1. Kháng nghị là gì?

Kháng nghị là Hành vi tố tụng của người có thẩm quyền, thể hiện việc phản đối toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết định của Tòa án với mục đích bảo đảm cho việc xét xử được chính xác, công bằng, đồng thời sửa chữa những sai lầm trong bản án, quyết định của Tòa án.

Kháng nghị được đưa ra đối với những bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật hoặc đã có hiệu lực nhưng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử phát hiện thấy có sai lầm, vi phạm pháp luật hoặc phát hiện có tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản hay một phần quan trọng trong nội dung bản án, quyết định của Tòa án mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết định.

Kháng nghị là quyền và nghĩa vụ của một số chủ thể nhất định hoặc theo pháp luật tố tụng thì các chủ thể này có thẩm quyền ra quyết định khi có căn cứ nhất định.

Có ba hình thức kháng nghị: phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.

2. Khái niệm kháng cáo

Kháng cáo là một trong những hành vi tố tụng, chỉ được tiến hành sau khi đã có bản án, quyết định của Tòa án và không đồng ý với bản án, quyết định này thì sẽ làm đơn kháng cáo yêu cầu tòa án cấp trên tiến hành xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Kháng cáo có thể được thực hiện trong cả tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và tố tụng hành chính.

Đơn kháng cáo là văn bản, trong đó, người có quyền kháng cáo thể hiện sự không đồng tình của mình về các quyết định của Tòa án trong bản án hoặc quyết định sơ thẩm và đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại bản án hoặc quyết định đó.

3. Hậu quả của việc kháng cáo, kháng nghị

Theo quy định tại Điều 282 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành thì những phần của bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp pháp luật quy định cho thi hành ngay.

Đối với những bản án, quyết định hoặc những phần của bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Quy định của Điều 282 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành là vừa bảo đảm nguyên tắc hai cấp xét xử vừa bảo đảm tính có hiệu lực thi hành của những phần của bản án không bị kháng cáo, kháng nghị.

Trong thực tế có những phần của bảri án, quyết định độc lập vối nhau, nhưng cũng có những trường hợp giữa các phần của bản án, quyết định có môì liên hệ chặt chẽ với nhau, khi điều chỉnh phần này thì phần khác đã mất tính hợp lý, không bảo đảm sự công bằng về quyển và lợi ích của cấc bên. Do đó, chỉ những phần của bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thòi hạn kháng cáo, kháng nghị và được đưa ra thi hành khi có đầy đủ các điều kiện sau:

– Những phần đó độc lập với những phần của bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị.

Việc xét kháng cáo, kháng nghị đối với những phần của bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị không có liên quan đến những phần của bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị.

Ví dụ: Tại bản án sơ thẩm số 10/2012/HNGĐ-ST ngày 01-02-2012, Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh K đã quyết định cho anh A được ly hôn chị B; giao cho anh A nuôi dưỡng cháu X, chị B phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 300.000 đồng. Anh A có nghĩa vụ cấp dưỡng cho chị B 10.000.000 đồng; đồng thời chia tài sản chung vợ chồng, xác định một số tài sản mà chị B yêu cầu chia là tài sản riêng của anh A. Sau khi xét xử anh A không kháng cáo, chị B chỉ kháng cáo về giao nuôi con và Gấp dưỡng, Viện kiểm sát cũng có kháng nghị về phần cấp dưỡng.

Như vậy, phần ly hôn giữa anh A và chị B; phần tài sản không bị kháng câo, kháng nghị và độc lập với phần bản án sơ thẩm chị B kháng cáo và Viện kiểm sát kháng nghị (là phần giao nuôi con và cấp dưỡng). Việc xét kháng cáo, kháng nghị phần này của bản án sơ thẩm không liên quan đến những phần của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị. Do đó, phần quan hệ tình cảm và phần tài sản của bản án sơ thẩm nói trên có hiệu lực thi hành.

Khi bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị toàn bộ hay một phần, Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị, tài liệu, chứng cứ kèm theo cho Tòa án cấp phúc thẩm trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị, nếu người kháng cáo không phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm và trong vụ án không có người khác kháng cáo.

Nếu ngưòi kháng cáo phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm thì thời hạn năm ngày làm việc để Tòa án cấp sơ thẩm gửi hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị, tài liệu, chứng cứ kèm theo cho Tòa án cấp phúc thẩm được tính kể từ ngày người kháng cáo nộp cho Tòa án cấp sơ thẩm biên lai nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm.

Nếu có nhiều ngưồi kháng cáo và họ đều phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, thì thời hạn năm ngày làm việc để Tòa án cấp sơ thẩm gửi hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị, tài liệu, chứng cứ kèm theo cho Tòa án cấp phúc thẩm được tính kể từ ngày người nộp cuôì cùng cho Tòa án cấp sơ thẩm biên lai nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm.

4. Thông báo việc kháng cáo, kháng nghị và thời hạn gửi hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp phúc thẩm

Bản án, quyết định dân sự sơ thẩm khi bị kháng nghị sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các đương sự có liên quan, và để các dưỡng sự có thời gian chuẩn bị bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, Bộ luật tố tụng dân sự đã quy định: khi Tòa án cấp sơ thẩm xác định đơn kháng cáo là hợp lệ, thì Tòa án cấp sơ thẩm phải thông báo ngay bằng văn bản cho các đương sự có liên quân đến nội dung kháng cáo và Viện kiểm sát cùng cấp biết về việc kháng cáo.

Khi Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị, cơ quan Viện kiểm sát phải gửi ngay quyết định kháng nghị cho đương sự có liên quan đến kháng nghị.

Ngưòi được thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị có quyền gửi văn bản nêu ý kiến của mình về nội dung kháng cáo, kháng nghị cho Tòa án cấp phục thẩm, văn bản nêu ý kiến về nội dung kháng cáo, kháng nghị và các tài liệu do các bên gửi bổ sung đều phải đưa vào hồ sơ vụ án, để Tòa án cấp phúc thẩm xem xét khi xét xử phúc thẩm. Nếu người được thông báo gửi văn bản cho Tòa án cấp sơ thẩm, mà Tòa án cấp sơ thẩm đã gửi hồ sơ cho Tòa án cấp phúc thẩm, thì Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi ngay cho Tòa án cấp phúc thẩm những tài liệu đó.

5. Sự khác nhau giữa kháng nghị và kháng cáo

5.1. Khái niệm

– Kháng cáo được hiểu là thủ tục tố tụng nhằm biểu thị sự bất đồng đối với bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án đối với vụ án chưa có hiệu lực pháp luật.

– Kháng nghị:trường hợp hành vi, bản án, quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì Viện kiểm sát nhân dân phải kháng nghị. Cơ quan, người có thẩm quyền phải giải quyết kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của Pháp luật.

5.2. Hình thức

– Kháng cáo lên Tòa phúc thẩm

– Kháng nghị: 03 hình thức kháng nghị: Phúc thẩm, Giám đốc thẩm, Tái thẩm

5.3. Chủ thể

– Kháng cáo:

+ Bị cáo, bị hại, người đại diện của họ;

+ Người bào chữa của người dưới 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về tâm thần thể chất;

+ Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện của họ;

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án;

+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất;

+ Người được Tòa án tuyên không có tội.

– Kháng nghị:

+ Kháng nghị phúc thẩm: Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp.

+ Kháng nghị Giám đốc thẩm: Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Chánh án Tòa án quân sự Trung ương; Chánh án tòa án nhân dân cấp cao; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao.

+ Kháng nghị theo thủ tục tái thẩm: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao.

5.4. Thời hạn.

– Kháng cáo:

+ Kháng cáo bản án sơ thẩm: 15 ngày kể từ ngày tuyên án hoặc kể từ ngày họ nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết (đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa)

+ Kháng cáo quyết định sơ thẩm: 7 ngày kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định.

– Kháng nghị:

+ Phúc thẩm: Kháng nghị bản án sơ thẩm (15 ngày đối với Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án); Kháng nghị quyết định sơ thẩm: thẩm (7 ngày đối với Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án)

+ Giám đốc thẩm: Việc kháng nghị theo hướng không có lợi cho người bị kết án chỉ được tiến hành trong thời hạn 01 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; Việc kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị kết án có thể được tiến hành bất cứ lúc nào cả trong trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ; Việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự đối với đương sự được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

+ Tái thẩm: theo hướng không có lợi cho người bị kết án chỉ được thực hiện trong thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại điều 27 của Bộ luật Hình sự và thời hạn kháng nghị không được quá 01 năm kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được tin báo về tình tiết mới được phát hiện; theo hướng có lợi cho người bị kết án thì không hạn chế về thời gian và được thực hiện cả trong trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ; Việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự đối với đương sự được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.