1. Hình phạt là gì theo quy định của Bộ luật hình sự?
Hình phạt được quy định tại Điều 30. Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) như sau:
Điều 30. Khái niệm hình phạt
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó.
Theo quy định của điều luật trên, hình phạt có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất do nhà nước đặt ra, bởi vì hình phạt tước bỏ người bị kết án những quyền và lợi ích thiết thân của họ. Đó là những quyền như quyền chính trị, quyền kinh tế, quyền tự do, thậm chí cả quyền sống của người phạm tội.
Thứ hai, hình phạt được quy định cụ thể và chi tiết trong Bộ luật hình sự ở phần chung và các phần các tội phạm cụ thể. Hình phạt được quy định cụ thể trong luật, theo đó khi một người hoặc pháp nhân có hành vi vi phạm và chịu trách nhiệm hình sự thì các chủ thể không có quyền thỏa thuận các chế tài khác với quy định của luật điều luật đã định.
Thứ ba, Bản án của tòa án có thẩm quyền xác định hình phạt cụ thể đối với người phạm tội (cải tạo không giam giữ, tù chung thân, tử hình,…).
Thứ tư, hình phạt chỉ áp dụng đối với người có hành vi phạm tội. Để quyết định hình phạt đối với một người phải thông qua một quá trình tố tụng hình sự nghiêm ngặt, chỉ khi xác định được hành vi phạm tội của người đó tòa án có thẩm quyền với áp dụng hình phạt tương ứng. Các tội phạm đã được bộ luật hình sự quy định ở cả hai phần: phần chung và phần riêng.
Mục đích của hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
Hình phạt trong Bộ luật hình sự được quy định cho hai chủ thể là cá nhân và pháp nhân, theo đó mỗi một chủ thể sẽ có hình phạt chung và hình phạt riêng tùy vào người phạm tội, khi người phạm tội phạm tội gì thì sẽ tương ứng với tội quy định và loại, khung hình phạt đó.
2. Xác định trường hợp được miễn chấp hành hình phạt
Khách hàng: Thưa Luật sư, A phạm tội cướp giật tài sản bị phạt tù 2 năm. Nhưng trong khoảng thời gian ngồi tù, bố mẹ A bị tai nạn giao thông và đều chết hết. hiện tại, A còn một em trai nhỏ tuổi (6 tuổi) và ông nội 90 tuổi không có người thân chăm sóc và giúp đỡ. Vậy A phải làm như thế nào để được về chăm sóc em trai và ông của mình.
Cảm ơn!
Trả lời:
Thứ nhất, Theo 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội cướp giật tài sản như sau:
Điều 171. Tội cướp giật tài sản“1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm: (a) Có tổ chức; (b) Có tính chất chuyên nghiệp; (c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; (d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm; (đ) Hành hung để tẩu thoát; (e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%; (g) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ; (h) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; (i) Tái phạm nguy hiểm.3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: (a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; (b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; (c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: (a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên; (b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61 % trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên; (c) Làm chết người; (d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.“
Trường hợp A phạm tội thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng. (Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm).
Thứ hai, có căn cứ bố mẹ A bị tai nạn giao thông và đều chết hết. hiện tại, A còn một em trai nhỏ tuổi (6 tuổi) và ông nội 90 tuổi không có người thân chăm sóc và giúp đỡ. Theo khoản 2 điều 62 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định như sau:
Điều 62. Miễn chấp hành hình phạt
1. Người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt khi được đặc xá hoặc đại xá.
2. Người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn đến 03 năm chưa chấp hành hình phạt thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Sau khi bị kết án đã lập công;
b) Mắc bệnh hiểm nghèo;
c) Chấp hành tốt pháp luật, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
Vậy khi có chứng minh: hoàn cảnh gia đình A đặc biệt khó khăn, A đa chấp hành tốt pháp luật trong khi A chịu phạt tù và cơ quan có thẩm quyền xét thấy A không còn nguy hiểm cho xã hội nữa thì A sẽ được miễn chấp hành hình phạt và được về chăm lo cho em trai cũng như ông nội.
Trân trọng!
3. Quy định của pháp luật về giảm mức hình phạt đã tuyên
Giảm mức hình phạt đã tuyên (Giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù) là việc Tòa án quyết định cho người bị kết án đang chấp hành hình phạt được chấp hành hình phạt với mức ít hơn mức hình phạt của bản án đã tuyên, khi có đủ các điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật. Đây là chính sách vừa thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của Đảng, Nhà nước, vừa thể hiện tính nhân văn của pháp luật Việt Nam. Chính sách này chính là động lực khích lệ, động viên những người lầm lỡ tích cực học tập, rèn luyện, lao động, cải tạo để có điều kiện, cơ hội sớm hòa nhập cộng đồng, sống có ích cho gia đình và xã hội.
Theo Điều 63 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định như sau:
Điều 63. Giảm mức hình phạt đã tuyên
1. Người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định, có nhiều tiến bộ và đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt.
Thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là một phần ba thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù có thời hạn, 12 năm đối với tù chung thân.
2. Một người có thể được giảm nhiều lần, nhưng phải bảo đảm chấp hành được một phần hai mức hình phạt đã tuyên.
Người bị kết án tù chung thân, lần đầu được giảm xuống 30 năm tù và dù được giảm nhiều lần cũng phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 20 năm.
3. Trường hợp người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt tù chung thân thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu xuống 30 năm tù sau khi đã chấp hành được 15 năm tù và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành là 25 năm.
4. Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới ít nghiêm trọng do cố ý, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được một phần hai mức hình phạt chung.
5. Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được hai phần ba mức hình phạt chung hoặc trường hợp hình phạt chung là tù chung thân thì việc xét giảm án thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều này.
6. Đối với người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc người bị kết án tử hình thuộc trường hợp quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 3 Điều 40 của Bộ luật này thì thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 25 năm và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm.
Cùng với qui định tại Điều 62 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về miễn chấp hành hình phạt thì Điều 63 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) qui định về giảm mức hình phạt đã tuyên là một trong những chính sách khoan hồng của Nhà nước ta đối với tội phạm.
Hình phạt đã tuyên có thể được miễn hoặc giảm một phần dựa trên hoàn cảnh, thái độ, ý thức chấp hành của chính người phạm tội. Điều này không chỉ giúp người phạm tội ăn năn, hối cải, nhận thức được sai lầm của mình mà còn tạo động lực cho họ trong việc phấn đấu cải tạo tốt nhằm hưởng các chính sách khoan hồng của Nhà nước, sớm quay về với đời sống xã hội thường nhật, trở thành công dân tốt cho xã hội.
Theo khoản 1 quy định: “Người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định, có nhiều tiến bộ và đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt.
Thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là một phần ba thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù có thời hạn, 12 năm đối với tù chung thân.”
– Đối tượng áp dụng: Đối tượng áp dụng đó là áp đụng đối với loại tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và thậm chí là đặc biệt nghiêm trọng(biểu hiện ở tù chung thân).
Theo Điều 62 miễn chấo hành hình phạt chỉ áp dụng đối với tội ít nghiêm trọng lag chủ yếu nhưng đối tượng được giảm mức hình phạt rộng hơn, có thêr áp dụng với tội đặc biệt nghiêm trọng. Chúng ta có thể hiểu rằng miễn chấp hành hình phạt – điều đó ngay lập tức giải phóng người phạm tội khỏi chế tài tương ứng. Tuy nhiên chế định giảm hình phạt chỉ giúp người phạm tội giảm trách nhiệm phải gánh chịu chế tài bị áp dụng, với các loại tội như vậy nên không thể vào một thời điểm mà giải phóng họ khỏi trách nhiệm đối với hành vi phạm tội đã thực hiện. Xuất phát từ đặc điểm này mà đối tượng áp dụng đối với chế định giảm hình phạt đã tuyên được mở rộng hơn nhiều, cụ thể như: người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn, tù chung thân.
Theo khoản 2 điều luật, “một người có thể được giảm nhiều lần, nhưng phải bảo đảm chấp hành được một phần hai mức hình phạt đã tuyên.
Người bị kết án tù chung thân, lần đầu được giảm xuống 30 năm tù và dù được giảm nhiều lần cũng phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 20 năm.”
Theo bộ luật hình sự Việt Nam hiện nay không giới hạn số lần miễn hình phạt cho người phạm tội. Tuy nhiên bên cạnh việc thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với những ai thật sự ăn năn, hối cải, mong muốn có cơ hội sửa chữa sai lầm, thì việc đảm bảo tính nghiêm minh, đặt ra những giới hạn nhất định cũng là vấn đề rất đáng được lưu tâm. Một người đang chấp hành hình phạt, để có sơ sở xem xét giảm thì bắt buộc họ phải chấp hành được một phần ba thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, mười hai năm đối với tù chung thân. Và một người không bị giới hạn số lần được miễn hình phạt nhưng phải đảm bảo được thời hạn chấp hành hình phạt, cụ thể được một phần hai mức hình phạt đã tuyên, đối với tù chung thân thì thời hạn thực tế chấp hành là hai mươi năm.
Việc đưa ra các mức giới hạn như vậy là hoàn toàn hợp lý nhằm đảm bảo người phạm tội không thể lợi dụng, cấu kết với các bên liên quan nhằm né tránh các chế tài luật định.
Theo khoản 3: “Trường hợp người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt tù chung thân thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu xuống 30 năm tù sau khi đã chấp hành được 15 năm tù và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành là 25 năm.”
Đây là trường hợp giảm chấp hành hình phạt đối với tù chung thân trong Bộ luật hình sự. Theo đó, khi một người bị kết về nhiều tội mà trong số tội bị kết án có áp dụng hình phạt tù chung thân, nghĩa là hành vi phạm tội thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì thời hạn để xem xét giảm hoặc thời hạn chấp hành thực tế có điểm khác biệt so với trường hợp một người bị kết án một tội mà tội đó áp dụng hình phạt tù chung thân. Đó là thời hạn để xem xét giảm lần đầu là mười lăm năm, thời hạn chấp hành thực tế phải đạt hai mươi lăm năm.
Đối với khoản 4 quy định: Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới ít nghiêm trọng do cố ý, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được một phần hai mức hình phạt chung.
Khoản 5 điều luật quy định rằng: “Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được hai phần ba mức hình phạt chung hoặc trường hợp hình phạt chung là tù chung thân thì việc xét giảm án thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều này.”
Như vậy, ta có thể chia thành mấy trường hợp như sau:
– Phạm tội mới ít nghiêm trọng do cố ý: chỉ được xem xét giảm hình phạt lần đầu khi chấp hành được một phần hai thời hạn hình phạt chung.
– Phạm tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng: xem xét giảm hình phạt lần đầu khi chấp hành được hai phần ba hình phạt chung. Trường hợp hình phạt chung là tù chung thân thì sau khi chấp hành được mười lăm năm tù thì mới có cơ sở để giảm hình phạt.
Theo khoản 6 “Đối với người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc người bị kết án tử hình thuộc trường hợp quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 3 Điều 40 của Bộ luật này thì thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 25 năm và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm.”
Điều 40. Tử hình
…
3. Không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
…
b) Người đủ 75 tuổi trở lên;
c) Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn.
Việc giảm hình phạt tù chung thân lần đầu chỉ được thực hiện khi người bị kết án đã chấp hành được ít nhất hai mươi lăm năm tù. Số lần giảm hình phạt không bị giới hạn nhưng cho dù người bị kết án có được giảm bao nhiêu lần thì phải đảm bảo thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là ba mươi năm.
4. Tình huống thực tế về miễn trách nhiệm hình sự
Khách hàng: Thưa Luật sư trường hợp đặc xá có được miễn trách nhiệm hình sự không ?
Cảm ơn!
Trả lời:
Theo khoản 1 Điều 62 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định như sau:
“Điều 62. Miễn chấp hành hình phạt
1. Người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt khi được đặc xá hoặc đại xá.”
Theo Khoản 1 này khi một người được đặc xá hoặc đại xá sẽ được miễn chấp hành hình phạt. Đây là trường hợp được quy định đầu tiên nhưng cũng là trường hợp đặc biệt nhất trong số tát cả các trường hợp được liệt kê tại điều luật này. Điểm đặc biệt được biểu hiện dưới các khía cạnh sau đây:
– Người bị kết án đương nhiên được miễn chấp hành hình phạt: Nếu như các trường hợp được miễn chấp hành hình phạt còn lại phụ thuộc vào quyết định của Tòa án có thẩm quyền về việc có cho phép người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt hay không sau khi xem xét nhiều yếu tố tương ứng thì đối với trường hợp này khi có quyết định đặc xá hay đại xá thì ngay lập tức người bị kết án được hưởng quyền miễn chấp hành hình phạt liền mà không phụ thuộc thêm vào bất kỳ điều kiện hay sự xem xét của Cơ quan nào khác.
– Cơ quan quyết định: Chủ tịch nước (đặc xá), Quốc hội (đại xá).
– Hình phạt được áp dụng: Nếu như các trường hợp khác việc áp dụng qui định miễn chấp hành hình phạt đa số chỉ được áp dụng cho những loại hình phạt mà hành vi của nó không gây nguy hiểm cao cho xã hôi hay nói cách khác phạm tội ít nghiêm trọng như: cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn đến 3 năm, bị phạt tiền, quản chế, cấm cư trú thì trường hợp này người bị kết án có thể phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và thậm chí đặc biệt nghiêm trọng.
Vậy khi một người được đặc xá sẽ được miễn chấp hành hình phạt theo quy định của Bộ luật này và văn bản pháp luật khác có liên quan.
Trân trọng!
5. Thực tiễn về miễn chấp hành hình phạt
Kính thưa Luật sư của LVN Group, khi nào thì một người được miễn chấp hành hình phạt ạ?
Trả lời:
Theo Điều 62 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định như sau:
“Điều 62. Miễn chấp hành hình phạt
1. Người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt khi được đặc xá hoặc đại xá.
2. Người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn đến 03 năm chưa chấp hành hình phạt thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Sau khi bị kết án đã lập công;
b) Mắc bệnh hiểm nghèo;
c) Chấp hành tốt pháp luật, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
3. Người bị kết án phạt tù có thời hạn trên 03 năm, chưa chấp hành hình phạt nêu đã lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt.
4. Người bị kết án phạt tù đến 03 năm, đã được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, nêu trong thời gian được tạm đình chỉ mà đã lập công hoặc chấp hành tốt pháp luật, hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.
5. Người bị kết án phạt tiền đã tích cực chấp hành được một phần hình phạt nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể tiếp tục chấp hành được phần hình phạt còn lại hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần tiền phạt còn lại.
6. Người bị phạt cấm cư trú hoặc quản chế, nếu đã chấp hành được một phần hai thời hạn hình phạt và cải tạo tốt, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện nơi người đó chấp hành hình phạt, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.
7. Người được miễn chấp hành hình phạt theo quy định tại Điều này vẫn phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ dân sự do Tòa án tuyên trong bản án.“
Theo Khoản 1: Khi được đặc xá hoặc đại xá
Đây là trường hợp đầu tiên nhưng cũng là trường hợp đặc biệt nhất trong số các trường hợp được liệt kê tại điều luật này. Điểm đặc biệt được biểu hiện dưới các khía cạnh sau đây:
– Người bị kết án đương nhiên được miễn chấp hành hình phạt: Nếu như các trường hợp được miễn chấp hành hình phạt còn lại phụ thuộc vào quyết định của Tòa án có thẩm quyền về việc có cho phép người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt hay không sau khi xem xét nhiều yếu tố tương ứng thì đối với trường hợp này khi có quyết định đặc xá hay đại xá thì ngay lập tức người bị kết án được hưởng quyền miễn chấp hành hình phạt liền mà không phụ thuộc thêm vào bất kỳ điều kiện hay sự xem xét của Cơ quan nào khác.
– Cơ quan quyết định: Chủ tịch nước (đặc xá), Quốc hội (đại xá).
– Hình phạt được áp dụng: Nếu như các trường hợp khác việc áp dụng qui định miễn chấp hành hình phạt đa số chỉ được áp dụng cho những loại hình phạt mà hành vi của nó không gây nguy hiểm cao cho xã hôi hay nói cách khác phạm tội ít nghiêm trọng như: cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn đến 3 năm, bị phạt tiền, quản chế, cấm cư trú thì trường hợp này người bị kết án có thể phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và thậm chí đặc biệt nghiêm trọng.
Khoản 2, Điều 62 bộ luật. Người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn đến 03 năm chưa chấp hành hình phạt thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Sau khi bị kết án đã lập công;
b) Mắc bệnh hiểm nghèo;
c) Chấp hành tốt pháp luật, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
– Về đối tượng được áp dụng: Chỉ áp dụng đối với người bị kết án cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn đến 03 năm chưa chấp hành hình phạt.
– Cơ quan quyết định: Tòa án quyết định trên cơ sở đề nghị của Viện trưởng viện kiểm sát.
– Điều kiện để xem xét áp dụng:
+ Sau khi bị kết án đã lập công
+ Người bị kết án mắc bệnh hiểm nghèo: Ví dụ như ung thư, bệnh tim, bại liệt, HIV giai đoạn cuối ….
+ Chấp hành tốt pháp luật, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội.
Nếu người bị kết án đáp ứng được một trong các điều kiện nêu trên thì được Tòa án xem xét áp dụng cho miễn chấp hành hình phạt. Và cũng khẳng định vì đây không phải là trường hợp đương nhiên được miễn nên việc có được miễn hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào quyết định của Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, mà cụ thể là Tòa án.
Khoản 3 Điều 62 Người bị kết án phạt tù có thời hạn trên 03 năm, chưa chấp hành hình phạt nêu đã lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt.
Tương tự như trường hợp tại khoản 2 điều này thì việc xem xét cũng được dựa trên các yếu tố như người bị kết án lập công lớn, mắc bệnh hiểm nghèo, không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Tuy nhiên đối tượng áp dụng chỉ thực hiện đối với người bị kết án có thời hạn trên 03 năm, chưa chấp hành hình phạt. Đồng thời nếu theo qui định tại khoản 2 Điều này, việc miễn chấp hành hình phạt có thể được xem xét áp dụng khi người bị kết án đạt được một trong các điều kiện được nêu nhưng đến đây việc xem xét không đơn thuần dừng lại ở từng điều kiện riêng lẻ mà phải đảm bảo được điều kiện cần và điều kiện đủ. Điều kiện cần là người bị kết án phải đảm bảo được một trong hai điều kiện: Thứ nhất – lập công lớn, thứ hai – mắc bệnh hiểm nghèo, điều kiện đủ là người bị kết án không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Việc xem xét một người mắc bệnh hiểm nghèo có còn nguy hiểm cho xã hội nữa hay không có thể được xác định một cách nhanh chóng, ví dụ: một người bị kết án 10 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy mắc bệnh bại liệt nằm một chỗ, không thể di chuyển, mọi hoạt động thường nhật phụ thuộc vào người thân thì không có lý do gì để cho rằng người này còn nguy hiểm cho xã hội hoặc người này bị bệnh ung thư giai đoạn cuối sức khỏe yếu cũng là cơ sở xác định tính nguy hiểm cho xã hội của họ không còn nữa. Xét đến vấn đề đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội còn hay không khi người bị kết án lập công lớn là một việc khó xác định và không mang tính tuyệt đối mà chủ yếu phụ thuộc vào yếu tố niềm tin cộng chính sách nhân đạo để hướng người phạm tội đến một cuộc sống có ích cho xã hội, một công dân gương mẫu.
Theo Điều 4 điều luật quy định: Người bị kết án phạt tù đến 03 năm, đã được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, nêu trong thời gian được tạm đình chỉ mà đã lập công hoặc chấp hành tốt pháp luật, hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.
Khoản 5 Điều 62 Bộ luật quy định về: Người bị kết án phạt tiền đã tích cực chấp hành được một phần hình phạt nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể tiếp tục chấp hành được phần hình phạt còn lại hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần tiền phạt còn lại.
Đây là trường hợp được miễn chấp hành hình phạt hoàn toàn mới so với các qui định trước đây. Căn cứ theo qui định tại Điều 32 Bộ luật này về các hình phạt áp dụng đối với người phạm tội thì phạt tiền vừa có thể được áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung. Như vậy, một vấn đề được đặt ra là việc miễn chấp hành hình phạt được áp dụng khi hình phạt tiền là hình phạt chính hay bổ sung hoặc cả hai trường hợp đều có thể được áp dụng nếu như người bị kết án đáp ứng được các điều kiện luật định? Về vấn đề này sẽ được tác giả bình luận chi tiết trong phần kế tiếp và bây giờ chúng ta hãy cũng tìm hiểu các điều kiện nào để người bị kết án có thể được xem xét áp dụng qui định miễn chấp hành hình phạt.
6.Người bị phạt cấm cư trú hoặc quản chế, nếu đã chấp hành được một phần hai thời hạn hình phạt và cải tạo tốt, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện nơi người đó chấp hành hình phạt, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.
Đây là trường hợp miễn chấp hành hình phạt đối với các hình phạt bổ sung, mà cụ thể là hình phạt cấm cư trú và quản chế. Thời hạn hình phạt cấm cư trú hoặc quản chế được nêu tại bản án mà người bị kết án chỉ khi nào chấp hành được một phần hai thời hạn đó, đồng thời cải tạo tốt thì mới được xem xét miễn chấp hành phần hình phạt còn lại. Đây là hai điều kiện bổ trợ cho nhau, mà chỉ khi nào đạt được đồng thời hai điều kiện này thì người bị kết án mới được Tòa án có thẩm quyền xem xét sau khi có đề nghị của Cơ quan thi hành án hình sự.
Theo khoản 7 điều luật quy định: Người được miễn chấp hành hình phạt theo quy định tại Điều này vẫn phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ dân sự do Tòa án tuyên trong bản án.
Việc miễn chấp hành hình phạt không đồng nghĩa với việc miễn cả trách nhiệm dân sự nếu có được nêu trong bản án này hoặc bằng một bản án khác nếu vụ việc dân sự được tách thành một vụ án riêng biệt. Việc chấp hành các hình phạt được nêu tại Bộ luật hình sự là thể hiện chế tài của Nhà nước đối với người phạm tội nên Nhà nước có toàn quyền trong việc ban hành các chính sách, qui định nhằm hướng đến việc miễn, giảm trách nhiệm hình sự, trách nhiệm chấp hành hình phạt của người phạm tội hay nói cách khác là thực hiện các chính sách nhân đạo đối với tội phạm. Đó là xét đến trách nhiệm hình sự – một trách nhiệm mà người phạm tôi chỉ thực hiện với Nhà nước, còn trách nhiệm dân sự – một trách nhiệm chỉ được thực hiện bởi và giữa các cá nhân, cơ quan, tổ chức với nhau nên một bên có nghĩa vụ chỉ được giảm, miễn khi và chỉ khi có sự chấp thuận của bên có quyền và Nhà nước không can thiệp vào các mối quan hệ này.
Trân trọng!