1. Vụ án dân sự là gì?

– Vụ án dân sự là các tranh chấp xảy ra giữa các đương sự mà theo quy định thì cá nhân, cơ quan, tổ chức tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

– Trường hợp là vụ án dân sự khi:

+ Có tranh chấp giữa các bên;

+ Có hành vi khởi kiện ra Tòa án;

+ Tòa án phải thụ lý tranh chấp đó.

+ Các bên không có tranh chấp với nhau;

+ Có đơn yêu cầu;

+ Tòa án phải thụ lý đơn yêu cầu đó.

2. Khái niệm khởi kiện vụ án dân sự

Khởi kiện vụ án dân sự là hành vi tố tụng đầu tiên, là điểm khởi đầu của cá nhân, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng và là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng. Vì thế, việc khởi kiện được coi là một quyền tố tụng rất quan trọng của các chủ thể yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, lợi ích của Nhà nưôc, lợi ích công cộng hoặc của người khác.

Theo quy định tại Điều 186 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành thì các chủ thể có quyền khởi kiện có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, không phải bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào gửi đơn đến Tòa án để khởi kiện vụ án dân sự là Tòa án phải chấp nhận. Quyền khởi kiện mối chỉ là một quyền năng về tố tụng mà pháp luật dành cho mỗi chủ thể. Để quyền năng này trồ thành hiện thực thì các chủ thể phải thỏa mãn các điều kiện nhất định thì mói có thể trực tiếp thực hiện quyền này. Chính vì vậy, không phải cứ có đơn khởi kiện là đã phát sinh vụ án dân sự. Điều 186 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành cùng các điều 187, 189 khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành còn quy định các yếu tố cần phải tuân thủ khi khồi kiện. Chỉ khi nào các chủ thể tuân thủ đúng, đủ các yêu cầu đó thì đơn khởi kiện mối có giá trị về mặt pháp lý.

3. Quy định về khởi kiện vụ án dân sự

Khởi kiện vụ án dân sự là phương thức để các chủ thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị của mình trong trường hợp bị xâm phạm. Trên cơ sở của yêu cầu khởi kiện, Toà án quyết định buộc người có hành vi trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó, góp phần duy trì trật tự xã hội, giáo dục pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Theo Điều 161 Bộ luật tố tụng dân sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em, hội liên hiệp phụ nữ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình, trong trường hợp do Luật hôn

nhân và gia đình quy định. Công đoàn cấp trên của Công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động do pháp luật quy định. Cơ quan, tổ chức trong phạm vỉ nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách.

Cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể khởi kiện một hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật gỗ liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án. Nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể cùng khởi kiện một cá nhân, một cơ quan, một tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án.

Việc khởi kiện vụ án dân sự được tiến hành bằng đơn khởi kiện gửi Toà án có thẩm quyền. Đơn khởi kiện được nộp trực tiếp tại Toà án hoặc gửi đến Toà án qua bưu điện. Nội dung đơn khởi kiện ghi ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện; tên Toà án nhận đơn khởi kiện; tên, địa chỉ của người khởi kiện; tên, địa chỉ của người có quyền và lợi ích được bảo vệ, nếu có; tên, địa chỉ của người bị kiện; tên, địa chỉ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nếu có; những vấn đề cụ thể yêu cầu Toà án giải quyết đối với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; họ, tên, địa chỉ của người làm chứng, nếu có; tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp; các thông tin khác mà người khởi kiện xét thấy cần thiết cho việc giải quyết vụ án. Người khởi kiện là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; nếu cơ quan, tổ chức khởi kiện thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn. Người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Khởi kiện vụ án dân sự có hậu quả pháp lí là làm phát sinh vụ án dân sự tại Toà án. Sau khi nhận. đơn khởi kiện, trong thời hạn 5 ngày làm việc Toà án phải tiến hành xem xét. Nếu việc khởi kiện đáp ứng được các điều kiện khởi kiện vụ án dân sự thì Toà án thụ lí vụ án giải quyết. Nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án khác thì chuyển đơn khởi kiện cho Toà án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện. Nếu việc khởi kiện không đáp ứng được các điều kiện khởi kiện thì Toà án trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện

4. Thụ lý vụ án

Sau khi tiếp nhận đơn, Tòa án phải kiểm tra, xem xét đơn khởi kiện, nếu thấy đơn khỗi kiện hoàn toàn hợp lệ thì Tòa án đã nhận đơn khởi kiện phải xem người khỗi kiện có phải nộp tiền tạm ứng án phí hay không? Nếu thuộc trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì thụ lý vụ án. Nếu người khỏi kiện thuộc trường hợp phải nộp tiền tạm ứng án phí thì Tòa án dự tính số tiên tạm ứng án phí ghi vào phiếu báo và giao cho người khởi kiện để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thòi hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí (khoản 2 Điều 195 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành).

Hết thòi hạn được thông báo quy định tậi khoản 2 Điều 195 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành mà người khỏi kiện không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án thì căn cứ điểm c khoản 1 Điều 192 Bộ luật tô tụng dân sự hiện hành Tòa án trả lại đơn khởi kiện, tài liệu chứng cứ kèm theo cho đương sự. Trong thông báo trả lại đơn khỏi kiện nêu rõ lý do trả lại đơn khỗi kiện là vì người khỏi kiện không nộp tiền tạm ứng án phí.

Trường hợp trong hạn mười lăm ngày người khởi kiện không nộp được tiền tạm ứng án phí là do có trở ngại khách quan thì theo quy định tại khoản 1 Điều 186 Bộ luật dân sự năm 2015, thời gian có trở ngại khách quan đó không tính vào thời hạn nộp tiền tạm ứng án phí.

Nếu sau khi trả lại đơn khởi kiện mà có căn cứ chứng minh được là người khởi kiện đã nộp tiền tạm ứng án phí đúng hạn quy định, nhưng vì trở ngại khách quan nên họ nộp biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Tòa án chậm, thì Thẩm phán yêu cầu họ nộp lại đơn khởi kiện, các tài liệu, chứng cứ kèm theo và tiến hành thụ lý vụ án bình thưòng theo thủ tục chung.

Trong trường hợp sau khi Tòa án trả lại đơn khởi kiện, người khỏi kiện mới nộp tiền tạm ứng án phí và biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Tòa án, nếu việc nộp tiền tạm ứng án phí chậm này không phải do trố ngại khách quan thì được coi là nộp đơn khỏi kiện lại, Tòa án tiếp tục thụ lý vụ án (trong trường hợp sau khi thụ lý qua kiểm tra thấy thời hiệu khởi kiện đã hết, thì Tòa án căn cứ điểm h khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành để đình chỉ giải quyết vụ án).

Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án hoặc Phó chánh án, Chánh tòa hoặc Phó chánh tòa được Chánh án ủy nhiệm phân công cho Thẩm phán giải quyết vụ án. Việc phân công này không phải ra quyết định.

Đốỉ vôi vụ án phức tạp, việc giải quyết vụ án có thể kéo dài thì cần phải phân công Thẩm phán dự khuyết để bảo đảm xét xử liên tục.

Trong quá trình thi hành Bộ luật tô’ tụng dân sự hiện hành có một số Thẩm phán hỏi Chánh án có quyền xem xét đơn khởi kiện và giao cho cán bộ thụ lý, sau đó mới phân công cho Thẩm phán giải quyết vụ án có bị coi là vi phạm tố tụng? cần phải khẳng định Chánh án Tòa án cấp huyện, Tòa án cấp tỉnh (hoặc Chánh án Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực và Tòa án nhân dân cấp cao khi đã thành lập hai Tòa này) trước tiên đều phải là Thẩm phán và họ có thêm chức năng, nhiệm vụ của người quản lý, điều hành và có thêm một số thẩm quyền về tố tụng mà Thẩm phán bình thường không có. Do đó, nếu họ trực tiếp xem xét thụ lý đơn hay giao cho Thẩm phán đều không bị coi là vi phạm tố tụng, không có điều luật nào cấm Thẩm phán là Chánh án làm việc đó. Thông thưòng do Chánh án nhiều việc thường ủy nhiệm cho cấp phó, thậm chí ủy nhiêm cho cấp Chánh tòa, Phó chánh tòa (nếu ở Tòa án cấp tỉnh) phân công xử lý đơn, thụ lý, giải quyết vụ kiện. Đây chỉ là cách thức tổ chức, phân công, điểu hành công việc. Tùy thực tiễn từng đơn vị để xử lý và nói chung Chánh án không nên ôm đồm quá nhiều việc, nhất là các việc mà luật không bắt buộc phải trực tiếp xử lý.

Nếu không tổ chức công việc theo hướng có bộ phận chuyên trách xem xét, thụ lý đơn riêng thì nên phân công

Thẩm phán đã thực hiện việc xem xét đơn khởi kiện và thụ lý vụ án tiếp tục các bưốc tiếp theo giải quyết vụ án.

5. Thông báo việc thụ lý vụ án

Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Tòa án phải thông báo bằng văn bản cho bị đơn, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án, đồng thời, thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án.

Trong thông báo phải thể hiện đầy đủ các nội dung cơ bản sau:

– Ngày, tháng, năm làm văn bản thông báo.

– Tên, địa chỉ Tòa án đã thụ lý vụ án.

– Tên, địa chỉ của người khỏi kiện. Nếu người khởi kiện là cá nhân thì ghi họ tên, địa chỉ của người khởi kiện; nêu là cơ quan, tổ chức thì ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức khởi kiện theo đơn, địa chỉ được ghi trong đơn khởi kiện.

– Những vấn đề cụ thể mà người khỗi kiện yêu cầu giải quyết.

– Danh sách tài liệu, chứng cứ người khởi kiện nộp theo đơn khởi kiện.

– Trong thông báo phải ghi rõ trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được thông báo, người được thông báo phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo, nếu có.

Trong trường hợp cần gia hạn thì người được thông báo phải có đơn xin gia hạn gửi cho Tòa án nêu rõ lý do để Tòa án xem xét. Hết thời hạn này mà người được thông báo không có ý kiến gì đốỉ vổi các yêu cầu của người khởi kiện thì Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ tiến hành các bước tiếp theo để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Có một vấn đề đặt ra là Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành không quy định khi đương sự có đơn xin gia hạn thời hạn nộp văn bản ghi ý kiến của họ thì khi Tòa án chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn đề nghị gia hạn này, Tòa án có phải thông báo cho đương sự không và hình thức của thông báo (bằng văn bản hay bằng miệng…?). Trên thực tê trong quá trình thi hành Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành đã có ý kiến khác nhau, cách làm khác nhau.

Dù luật không quy định cụ thể vấn đề này, nhưng tại Điểu 8 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành có ghi rõ, Tòa án có trách nhiệm tạo điểu kiện để đương sự thực hiện các quyển và nghĩa vụ của mình. Việc xin gia hạn là một quyền của đương sự và theo nguyên tắc văn minh trong ứng xử thì công dân có yêu cầu, đề nghị thì cơ quan nhà nước nói chung và Tòa án nói riêng phải trả lời yêu cầu, đề nghị trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Do đó, Tòa án cần thông báo cho đương sự biết việc chấp nhận hay không chấp nhận đơn xin gia hạn. Nếu không chấp nhận phải ghi rõ lý do, nếu chấp nhận thì phải ghi rõ thời gian gia hạn, nhưng không quá mười lăm ngày. Do không có quy định về hình thức thông báo nên việc thông báo này có thể thực hiện bằng văn bản, hoặc thông báo trực tiếp cho đương sự. Nếu thông báo trực tiếp thì phải lập biên ban và trong biên bản ghi rõ thời gian gia hạn, ngược lại nếu không chấp nhận yêu cầu gia hạn thì biên bản phải ghi rõ lý do vì sao không chấp nhận và có chữ ký của Thẩm phán và đương sự trong biên bản.

Tuy nhiên, để thống nhất cao trong nhân thức và hành động, nên hướng dẫn trong Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán theo hướng việc thông báo phải bằng văn bản sẽ khoa học và hợp lý hơn.

Sau khi đương sự nhận được thông báo việc thụ lý vụ án, nếu đương sự có yêu cầu thì Tòa án phải cho họ xem, ghi chép, sao chụp đơn khỗi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khỏi kiện. Đây là quyền của đương sự, nhằm tạo thuận lợi cho họ chuẩn bị về tài liệu, chứng cứ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Nếu Thẩm phán gây khó dễ hoặc không chấp nhận yêu cầu này của đương sự là vi phạm quyền tố tụng của đương sự.