1. Khái niệm về nghị án

Nghị án không có khái niệm được quy định cụ thể như thế nào. Tuy nhiên, ta có thể tạm hiểu nghị án là việc hội đồng xét xử thảo luận và quyết định các vấn đề của vụ án.

Nghị án được Bộ luật tố tụng dân sự quy định tại Điều 236 và Điều 237. Theo Điều 236 Bộ luật tố tụng dân sự, việc nghị án được tiến hành tại phòng riêng, chỉ có các thành viên của hội đồng xét xử mới có quyền nghị án. Quy định này nhằm đảm bảo nguyên tắc nghị án bí mật, nguyên tắc thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, tránh tình trạng thư kí Tòa án và Kiểm sát viên cũng có mặt trong phòng nghị án khi nghị án.

2. Khái niệm tuyên án

Sau khi bản án đã được thông qua, Hội đồng xét xử trở lại phòng xét án để tuyên án. Bộ luật tố tụng dân sự quy định về hoạt động tuyên án tại Điều 267.

Tuyên án có thể hiểu là việc Tòa án sau khi làm việc theo thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định, sau khi phân tích để làm rõ vụ việc thì đưa ra kết quả của việc xét xử đó đối với người vi phạm quy định pháp luật.

3. Trình tự tiến tiến hành phiên tòa sơ thẩm

3.1. Khai mạc tại phiên tòa

– Chủ tọa phiên tòa khai mạc phiên tòa và đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử.

– Thư ký phiên tòa báo cáo Hội đồng xét xử về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập, giấy báo của Tòa án và lý do vắng mặt.

– Chủ tọa phiên tòa kiểm tra lại sự có mặt của những người tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập, giấy báo của Tòa án và kiểm tra căn cước của đương sự, người tham gia tố tụng khác.

– Chủ tọa phiên tòa phổ biến quyền, nghĩa vụ của đương sự và của người tham gia tố tụng khác.

– Chủ toạ phiên tòa giới thiệu họ, tên những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch.

– Chủ tọa phiên tòa hỏi những người có quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch xem họ có yêu cầu thay đổi ai không.

– Yêu cầu người làm chứng cam kết khai báo đúng sự thật, nếu khai không đúng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, trừ trường hợp người làm chứng là người chưa thành niên.

– Yêu cầu người giám định, người phiên dịch cam kết cung cấp kết quả giám định chính xác, phiên dịch đúng nội dung cần phiên dịch.

3.2. Thủ tục hỏi đương sự về việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu

Chủ tọa phiên tòa hỏi đương sự về các vấn đề sau đây:

+ Hỏi nguyên đơn có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện hay không.

+ Hỏi bị đơn có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu phản tố hay không.

+ Hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu độc lập hay không.

3.3.Hỏi đương sự về việc các đương sự có thỏa thuận được với nhau không:

Chủ tọa phiên tòa hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không; trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và thỏa thuận của họ là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc giải quyết vụ án.

Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội.

3.4. Trình bày của đương sự:

Trường hợp có đương sự vẫn giữ nguyên yêu cầu của mình và các đương sự không tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì các đương sự trình bày theo trình tự sau đây:

+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày về yêu cầu và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ và hợp pháp. Nguyên đơn có quyền bổ sung ý kiến.

+ Trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án thì đại diện cơ quan, tổ chức trình bày về yêu cầu và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp;

+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn; yêu cầu phản tố, đề nghị của bị đơn và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Bị đơn có quyền bổ sung ý kiến;

+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với yêu cầu, đề nghị của nguyên đơn, bị đơn; yêu cầu độc lập, đề nghị của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền bổ sung ý kiến.

3.5. Hỏi tại phiên tòa:

+ Nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn hỏi trước, tiếp đến bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn, sau đó là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;

+ Những người tham gia tố tụng khác;

+ Chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm nhân dân;

+ Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.

3.6. Tranh luận tại phiên tòa:

Trình tự phát biểu khi tranh luận:

+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày. Nguyên đơn có quyền bổ sung ý kiến. Trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện thì đại diện cơ quan, tổ chức trình bày ý kiến. Người có quyền và lợi ích hợp pháp được bảo vệ có quyền bổ sung ý kiến;

+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn tranh luận, đối đáp. Bị đơn có quyền bổ sung ý kiến;

+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền bổ sung ý kiến;

+ Các đương sự đối đáp theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa;

3.7. Phát biểu của Kiểm sát viên :

Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.

4. Nghị án và tuyên án

4.1. Nghị án

Căn cứ Điều 264 Bộ luật tố tụng dân sự quy định về nghị án như sau:

“Đều 264. Nghị án

1. Sau khi kết thúc phần tranh luận, Hội đồng xét xử vào phòng nghị án để nghị án.

2. Chỉ có các thành viên Hội đồng xét xử mới có quyền nghị án. Khi nghị án, các thành viên Hội đồng xét xử phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, nếu vụ án thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật này thì còn phải căn cứ vào tập quán, tương tự pháp luật, những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ hoặc lẽ công bằng, để giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề. Hội thẩm nhân dân biểu quyết trước, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án.

3. Khi nghị án phải có biên bản ghi lại các ý kiến đã thảo luận và quyết định của Hội đồng xét xử. Biên bản nghị án phải được các thành viên Hội đồng xét xử ký tên tại phòng nghị án trước khi tuyên án.

4. Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, việc nghị án đòi hỏi phải có thời gian dài thì Hội đồng xét xử có thể quyết định thời gian nghị án nhưng không quá 05 ngày làm việc, kể từ khi kết thúc tranh luận tại phiên tòa.

Hội đồng xét xử phải thông báo cho những người có mặt tại phiên tòa và người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa về giờ, ngày và địa điểm tuyên án. Trường hợp Hội đồng xét xử đã thực hiện việc thông báo mà có người tham gia tố tụng vắng mặt vào ngày, giờ và địa điểm tuyên án thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành việc tuyên án theo quy định tại Điều 267 của Bộ luật này.”

Bên cạnh đó Nghị án còn được quy định Tại mục 35 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03-12-2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Hội đồng xét xử phải thực hiện nghiêm túc các nội dung sau:

“1. Các thành viên Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề một; cụ thể là các vấn đề chính sau: căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra xem xét tại phiên toà, qua việc hỏi và tranh luận tại phiên toà, qua việc xem xét ý kiến của những người tham gia tố tụng, Kiềm sát viên (nếu có) đã đủ căn cứ để chấp nhận toàn bộ hay một phần các yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc không chấp nhận toàn bộ, một phần các yêu cầu của các đương sự hay chưa, nếu đã đủ căn cứ để chấp nhận thì theo điểm, khoản, điều luật nào của văn bản quy phạm pháp luật tương ứng và án phí dân sự sơ thẩm.

2. Trong trường hợp Hội đồng xét xử sơ thẩm chỉ có một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân, thì khi phát biểu (hoặc khi biểu quyết) các Hội thẩm nhân dân phát biểu (hoặc biểu quyết) trước, Thẩm phán chủ toạ phiên toà phát biểu (hoặc biểu quyết) sau. Trong trường hợp Hội đồng xét xử sơ thẩm có hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân, thì các Hội thẩm nhân dân phát biểu (hoặc biểu quyết) trước, đến Thẩm phán không phải là chủ toạ phiên toà và sau cùng là Thẩm phán chủ toạ phiên toầ phát biểu (hoặc biểu quyết).

3. Thành viên của Hội đồng xét xử có ý kiến thiểu số, thì có quyền (không phải là nghĩa vụ) trình bày ý kiến của mình bằng văn bản riêng và văn bản đó được đưa vào hồ sơ vụ án.

4. Trong biên bản nghị án phải ghi lại đầy đủ các ý kiến đã thảo luận về từng vấn đề một và quyết định theo đa số của Hội đồng xét xử về từng vấn đề đó. Các thành viên Hội đồng xét xử phải ký vào biên bản nghị án tại phòng nghị án trước khi tuyên án.

5. Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, việc nghị án đòi hỏi phải có thời gian dài, thì Hội đồng xét xử có thể quyết định thời gian nghị án nhưng không quá năm ngày làm việc, kể từ khi kết thúc tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử phải thông báo ngày, giờ tuyên án cho các đương sự biết. Nếu đã ấn định ngày, giờ tuyên án mà có thay đổi, thì Hội đồng xét xử phải thông báo lại cho các đương sự biết việc thay đổi đó”.

Qua nghị án, nếu thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc hỏi chưa đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử quyết định quay trở lại phần xét hỏi, tranh luận.

Trong thực tế, có trường hợp Hội đồng xét xử nghị án rất qua loa, Hội thẩm nhân dân chưa phát huy hết trách nhiệm, hoặc chưa thể hiện rõ quan điểm, bảo vệ quan điểm của mình, còn lệ thuộc vào Thẩm phán, nhất là Thẩm phán chủ tọa; còn có hiện tượng chưa tạo điều kiện cho Hội thẩm nhân dân thể hiện đầy đủ chính kiến; vụ án có nhiều vấn đề nhưng không nghị án từng vấn đề một; biên bản nghị án ghi không đầy đủ mà chỉ ghi chung chung; có biên bản chưa có đủ thành viên ký hoặc không ai ký, không lập biên bản nghị án… Các hiện tượng đó cần phải được khắc phục.

4.2. Tuyên án

Căn cứ Điều 267 quy định về tuyên án trong Bộ luật tố tụng dân sự như sau

“Điều 267. Tuyên án

Hội đồng xét xử tuyên đọc bản án với sự có mặt của các đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức và cá nhân khởi kiện. Trường hợp đương sự có mặt tại phiên tòa nhưng vắng mặt khi tuyên án hoặc vắng mặt trong trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 264 của Bộ luật này thì Hội đồng xét xử vẫn tuyên đọc bản án.

Khi tuyên án, mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy, trừ trường hợp đặc biệt được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa. Chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên khác của Hội đồng xét xử tuyên đọc bản án và có thể giải thích thêm về việc thi hành bản án và quyền kháng cáo.

Trường hợp Tòa án xét xử kín theo quy định tại khoản 2 Điều 15 của Bộ luật này thì Hội đồng xét xử chỉ tuyên công khai phần mở đầu và phần quyết định của bản án.

Trường hợp đương sự cần có người phiên dịch thì người phiên dịch phải dịch lại cho họ nghe toàn bộ bản án hoặc phần mở đầu và phần quyết định của bản án được tuyên công khai.”

– Bản án, tuyên án: Bản án sơ thẩm phải viết theo quy định tại Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành và mẫu bản án được ban hành theo Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03-12-2012 nói trên. Bản án phải được các thành viên Hội đồng xét xử thông qua và ký tại phòng nghị án, được lưu trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở bản gốc, chủ tọa thay mặt Hội đồng xét xử ký các bản chính để gửi đi.

Khi tuyên án có thể chủ tọa hoặc một thành viên Hội đồng xét xử tuyên đọc bản án và theo Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03-12-2012 của Hội đồng Thẩm phán thì nếu bản án quá dài có thể thay nhau đọc bản án. Người đọc phải đọc dõng dạc, rõ ràng. Trường hợp bản án quá dài thì chủ tọa phiên tòa có thể chỉ yêu cầu mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy khi đọc phần mỏ đầu và phần quyết định của bản án (nếu có người vì lý do sức khỏe không đứng dậy được thì chủ tọa cho phép ngồi tại chỗ và sau đó mói tuyên án). Khi tuyên đọc xong có thể giải thích thêm về quyền kháng cáo, về việc thi hành án.

Trong trường hợp đương sự không biết tiếng Việt thì phải phiên dịch toàn bộ bản án sang ngôn ngữ mà họ biết. Như vậy, không chỉ phiên dịch lại lòi tuyên án tại phiên tòa mà Tòa án còn phải dịch bản án sang ngôn ngữ mà đương sự biết để cấp bản án đó cho họ.

5. Sửa chữa, bổ sung bản án

Trong trường hợp phát hiện trong bản án cồ sai sót thì theo hướng dẫn tại Điều 38 Nghị quyết số 05/2012/NQ- HĐTP ngày 03-12-2012 củá Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng xét xử chỉ được sửa chữa, bổ sung bản án trong các trường hợp sau đây:

– Phát hiện lỗi rõ ràng về chính tả như: lỗi do viết không đúng từ ngữ, dấu, chữ viết hoa, viết thường, phiên âm tiếng nước ngoài sang tiếng Việt, bỏ sót không ghi tên đệm trong họ, tên của đương sự…

– Số liệu do nhầm lẫn hoặc do tính toán sai (kể cả án phí) như: cộng, trừ, nhân, chia sai…, mà phải sửa lại cho đúng.

Tòa án phải gửi văn bản thông báo về việc sửa chữa, bổ sung bản án cho những người quy định tại khoản 1 Điều 268 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành. Thông báo về việc sửa chữa, bổ sung bản án phải làm đúng theo mẫu ban hành kèm theo Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP nói trên.

Trên thực tế, đã có trường hợp chủ tọa phiên tòa ký thông báo đính chính bản án, nhưng nội dung đính chính làm thay đổi cơ bản nội dung của quyết định, việc làm đó là vi phạm nghiêm trọng tố tụng.

Việc sửa chữa, bổ sung bản án phải do Thẩm phán phôi hợp với Hội thẩm nhân dân là thành viên Hội đồng xét xử vụ án đó thực hiện. Việc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa tự tiện sửa chữa, bổ sung bản án mà không có ý kiến của Hội thẩip nhân dân, hoặc đã phát hành bản án sau đó thấy cần sửa chữa, bổ sung lại phát hành bản án khác dù cùng số, cùng ngày hay khác số, cùng một ngày, tháng, năm đều là việc làm vi phạm tố tụng.

Trong trường hợp Thẩm phán tham gia xét xử vụ án không còn đảm nhận chức vụ Thẩm phán thì Chánh án Tòa án đương nhiệm thực hiện việc sửa chữa, bổ sung.