếp tục thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng về giảm hình phạt tử hình được thể hiện trong Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

Thứ ba, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam đã trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế về quyền con người, trong đó liên quan trực tiếp đến quyền sống phải kể đến Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948; Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 và Công ước về Quyền trẻ em năm 1989. Theo các điều ước này, quyền con người nói chung và quyền sống nói riêng phải được các quốc gia tôn trọng và bảo vệ bao gồm cả các quyền cần được đảm bảo bởi pháp luật hình sự và tố tụng hình sự. Đặc biệt, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 đã đưa ra những nguyên tắc cụ thể định hướng cho việc áp dụng cũng như thi hành hình phạt tử hình ở những quốc gia mà hình phạt tử hình chưa được xoá bỏ.

Hơn nữa, trong điều kiện hội nhập, tội phạm không chỉ giới hạn trong phạm vi một quốc gia mà nó đã mang tính quốc tế, xuyên quốc gia. Vì vậy, hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm là một yêu cầu tất yếu. Việc giảm dần tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình cũng là một trong những điều kiện để góp phần tạo thuận lợi cho sự hợp tác này.

Hiện nay trên thế giới có 94/193 quốc gia là thành viên của Liên Hiệp Quốc vẫn còn duy trì hình phạt tử hình, trong đó có 7 quốc gia chỉ xử tử hình trong các trường hợp đặc biệt (tội phản quốc, thảm sát hàng loạt…): Kazakhstan, Israel, El Salvador, Brazil, Chile, Peru và Fiji. Nhiều quốc gia trong số này trong một khoảng thời gian khá lâu chưa có một vụ xử tử hình nào được thi hành, như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Israel… Quốc gia có số vụ tử hình đứng đầu thế giới là Trung Quốc, Hoa Kỳ… Trong đó có 11 quốc gia vẫn tồn tại hình phạt treo cổ song song với xử bắn: Malaysia, Singapore, Nhật Bản, Ấn Độ, Pakistan, Iran, Iraq, Liban, Israel, Jordan và Ai Cập. Đặc biệt duy nhất Ả Rập Saudi là quốc gia duy nhất vẫn còn giữ hình thức xử tử công khai bằng cách chặt đầu. Có 6 quốc gia áp dụng hình thức tiêm thuốc độc thay cho xử bắn: Việt Nam, Thái Lan, Trung Quốc, Đài Loan (không phải thành viên của Liên Hiệp Quốc), Hoa Kỳ và Guatemala. Một số bang tại Hoa Kỳ cho tù nhân được chọn giữa hai hình thức tử hình: ghế điện hay tiêm thuốc độc

5. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về hình phạt tử hình

5.1. Khái quát quy định về hình phạt tử hình trong Bộ luật hình sự năm 2015

Từ thực tiễn lập pháp hình sự và quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng trong các Nghị quyết nêu trên, trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết thực tiễn áp dụng hình phạt tử hình và tình hình phát triển kinh tế – xã hội của nước ta trong thời gian tới, BLHS sửa đổi, bổ sung quy định về hình phạt tử hình theo hướng bám sát tinh thần nội dung Hiến pháp năm 2013 về bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân, tiếp tục thể chế hóa chủ trương của Đảng về hạn chế hình phạt tử hình trên bốn phương diện: Hạn chế các trường hợp áp dụng hình phạt tử hình đối với những tội danh còn giữ lại hình phạt tử hình theo hướng quy định rõ ràng, chặt chẽ, cụ thể các điều kiện áp dụng để Tòa án cân nhắc, áp dụng trong từng trường hợp cụ thể; Mở rộng diện đối tượng không bị áp dụng hình phạt tử hình; Mở rộng các trường hợp không thi hành án tử hình và chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân nhằm hạn chế việc thi hành án tử hình trên thực tế; Giảm số lượng các tội danh có quy định hình phạt tử hình trong BLHS. Cụ thể:

Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung điều kiện áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chặt chẽ nhằm thu hẹp phạm vi áp dụng hình phạt này (khoản 1 Điều 40).

– Về loại tội: Chỉ áp dụng đối với một số tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người; các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do BLHS quy định.

– Về đối tượng: Chỉ áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm, người phạm tội có tính chất côn đồ, tái phạm nguy hiểm, hoặc thực hiện tội phạm một cách man rợ, dã man, tàn bạo hoặc có nhiều tình tiết tăng nặng.

Thứ hai, Bộ luật hình sự đã mở rộng diện đối tượng không bị áp dụng hình phạt tử hình (Điều 40 Bộ luật hình sự năm 2015) theo hướng ngoài hai đối tượng như quy định hiện hành (người chưa thành niên và phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi), bổ sung thêm đối tượng là người từ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử. Việc bổ sung đối tượng này vào diện không bị áp dụng hình phạt tử hình thể hiện chính sách hình sự nhân đạo đối với một đối tượng được sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước trong số những người cao tuổi – đó là những người đã đến tuổi thượng thọ mà theo Luật Người cao tuổi được hưởng chế độ chúc thọ, mừng thọ của Nhà nước; được đặc cách hưởng chính sách bảo trợ xã hội.

Thứ ba, Bộ luật hình sự đã mở rộng các trường hợp không thi hành án tử hình và chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân nhằm góp phần hạn chế hình phạt tử hình trên thực tế (Điều 40) theo hướng ngoài 02 trường hợp như quy định hiện hành (người bị kết án là phụ nữ có thai hoặc là phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi), bổ sung thêm hai trường hợp: là không thi hành án tử hình đối với người bị kết án từ đủ 75 tuổi trở lên và tội tham ô tài sản hoặc tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động khắc phục cơ bản hậu quả của tội phạm do mình gây ra, hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn.

Thứ tư, Bộ luật hình sự bỏ hình phạt tử hình đối với 07 tội danh cụ thể. Việc bỏ hình phạt tử hình nói chung và đối với một số tội phạm cụ thể nói riêng là một vấn đề hết sức hệ trọng mang tính chính trị – pháp lý sâu sắc, do vậy, cần phải cân nhắc kỹ lưỡng, thận trọng và phải xuất phát từ một số tiêu chí cơ bản sau đây: (1) tầm quan trọng và yêu cầu bảo vệ khách thể bị xâm hại; (2) tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm cũng như đặc điểm nhân thân của người phạm tội; (3) yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm; (4) khả năng trấn áp tội phạm bằng các biện pháp ngoài tử hình; (5) có tính đến xu hướng chung trên thế giới là thu hẹp dần và tiến tới bãi bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình.

5.2. Bỏ hình phạt tử hình đối với 7 tội danh

BLHS 2015 bỏ hình phạt tử hình đối với 07 trong số 22 tội danh có quy định hình phạt tử hình trong BLHS cũ năm 1999. Đó là các tội:

1) cướp tài sản;

2) phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia;

3) chống mệnh lệnh;

4) đầu hàng địch;

5) phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược;

6) chống loài người;

7) tội phạm chiến tranh.

Thứ nhất, đối với tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS cũ năm 1999)

Cướp tài sản là một trong ba tội phạm nghiêm trọng nhất trong số các tội xâm phạm sở hữu. Bản chất của tội này là tước đoạt quyền sở hữu của người khác bằng vũ lực hoặc bằng các hành động khác tấn công nạn nhân làm cho họ không thể chống cự được. Vì vậy, trong khi thực hiện hành vi cướp tài sản, người phạm tội có thể gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe của nạn nhân. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, đây là tội xâm phạm quyền sở hữu của người khác, đối tượng chính bị xâm hại ở đây là tài sản. Mục đích của người phạm tội này là chiếm đoạt tài sản của người khác chứ không phải là xâm phạm tính mạng, sức khỏe. Việc gây thương tích hoặc làm chết người khi thực hiện hành vi cướp không nằm trong ý định chủ quan của người phạm tội cướp. Hơn nữa, không phải mọi trường hợp phạm tội cướp tài sản đều gây chết người, do vậy, việc áp dụng hình phạt tù chung thân đối với tội phạm này là đủ nghiêm khắc cũng tương tự như trường hợp cố ý gây thương tích dẫn đến chết nhiều người quy định tại khoản 4 Điều 104 của BLHS. Nếu chứng minh được người phạm tội có ý định tước đoạt sinh mạng của nạn nhân thì có thể xử lý về tội giết người mà hình phạt cao nhất là tử hình. Trong thực tế, Tòa án xét xử các vụ án giết người, cướp tài sản thì thường tuyên tử hình đối với tội giết người và tổng hợp hình phạt chung là tử hình.

Thứ hai, đối với tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 231 BLHS cũ năm 1999):

Theo BLHS năm 1985 thì đây là một trong các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Đến BLHS cũ năm 1999, tội phạm này được chuyển về Chương các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Như vậy, đã có sự chuyển đổi về khách thể xâm hại từ an ninh quốc gia sang trật tự, an toàn xã hội và do vậy, tầm quan trọng và yêu cầu bảo vệ khách thể đối với tội này cũng đã có sự thay đổi không còn ở mức cao như trước đây. Hơn nữa, đối tượng xâm hại của tội này là tài sản dưới dạng các công trình, phương tiện có tầm quan trọng về an ninh quốc gia, trước đây đều thuộc sở hữu Nhà nước nên có chính sách xử lý nghiêm khắc hơn, nhưng nay thuộc nhiều sở hữu của các thành phần kinh tế khác nhau mà về nguyên tắc, phải được bảo vệ như nhau. Do vậy, hình phạt tù chung thân đối với tội phạm này là đủ nghiêm khắc. Ngoài ra, thực tiễn cũng cho thấy, trong khoảng gần 10 năm trở lại đây, các Tòa án không áp dụng hình phạt tử hình đối với những người phạm tội này.

Việc bỏ tử hình đối với tội danh này không khó khăn cho chúng ta trong việc xử lý tội phạm, bởi lẽ, trong một số trường hợp nhất định, người thực hiện hành vi phá hủy công trình, phương tiện có tầm quan trọng về an ninh quốc gia có thể bị xử lý về các tội phạm tương ứng trong BLHS, ví dụ: tội phá hoại cơ sở vật chất – kỹ thuật của nước CHXHCN Việt Nam (Điều 85); tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 84) hoặc tội khủng bố (Điều 230a) là những tội có quy định hình phạt tử hình.

Thứ ba, đối với tội chống mệnh lệnh (Điều 316 BLHS cũ năm 1999) và tội đầu hàng địch (Điều 322 BLHS cũ năm 1999):

Đây là các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, nhưng hậu quả mà hành vi phạm tội này gây ra sau đó có thể không nằm trong ý muốn chủ quan của người phạm tội, thậm chí có trường hợp khi thực hiện các hành vi này, bản thân người phạm tội chưa hình dung được hết những hậu quả mà hành vi phạm tội của mình có thể gây ra. Trong trường hợp chứng minh được rằng, các hậu quả đặc biệt nghiêm trọng đó nằm trong ý muốn chủ quan của người phạm tội thì có thể hành vi phạm tội của họ đã vượt ra ngoài phạm vi tội chống mệnh lệnh hoặc đầu hàng địch. Khi đó sẽ kết hợp xử lý về các tội phạm khác có liên quan. Mặt khác, xét về khía cạnh tâm lý, trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh, cận kề giữa cái sống, cái chết, con người rất có thể có những giây phút hèn nhát (ví dụ: vì sợ chết mà chống mệnh lệnh không thực hiện nhiệm vụ chiến đấu được giao hoặc vì sợ chết mà đầu hàng địch), nếu được mở thêm một con đường sống (không tử hình) thì bản thân người phạm tội có cơ hội để sám hối lỗi lầm của mình, vì đồng đội mà không làm liều, góp phần hạn chế được hậu quả lớn hơn có thể xảy ra. Hơn nữa, tội chống mệnh lệnh và tội đầu hàng địch chủ yếu xảy ra trong thời chiến và khi đó hậu quả của nó sẽ cực kỳ nghiêm trọng, còn trong điều kiện thời bình như hiện nay thì hậu quả của hành vi phạm tội này cũng có mức độ, không giống như thời chiến. Do vậy, hình phạt tù chung thân đối với các tội phạm này là đủ nghiêm khắc mà không cần thiết phải tước đi sinh mạng của người phạm tội. Hơn nữa, theo Báo cáo số 3870/BQP-VPC ngày 07 tháng 12 năm 2012 của Bộ Quốc phòng về Tổng kết 11 năm thi hành BLHS thì trong những năm qua các Tòa án quân sự chỉ áp dụng hình phạt tử hình đối với hai tội là: tội gián điệp và tội giết người. Còn đối với các tội phạm khác mặc dù có quy định hình phạt tử hình nhưng các Tòa án quân sự không áp dụng.

Thứ tư, đối với tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược (Điều 341 BLHS cũ năm 1999), tội chống loài người (Điều 342 BLHS cũ năm 1999) và tội phạm chiến tranh (Điều 343 BLHS cũ năm 1999):

Thực tiễn thi hành BLHS cho thấy, tuy các tội danh này có quy định hình phạt tử hình nhưng trên thực tế từ năm 1985 đến nay chưa có trường hợp nào phạm các tội này và bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đây là những tội chủ yếu mang tính phòng ngừa. Do vậy, việc bỏ hình phạt tử hình đối với 03 tội này sẽ không ảnh hưởng nhiều đến thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm mà lại góp phần làm giảm bớt số lượng tội danh có quy định hình phạt tử hình trong BLHS.

Như vậy, theo BLHS 2015 thì sẽ còn 15 tội danh có quy định hình phạt tử hình thuộc 06 nhóm tội phạm, trong đó: 1) nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia có 07 tội danh; 2) nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người có 02 tội danh; 3) nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế có 01 tội danh; 4) nhóm tội phạm về ma tuý có 02 tội danh; 5) nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng có 01 tội danh và nhóm tội phạm về chức vụ có 02 tội danh.

5.3. Sửa đổi, bổ sung một số quy định của Bộ luật hình sự cũ năm 1999 về hình phạt tử hình

Thực tiễn cho thấy số án tử hình mà các Tòa án đã tuyên trong thời gian vừa qua chủ yếu tập trung vào tội giết người và tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý. Do vậy, để góp phần giảm án tử hình trên thực tế, bên cạnh việc bỏ 07 tội danh như đã nêu trên, BLHS đã sửa đổi quy định của BLHS cũ năm 1999 về hai tội danh này theo hướng hạn chế các trường hợp áp dụng hình phạt tử hình.

Bộ luật hình sự 2015 đã sửa đổi Điều 194 của BLHS cũ năm 1999 về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý theo hướng tách riêng thành 04 tội danh khác nhau (các điều 249, 250, 251, 252) trong đó chỉ giữ lại hình phạt tử hình đối với tội mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250; 251), còn đối với các tội danh khác (tàng trữ trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý) thì mức phạt cao nhất là tù chung thân.

Ngoài ra nhằm hạn chế hình phạt tử hình, đồng thời khuyến khích người phạm tội tham nhũng khắc phục hậu quả, nộp lại tiền cho Nhà nước, Điều 40, Bộ luật Hình sự 2015 quy định “Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất 3/4 tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn” thì sẽ không thi hành án tử hình đối với người bị kết án và chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân.

5.4. Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người từ đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử

Tuy nhiên không phải để đảm bảo tính nhân đạo và tính khoan hồng thì cần phải bãi bỏ hình phạt tử hình, mà cần phải rà soát, đánh giá thấu đáo xét trong từng trường hợp, từng tội danh cụ thể để có một cách nhìn khái quát và toàn diện để áp dụng hình phạt tử hình một cách có hiệu quả nhất. Tại Điều 40 của Bộ luật hình sự 2015 có quy định “Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử” và “Không thi hành án tử hình đối với người đủ 75 tuổi trở lên” đây được coi là một trong những điểm mới của Bộ luật hình sự nhận được nhiều ý kiến trái chiều của Đại biểu quốc hội cũng như của nhân dân.

Trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào được gọi là “người đủ 75 tuổi trở lên”.

Ví dụ: Nguyễn Văn A sinh ngày 10/7/1941. Do mâu thuẫn cá nhân A đã dùng dao chém liên tiếp nhiều nhát vào người B, làm B tử vong tại chỗ. Hành vi của A cấu thành tội giết người.

Trường hợp 1: A thực hiện hành vi giết B vào ngày 11/7/2015

Trường hợp 2: A thực hiện hành vi giết B vào ngày 11/7/2016

Với 2 trường hợp trên thì trường hợp 2 phù hợp với quy định “người đủ 75 tuổi trở lên”. Vì đối với trường hợp 1, tuy A đã qua tuổi 74 tức mới chỉ là “từ 75 tuổi trở lên” nên nếu A thực hiện hành vi vào ngày 11/7/2015 thì A không được áp dụng quy định tại Điều 40 Bộ luật hình sự 2015.

Sỡ dĩ điều luật này nhận được nhiều phản hồi như vậy là bởi các nguyên nhân:

Thứ nhất, pháp luật là để bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ bình yên cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân. Nếu quy định “Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử” và “Không thi hành án tử hình đối với người đủ 75 tuổi trở lên” dẫn đến hệ quả tội phạm sẽ lợi dụng người đủ 75 tuổi trở lên tham gia các hoạt động mua bán, vận chuyển trái phép ma túy với số lượng lớn; tiến hành các hoạt động khủng bố, xâm phạm an ninh quốc gia hoặc phạm các tội đặc biệt nghiêm trọng khác mà không sợ bị áp dụng hình phạt tử hình. Quy định này là một kẽ hở lớn trong pháp luật hình sự để các thế lực thù địch, phản động và các loại tội phạm lợi dụng chống phá Đảng, Nhà nước.

Thứ hai, trước đây, người sống 75 tuổi là hiếm, song ngày nay rất phổ biến. Người 75 tuổi nhìn chung vẫn còn khả năng về thể lực và trí tuệ, sự chênh lệch so với tuổi thấp hơn nhưng không nhiều. Thực tế, nhiều nước trên thế giới ở lứa tuổi này còn phạm tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, nước ta cũng thế. Họ còn có thể là những người cầm đầu các tổ chức tội phạm, xâm phạm an ninh quốc gia, khủng bố, rửa tiền, giết người, hiếp dâm… Như, vụ án Lê Đức Mỹ, 82 tuổi, trú tại thành phố Tây Ninh, phạm tội hiếp dâm trẻ em mà nạn nhân là bé gái 7 tuổi, 5 tháng , hay vụ án Nguyễn Văn Tài, 85 tuổi, trú tại thành phố Nam Định phạm tội giết người, nạn nhân bị giết hại với 43 nhát dao chính là vợ của bị cáo …Như vậy câu hỏi đặt ra ở đây là người trên 75 vẫn đủ sức khỏe, đủ năng lực để thực hiện hành vi phạm tội, tại sao lại được miễn trừ án tử hình và nếu nhân đạo quá với tội phạm thì sẽ vô nhận đạo với xã hội nên cần phải cân nhắc kỹ.
Thứ ba, đã là pháp luật thì mọi công dân phải bình đẳng, không nên có sự ưu tiên. Một câu hỏi đặt ra, tại sao lại được miễn trừ án tử hình với người đủ 75 tuổi và như vậy có đảm bảo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật theo Hiến pháp hay không? Và nếu xảy ra trường hợp một người 74 tuổi phạm tội ác phải nhận án tử hình, nhưng một người 75 tuổi phạm tội ác gây hậu quả lớn hơn nhiều so với người 74 tuổi lại được miễn án tử hình, như thế sẽ rất bất cập. Bên cạnh đó “Cần phải đặt vấn đề ngược lại, người già nói chung hay 75 tuổi trở lên là người có vốn sống lớn, hiểu biết xã hội sâu sắc, có kinh nghiệm ứng xử, theo lẽ thường họ càng không được phạm tội. Đằng này nếu xảy ra trường hợp người 75 tuổi trở lên phạm vào tội ác có khung hình phạt tử hình như tội “giết người”, “hiếp dâm trẻ em”, “buôn bán ma túy”… lại được miễn hình phạt tử hình là không phù hợp với đạo lý

Thứ tư, đối với quy định không áp dụng, không thi hành án tử hình đối với người bị kết án đủ 75 tuổi trở lên có thể dẫn đến việc lợi dụng để trì hoãn, trốn tránh sự trừng phạt, không bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật.

Tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt của Nhà nước, tước đi quyền quan trọng và thiêng liêng của con người, đó là quyền sống. Vì vậy việc áp dụng hình phạt này cần phải căn cứ vào đặc điểm và điều kiện cụ thể của đất nước. Ở nước ta, tử hình vẫn được coi là hình phạt cần thiết và phải có nhằm trừng trị những người phạm tội để giữ nguyên kỉ cương phép nước, bảo đảm an ninh và trật tự an toàn xã hội. Vì vậy cần phải xem xét việc bỏ hình phạt tử hình đối với người phạm tội đủ 75 tuổi trở lên có phải là một trong những điểm mới, điểm tiến bộ của Bộ luật hình sự 2015 hay không? Hay đây chính là kẻ hở của pháp luật để các thế lực thù địch, phản động và các loại tội phạm lợi dụng chống phá Đảng, Nhà nước.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Luật LVN Group – Sưu tầm và biên tập