Phần thứ nhất: KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

 

I. Khái niệm, bản chất văn bản quy phạm pháp luật  

 

1. Khái niệm, các dấu hiệu đặc trưng của văn bản quy phạm pháp luật

Điều 1 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 định nghĩa về văn bản quy phạm pháp luật như sau:

Văn bản quy phạm pháp luật là hình thức thể hiện của các quyết định pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự và dưới hình thức nhất định, có chứa đựng các quy tắc xử sự chung nhằm điều chỉnh một loại quan hệ xã hội nhất định, đước áp dụng nhiều lần trong thực tiễn đời sống và việc thực hiện văn bản đó không làm chấm dứt hiệu lực của nó.

Văn bản quy phạm pháp luật là loại nguồn trực tiếp của pháp luật, do đó nó có ý nghĩa rất lớn trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội tạo lập một trật tự pháp luật vì sự phát triển lành mạnh của cả xã hội và của từng cá nhân. Yêu cầu đặt ra là phải xây dựng được những văn bản quy phạm pháp luật có chất lượng, phù hợp với các đòi hỏi của cuộc sống.

Theo khái niệm trên đây, văn bản quy phạm pháp luật phải đáp ứng đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng sau:

– Là văn bản do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành.

Không phải tất cả những văn bản do Nhà nước ban hành là văn bản quy phạm pháp luật. Ví dụ những lời tuyên bố, những lời hiệu triệu nhằm giải thích chính sách đối nội, đối ngoại của Nhà nước, tuy mang ý nghĩa pháp lý, nhưng không phải là những văn bản quy phạm pháp luật.

– Là văn bản có chứa đựng các quy tắc xử sự chung mang tính bắt buộc.

– Là văn bản được áp dụng nhiều lần trong đời sống xã hội đối với những trường hợp khi có những sự kiện pháp lý xảy ra. Sự thực hiện văn bản không làm chấm dứt hiệu lực của nó.

Phân biệt văn bản quy phạm pháp luật với văn bản pháp luật không có tính quy phạm. Khi giải quyết các vụ việc cụ thể, trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành những văn bản áp dụng pháp luật, làm xuất hiện ở những công dân, tổ chức, những quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể. Ví dụ quyết định đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, quyết định của toà án….Những văn bản này gọi là văn bản cá biệt vì chúng chỉ được áp dụng một lần và chỉ trong quan hệ đối với cá nhân, tổ chức cụ thể được ghi đích danh trong văn bản.

– Tên gọi, nội dung, trình tự ban hành được quy định cụ thể trong luật.

Như vậy, khi đánh giá một văn bản có phải là văn bản quy phạm pháp luật hay không cũng như xem xét một văn bản có chứa ”quy phạm pháp luật” hay không cần đặc biệt chú ý đến các dấu hiệu đặc trưng của quy phạm pháp luật, gồm: tính áp dụng chung (quy tắc ràng buộc chung và được tôn trọng chung), tính phi cá nhân (không nhằm vào một đối tượng, một con người nào cụ thể hay một nhóm đối tượng cụ thể), tính bắt buộc – tính cưỡng chếnhà nước (đối tượng bắt buộc phải thực hiện, không thể thoái thác) và phải được cơ quan có thẩm quyền ban hành (chủ thể được pháp luật trao thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật).

Bên cạnh đó, nhằm hạn chế tình trạng nhiều trường hợp mặc dù không phải là văn bản quy phạm pháp luật và cũng không được ban hành theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhưng lại chứa đựng những quy tắc xử sự chung, bắt buộc mọi người phải thực hiện (như công văn, công điện… do một số cơ quan ban hành) và trường hợp mặc dù luật, pháp lệnh quy định giao cho một cơ quan cụ thể ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành, nhưng cơ quan đó lại ủy quyền cho cơ quan cấp dưới ban hành văn bản, Luật quy định văn bản ban hành không theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục do Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật hoặc Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân quy định thì không được coi là văn bản quy phạm pháp luật (khoản 2 Điều 1); cơ quan được giao ban hành văn bản quy định chi tiết không được uỷ quyền tiếp (khoản 2 Điều 8).

 

2. Khái niệm, các dấu hiệu đặc trưng của văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ban hành

Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân định nghĩa về văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân tại khoản 1 Điều 1 như sau:

“Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân là văn bản do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ban hành theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục do Luật này quy định, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực trong phạm vi địa phương, được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội ở địa phương theo định hướng xã hội chủ nghĩa.”

Định nghĩa về văn bản quy phạm pháp của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân đã thể hiện đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng của văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương. Theo định nghĩa trên, văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, về nguyên tắc, hoàn toàn là một văn bản quy phạm pháp luật theo định nghĩa của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và điều này đã được chính Luật năm 2008 khẳng định tại Điều 1; văn bản quy phạm pháp luật do địa phương ban hành cũng phải nằm trong tổng thể hệ thống pháp luật quốc gia và phải có đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng sau:

– Là văn bản do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ban hành theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục do Luật năm 2004 quy định.

– Có quy tắc xử sự chung.

– Có hiệu lực trong phạm vi địa phương.

– Được Nhà nước bảo đảm thực hiệnnhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội ở địa phương theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân có những đặc điểm chung của văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của Luật năm 2008, chỉ khác về chủ thể có thẩm quyền ban hành là Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp và phạm vi áp dụng văn bản là tại địa phương.

 

II. Vị trí, vai trò văn bản quy phạm pháp luật đối với quản lý nhà nước, quản lý xã hội

Nhà nước, trong mọi trường hợp đều mong muốn tạo ra các thay đổi và phát triển bằng việc thiết lập môi trường lành mạnh, trong đó, con người có thể ứng xử theo cách làm tăng sự chuyên môn hóa, sự trao đổi, tăng năng suất lao động và dẫn đến tăng phúc lợi xã hội. Tuy nhiên, làm thế nào để tạo dựng được môi trường mà ở đó có những hành vi xử sự như nhà quản lý mong muốn? Việc thay đổi thể chế và quá trình xây dựng thể chế có tác động đến sự phát triển của một đất nước, hay của một địa phương như tỉnh, huyện, xã hay không?

Cũng như nhiều nước đang phát triển, Việt Nam hiện đang phải đương đầu với những vấn đề như: người nông dân sản xuất lương thực không đủ ăn; nạn phá rừng triền miên; du canh du cư tái diễn; các chất hoá học độc hại trong các thực phẩm hàng ngày khiến mọi người mắc bệnh ung thư và nhiều loại bệnh hiểm nghèo; việc khai thác rừng bừa bãi làm cho đất đai bị xói mòn dẫn đến lũ lụt triền miên và những cánh rừng bị biến mất hoặc xuống cấp nghiêm trọng; không khí, nguồn nước bị ô nhiễm; môi trường sống bị de đọa nghiêm trọng; vấn đề giáo dục, y tế, quyền lợi đối với các dân tộc thiểu số chưa được bảo đảm… Đó là những vấn đề đáng báo động mà việc giải quyết chúng không chỉ thuộc trách nhiệm của chính quyền trung ương mà còn thuộc trách nhiệm của chính quyền địa phương.

Chúng ta cũng biết rằng khi thể chế không tốt, không hiệu quả sẽ kéo theo hệ quả là kinh tế kém phát triển, trật tự, an ninh xã hội khó bảo đảm. Trước tình trạng người dân phải sống trong nghèo đói, bệnh tật với nhiều mối hiểm họa đe dọa, đời sống bấp bênh, phúc lợi xã hội kém… những điều này không thể không liên quan đến trách nhiệm của người quản lý. Nếu Nhà nước không tìm ra được các biện pháp làm thay đổi và củng cố đời sống nhân dân thì đồng nghĩa với việc chính quyền đã quản lý kém.

Đối với các cơ quan trung ương, việc thiết lập môi trường lành mạnh để quản lý và phát triển đã khó nhưng với địa phương, việc xây dựng thể chế để quản lý và phát triển còn khó khăn hơn nhiều. Hiện nay, ở Việt Nam, nhiều địa phương đã cố gắng tự tìm cho mình “lối thoát” bằng cách kêu gọi các dự án đầu tư, thay đổi các biện pháp quản lý, điều đó cũng có nghĩa là thay đổi tư duy, phong cách làm việc của các cán bộ thực thi pháp luật. Chính quyền trung ương cũng đang có những cải cách mạnh mẽ nhằm phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa phương các cấp để mỗi địa phương có thể phát huy quyền chủ động, sáng tạo của mình theo hướng “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”.

Trong bối cảnh ấy, Nhà nước có thể sử dụng pháp luật như thế nào để quản lý và quản lý tốt? Quản lý tốt có nghĩa là xã hội phải phát triển. Do đó, pháp luật hay văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước không đơn giản chỉ dừng ở việc điều chỉnh các quan hệ xã hội theo nghĩa “bảo đảm trật tự an ninh xã hội” mà ở tầm vĩ mô, pháp luật còn phải phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội. Với tư cách là công cụ chính, quan trọng của các cơ quan quản lý nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội, văn bản quy phạm pháp luật có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội. Điều 12 Hiến pháp Việt Nam ghi nhận: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Như vậy, văn bản quy phạm pháp luật có vai trò vô cùng to lớn trong việc quản lý xã hội, ở các góc độ sau đây:

Thứ nhất, văn bản quy phạm pháp luật có thể điều tiết những vấn đề thực tiễn. Xã hội ngày càng phát triển đa dạng, đa chiều với những mối quan hệ phức tạp, nhiều vấn đề liên quan trực tiếp đến sự ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đang đặt ra cho Nhà nước những vấn đề thực tiễn cần phải giải quyết trong quá trình quản lý, điều hành.

Thứ hai, văn bản quy phạm pháp luật thể chế hóa và bảo đảm thực hiện các chính sách. Pháp luật là biểu hiện hoạt động của các chính sách[1]. Pháp luật được ban hành có thể đưa ra các biện pháp gián tiếp, thông qua việc tạo ra hành lang pháp lý mà trong phạm vi đó, từng cá nhân đóng vai trò là động lực. Luật pháp có thể đem lại công bằng xã hội, giảm đói nghèo, tạo ra động lực cho xã hội phát triển.Tuy nhiên, cần lưu ý làphát triển thôi chưa đủ mà còn cần phải phát triển bền vững. Yêu cầu phát triển bền vững đặt ra cho các cơ quan ban hành văn bản của địa phương phải có các biện pháp quản lý bảo đảm cho sự phát triển bền vững. Điều đó có nghĩa là sẽ không chỉ khai thác cạn kiệt các nguồn lực mà không tính các hệ quả tiếp theo và môi trường sau này. Phát triển bền vững đòi hỏi khi đưa ra các biện pháp quản lý, nhà quản lý phải tính đến việc bảo vệ môi trường. Thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, địa phương đưa ra các biện pháp để quản lý tốt các trường học, bệnh viện, xây dựng và quản lý tốt hệ thống nước sạch, đường giao thông… Bằng các văn bản quy phạm pháp luật, chính quyền địa phương đưa ra các biện pháp thu hút đầu tư, khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp, các cơ chế thực thi hiệu quả.

Thứ ba, văn bản quy phạm pháp luật có thể tạo ra/phân bổ/phát huy các nguồn lực nhằm phát triển kinh tế. Pháp luật có thể tạo điều kiện để tăng việc làm và tăng thu nhập.Pháp luật tạo điều kiện cho các chủ sở hữu tiếp cận với các công nghệ thông tin và thị trường, với các kỹ năng về tín dụng và quản lý, qua đó giúp họ tăng năng suất lao động và tăng thu nhập. Trong trường hợp pháp luật thiếu hiệu quả dẫn đến việc đất nước hay từng vùng địa phương nghèo đói và kém phát triển, người ta gọi đó là “thể chế có vấn đề”[2]. Đặc điểm ở các vùng nông thôn là người dân có mức vốn thấp, hoạt động dựa vào các công nghệ có chi phí thấp và có sẵn ở địa phương (sản xuất có thể gọi là manh mún, tiểu thủ công, phần nhiều là lao động tay chân), sử dụng các công cụ làm bằng tay nhiều hơn là sử dụng máy móc hay thiết bị hiện đại (do thiếu vốn hoặc điều kiện tiếp cận thông tin hạn chế); hơn nữa, nông thôn còn có nhiều người thất nghiệp. Các nhà soạn thảo cần phải chú ý đưa ra các biện pháp pháp lý để mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa, thị trường lao động… đồng thời phát huy được các nguồn lực.

Thứ tư, văn bản quy phạm pháp luật góp phần làm ổn định trật tự xã hội, tạo cơ hội quản lý tốt và phát triển. Cần phân biệt quy phạm pháp luật với các quy phạm xã hội khác. Trong khi các quy phạm mang tính xã hội, dù được xã hội thừa nhận, nhưng vẫn không được bảo đảm bằng các biện pháp cưỡng chế của nhà nước, thì trái lại, quy phạm pháp luật luôn luôn được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.

Thứ năm, văn bản quy phạm pháp luật làm thay đổi các hành vi xử sự không mong muốn và thiết lập các hành vi xử sự phù hợp. Muốn tạo điều kiện cho phát triển, chúng ta cần phải sử dụng pháp luật để làm thay đổi hành vi xử sự của phần lớn nhân dân, đặc biệt là của các cán bộ nhà nước. Các cán bộ nhà nước là những người đầu tiên có trách nhiệm bảo đảm một xã hội công bằng, văn minh, dân chủ và thay mặt cho những người mà họ đại diện, đó là nhân dân. Các cán bộ địa phương một mặt thực hiện các nhiệm vụ mà pháp luật quy định nhưng mặt khác, đây cũng là sự phó thác của nhân dân đối với đại diện trực tiếp (Hội đồng nhân dân) hay gián tiếp (Uỷ ban nhân dân) của mình trong bộ máy chính quyền[3]. Nếu như những người đại diện cho dân chúng không bảo đảm cho những người mà họ đại diện có cuộc sống ấm no, an bình nghĩa là họ thực hiện trách nhiệm chưa đầy đủ. Để tránh việc văn bản pháp luật trao cho các cán bộ thực thi pháp luật quyền tự định đoạt quá lớn, bên cạnh các cơ quan dân cử, vẫn cần phải có sự tham gia trực tiếp của người dân vào quá trình ra quyết định của các cơ quan nhà nước. Để tránh sự lộng quyền của cán bộ thực thi pháp luật, chỉ có sự quy định chặt chẽ của văn bản pháp luật mới bảo đảm trách nhiệm của những cơ quan thực thi pháp luật, cán bộ thực thi pháp luật, từ đó bảo đảm lợi ích của người dân. ”Thiếu sự quản lý bằng pháp luật, cơ chế trách nhiệm, tính minh bạch và sự tham gia của người dân, các quyết định sẽ trở nên tùy tiện, cán bộ chính quyền sẽ sử dụng quyền lực nhà nước không phải vì lợi ích của đa số nhân dân mà là cho riêng họ”[4].

Quy định của pháp luật sẽ định hướng cho hành vi xử sự của các cá nhân có liên quan, dù đó là người dân cũng như cơ quan thực thi pháp luật. Ví dụ: Để bảo đảm an toàn giao thông trên đường bộ, Điều 42 Luật giao thông đường bộ năm 2001 quy định về trách nhiệm của đơn vị thi công công trình trên đường bộ đang khai thác: “Trong quá trình thi công, đơn vị thi công phải bố trí báo hiệu, rào chắn tạm thời và thực hiện các biện pháp bảo đảm giao thông an toàn, thông suốt”.

Tóm lại, văn bản quy phạm pháp luật có vai trò vô cùng quan trọng: không chỉ quy định các giá trị mà người quản lý coi đó là giá trị cơ bản của xã hội, không chỉ đưa ra các biện pháp khuyến khích thực thi pháp luật, đem lại ổn định trật tự xã hội mà còn bảo đảm cho xã hội phát triển. Chính trong ý nghĩa này mà người soạn thảo và cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương cần chú ý đến vai trò quan trọng của văn bản quy phạm pháp luật trong quản lý và phát triển. Ngày nay, người ta không nhấn mạnh đến yếu tố “cai trị” của nhà nước mà nhấn mạnh đến trách nhiệm của nhà nước đối với công dân, trách nhiệm duy trì và bảo đảm cuộc sống tốt đẹp cho từng người dân, bảo đảm các quyền và tự do cơ bản cho họ trong một xã hội công bằng, văn minh, dân chủ. Từ trách nhiệm chung của nhà nước, của quốc gia, mỗi cấp chính quyền địa phương có thể thấy được trọng trách của mình. Công cụ để các cấp chính quyền địa phương thực hiện quản lý và bảo đảm phát triển chính là pháp luật.

 

III. Phân biệt văn bản quy phạm pháp luật với các loại văn bản khác

Văn bản nói chung là hình thức, công cụ hữu hiệu để ghi lại, truyền đạt và xử lý các thông tin, đặc biệt là để truyền đạt các quyết định quản lý. Văn bản cũng là phương tiện quan trọng của hoạt động quản lý và lãnh đạo. Đối với các cơ quan nhà nước, văn bản là hình thức chủ yếu nhiệm vụ cụ thể hoá luật pháp; đối với các cơ quan Đảng, tổ chức xã hội, văn bản có vai trò như công cụ tổ chức, vận động quần chúng thực hiện chủ trương, chính sách và mục tiêu chung của tổ chức đó.

Văn bản quản lý nhà nước là những quyết định quản lý thành văn do các cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quản lý hành chính có thẩm quyền ban hành, mang tính quyền lực nhà nước và làm phát sinh các hệ quả pháp lý cụ thể. Văn bản quản lý nhà nước không chỉ phản ánh các thông tin quản lý mà còn thể hiện ý chí, mệnh lệnh của các cơ quan nhà nước, là những căn cứ pháp lý để các khách thể thực hiện quyết định của các chủ thể quản lý nhà nước.

Các văn bản quản lý nhà nước nhằm phục vụ cho việc điều hành bộ máy quản lý nhà nước có thể hoạt động đúng hướng, đúng chức năng và có hiệu quả. Việc phân loại văn bản quản lý nhà nước, thông thường được xác định như sau: văn bản quy phạm pháp luật, văn bản cá biệt, văn bản hành chính thông thường, văn bản chuyên môn và văn bản kỹ thuật.

Tiêu chí phân loại các văn bản quản lý nhà nước dựa trên tính chất, đặc điểm của từng loại văn bản, mục đích ban hành văn bản cũng như khái niệm văn bản. Ví dụ: đối với văn bản quy phạm pháp luật, đặc tính của văn bản cần chú ý là có chứa đựng quy tắc xử sự chung, có tính bắt buộc chung, đối tượng áp dụng không phải là một đối tượng hay nhóm đối tượng cụ thể, được ban hành bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền; việc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ văn bản được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định.

Văn bản cá biệt là văn bản áp dụng văn bản quy phạm pháp luật để giải quyết những vấn đề riêng lẻ, có đối tượng tác động là cá nhân (kể cả một nhóm đối tượng cụ thể, xác định). Ví dụ: quyết định bổ nhiệm hoặc nâng lương đối với công chức Nguyễn Văn A.

Văn bản hành chính thông thường là những văn bản mang tính thông tin điều hành nhằm triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật hoặc dùng để giải quyết các tác nghiệp cụ thể, phản ánh tình hình, giao dịch, trao đổi, ghi chép công việc… của các cơ quan hành chính nhà nước[5]. Văn bản hành chính thông thường có các hình thức cũng như nội dung phong phú, đa dạng, có thể liệt kê một số loại chủ yếu như: công văn hành chính (là công cụ giao dịch chính thức giữa các cơ quan: mời họp, đề xuất hoặc trả lời các yêu cầu, câu hỏi, chất vấn, hoặc kiến nghị … hoặc dùng để đôn đốc, nhắc nhở cấp dưới triển khai thi hành công việc theo kế hoạch hay theo thẩm quyền pháp luật quy định…); thông cáo, thông báo, điện báo, biên bản, giấy đi đường, giấy giới thiệu...

Văn bản chuyên môn: là các loại giấy tờ mang tính đặc thù của nghiệp vụ chuyên môn thuộc các lĩnh vực nhất định, ví dụ: lĩnh vực kế hoạch, thống kê, tài chính, ngân hàng, y tế,…

Văn bản kỹ thuật: Là các loại giấy tờ được sử dụng trong các ngành, lĩnh vực có tính kỹ thuật như kiến trúc, xây dựng, công nghệ… Ví dụ: bản vẽ thiết kế, luận chứng kinh tế – kỹ thuật…

Việc phân loại văn bản giúp các cơ quan xây dựng, sử dụng, ban hành văn bản đúng hình thức, mục đích, đối tượng, đúng thẩm quyền và đúng thể thức, qua đó, bảo đảm tính pháp lý của văn bản. Ngoài ra, phân loại chính xác văn bản có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động quản lý, điều hành nhằm giải quyết từng vấn đề cụ thể. Văn bản quản lý nhà nước là phương tiện để xác định và vận dụng các chuẩn mực pháp lý vào quá trình quản lý nhà nước. Việc phân loại đúng đắn các văn bản quản lý nhà nước sẽ phản ánh đúng đặc điểm của quá trình quản lý nhà nước và tạo ra các mối quan hệ pháp lý hài hoà trong hoạt động của các cơ quan, đồng thời bảo đảm tính thống nhất trong hoạt động quản lý cũng như tính hợp pháp của các quyết định.

Từ những phân tích trên, có thể liệt kê một số văn bản không phải là văn bản quy phạm pháp luật mà trên thực tế chúng ta có thể khó khăn khi nhận dạng:

– Các văn bản do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành, nhưng không có đầy đủ các yếu tố của văn bản quy phạm pháp luật như: nghị quyết của Quốc hội về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và nghị quyết về điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; nghị quyết của Chính phủ về chương trình xây dựng nghị quyết, nghị định; nghị quyết về điều chỉnh chương trình xây dựng nghị quyết, nghị định của Chính phủ; nghị định của Chính phủ phê chuẩn đơn vị bầu cử và số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; nghị quyết của Quốc hội về miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc phê duyệt kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội và các chức vụ khác; quyết định phê duyệt đề án khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính của cơ quan, đơn vị; quyết định về thành lập cơ quan, đơn vị; quyết định giao chỉ tiêu kinh tế – xã hội cho cơ quan, đơn vị; quyết định thành lập các Ban Chỉ đạo, Hội đồng, ủy ban lâm thời để thực hiện nhiệm vụ trong một thời gian xác định; lệnh công bố luật, pháp lệnh của Chủ tịch nước; quyết định phê duyệt điều lệ của hội, tổ chức phi Chính phủ; quyết định lên lương, khen thưởng, kỷ luật, điều động công tác; quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, cho từ chức, tạm đình chỉ công tác cán bộ, công chức; quyết định phê chuẩn kết quả bầu cử các thành viên Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; quyết định xử lý vi phạm hành chính; văn bản quy phạm nội bộ của cơ quan, đơn vị; văn bản cá biệt để phát động phong trào thi đua, biểu dương người tốt, việc tốt; văn bản cá biệt có tính chất chỉ đạo, điều hành hành chính hoặc để hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ và các văn bản cá biệt khác để giải quyết vụ việc cụ thể đối với đối tượng cụ thể thì không phải là văn bản quy phạm pháp luật.

– Các văn bản do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ban hành, nhưng không có đầy đủ các yếu tố của văn bản quy phạm pháp luật như: nghị quyết về miễn nhiệm, bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân và các chức vụ khác; nghị quyết phê chuẩn kết quả bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân và bầu các chức vụ khác; nghị quyết về việc giải tán Hội đồng nhân dân; nghị quyết về việc phê chuẩn cơ cấu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; nghị quyết về việc thành lập, sáp nhập, giải thể một số cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân; nghị quyết hoặc quyết định thành lập các ban, ban chỉ đạo, hội đồng, ủy ban lâm thời để thực hiện nhiệm vụ trong một thời gian xác định; nghị quyết về chương trình xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân; nghị quyết hủy bỏ, bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân; nghị quyết về tổng biên chế ở địa phương; quyết định về chương trình xây dựng quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân; quyết định phê duyệt kế hoạch, quy hoạch phát triển đối với một ngành, một đơn vị hành chính địa phương; quyết định giao chỉ tiêu cho từng cơ quan, đơn vị; quyết định phê duyệt quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của đơn vị hành chính địa phương, quy hoạch ngành; quyết định về chỉ tiêu biên chế cơ quan, đơn vị; quyết định về khoán biên chế, kinh phí quản lý hành chính cho từng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân và những văn bản tương tự khác để giải quyết những vụ việc cụ thể đối với những đối tượng cụ thể.

– Các văn bản của Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân, như: quyết định thành lập đơn vị trực thuộc cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân; quyết định ban hành quy chế hoạt động của các hội đồng, ban, ban chỉ đạo, ủy ban lâm thời; quyết định ban hành quy chế nội bộ của cơ quan, đơn vị; quyết định lên lương, khen thưởng, kỷ luật, điều động công tác; quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, cho từ chức, tạm đình chỉ công tác cán bộ, công chức; quyết định xử lý vi phạm hành chính; các văn bản có tính chất chỉ đạo, điều hành hành chính; văn bản hướng dẫn việc tổ chức thực hiện các tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ; văn bản phát động phong trào thi đua, biểu dương người tốt, việc tốt và những văn bản tương tự khác để giải quyết những vụ việc cụ thể đối với những đối tượng cụ thể thì không phải là văn bản quy phạm pháp luật.

– Các văn bản có chứa quy phạm pháp luật như công văn, thông báo, điện báo, hướng dẫn và các giấy tờ hành chính khác.

 

Phần thứ hai: HỆ THỐNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

 

I. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở Trung ương ban hành

Theo quy định tại Điều 2 của Luật năm 2008, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật bao gồm các loại văn bản sau đây:

– Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.

– Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

– Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.

– Nghị định của Chính phủ.

– Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

– Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thông tư của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.

– Thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

– Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.

– Quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước.

– Nghị quyết liên tịch giữa Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị – xã hội.

– Thông tư liên tịch giữa Chánh án Toà án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.

Bên cạnh đó, Luật năm 2008 cũng quy định hướng giải quyết đối với nghị quyết của Chính phủ, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; văn bản liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị – xã hội được ban hành trước khi Luật có hiệu lực. Theo đó, các văn bản này vẫn tiếp tục có hiệu lực cho đến khi bị bãi bỏ, huỷ bỏ hoặc được thay thế bằng văn bản quy phạm pháp luật khác.

 

II. Hệ thống văn bản QPPL do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ban hành

Theo Luật năm 2004, văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân được ban hành dưới hình thức nghị quyết, văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân được ban hành dưới hình thức quyết định, chỉ thị (Điều 1). Theo đó, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp bao gồm:

– Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã.

– Quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã.

Như vậy, chỉ tập thể Hội đồng nhân dân, tập thể Uỷ ban nhân dân mới có thẩm quyền ban hành văn bản có chứa quy phạm pháp luật. Các cơ quan thuộc cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân như Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân không có thẩm quyền đặt ra quy phạm pháp luật.

Trên thực tế, nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân còn được ban hành để quyết định những vấn đề khác thuộc thẩm quyền của mình. Trong số đó, có những văn bản cũng được ban hành bằng hình thức luật định như nghị quyết, quyết định, chỉ thị nhưng lại không phải là văn bản quy phạm pháp luật. Vì về mặt nội dung, chúng không chứa đựng các quy phạm pháp luật. Ví dụ: nghị quyết phiên họp, chỉ thị về việc phát động phong trào thi đua, biểu dương người tốt, việc tốt, quyết định khen thưởng, kỷ luật, điều động công tác, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ, công chức, quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết định phê duyệt dự án và những văn bản cá biệt khác để giải quyết những vụ việc cụ thể đối với những đối tượng cụ thể.

Cần lưu ý rằng, hình thức văn bản quy phạm pháp luật liên tịch chỉ được quy định đối với các cơ quan nhà nước trung ương và cơ quan trung ương của tổ chức chính trị – xã hội. Các cơ quan nhà nước địa phương không có hình thức văn bản quy phạm pháp luật liên tịch mà chỉ có ba hình thức văn bản quy phạm pháp luật là nghị quyết của Hội đồng nhân dân và quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân (Điều 19 của Luật năm 2004).

Liên quan đến hình thức văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, cần đề cập đến một vấn đề là mối quan hệ giữa văn bản chính và văn bản phụ. Trên thực tế, có không ít văn bản quy phạm pháp luật (của cả cơ quan nhà nước trung ương và địa phương) được hợp thành từ hai loại: văn bản có hình thức văn bản quy phạm pháp luật và văn bản được ban hành kèm theo. Ví dụ: Phụ lục phân cấp nguồn thu, tỷ lệ phần trăm từng nguồn thu, nhiệm vụ chi ngân sách cho các cấp ngân sách thuộc địa phương ban hành kèm theo Nghị quyết số 48/2003/NQ-HĐND ngày 12/12/2003 của Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Nam hay Quy định về trình tự thẩm quyền, thủ tục hành chính đối với các dự án đầu tư và cơ chế “một đầu mối” ban hành kèm theo Quyết định số 1305/2003/QĐ-UB ngày 31/10/2003 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Nam. Trong những trường hợp này, thông thường, quy tắc xử sự chung nằm trong văn bản phụ (Quy chế, Điều lệ, Phụ lục…); song chúng chỉ phát huy hiệu lực pháp luật nhờ được ban hành kèm theo văn bản chính dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật. Hiện nay, chưa có quy tắc chung về việc sử dụng loại văn bản “kép” nói trên. Vì vậy, việc lựa chọn tên gọi của văn bản phụ (“quy chế” hay “quy định” hay “bản quy định”…) là tuỳ nghi. Việc thể hiện nội dung các quy định cũng không kém phần “linh hoạt”. Có trường hợp, hiệu lực và trách nhiệm thi hành văn bản (và thậm chí ký ban hành) được xác định tại cả hai văn bản (chính và phụ). Khả năng sử dụng văn bản loại này và mối quan hệ giữa văn bản chính – phụ không phải là vấn đề kỹ thuật đơn thuần, mà là một nội dung quan trọng của hình thức văn bản quy phạm pháp luật.

 

Phần thứ ba: NGUYÊN TẮC, TRÌNH TỰ, THỦ TỤC BAN HÀNH  VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VÀ HIỆU LỰC CỦA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

 

I. Các nguyên tắc bảo đảm khi xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Để việc soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật được hiệu quả, chất lượng, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở trung ương và địa phương khi soạn thảo, ban hành văn bản cần phải bảo đảm tuân thủ các nguyên tắc sau đây:

Thứ nhất, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật. Một trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu của việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật là tạo ra được một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thống nhất, đồng bộ, bảo đảm tuân thủ tính tối cao của Hiến pháp và được ban hành theo đúng các quy định của pháp luật. Bởi vậy, nguyên tắc quan trọng nhất mà các cơ quan tham gia vào hoạt động soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật cần phải tuân thủ là bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật.

Thứ hai, tuân thủ thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nguyên tắc này đặt ra yêu cầu văn bản quy phạm pháp luật phải được ban hành đúng thẩm quyền, tức là chỉ có các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo quy định và trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình mới được ban hành văn bản dưới các hình thức tương ứng với thẩm quyền ban hành. Quá trình soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm tuân thủ đúng trình tự, thủ tục như thành lập ban soạn thảo, lấy ý kiến nhân dân, thẩm định, thẩm tra…

Thứ ba, bảo đảm tính công khai trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trừ trường hợp văn bản quy phạm pháp luật có nội dung thuộc bí mật nhà nước; bảo đảm tính minh bạch trong các quy định của văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ tư, bảo đảm tính khả thi của văn bản quy phạm pháp luật. Để văn bản quy phạm pháp luật thực sự đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, là công cụ hiệu quả trong hoạt động quản lý, điều hành thì một trong những yêu cầu quan trọng là văn bản đó phải bảo đảm tính khả thi cao. Để có được một văn bản có tính khả thi, đáp ứng được nhu cầu quản lý của Nhà nước, trách nhiệm đặt ra không chỉ đối với người soạn thảo, cơ quan chủ trì soạn thảo mà cả cơ quan thẩm định, thẩm tra, cơ quan xem xét, thông qua văn bản. Đồng thời, để có được một văn bản có chất lượng tốt thì các quy định của văn bản đó phải được soạn thảo sao cho có tính khả thi, phù hợp với thực tiễn quản lý và đồng thời bảo đảm về chất lượng của văn bản.

Thứ năm, không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Đây là một nguyên tắc rất quan trọng trong việc bảo đảm tính phù hợp, thống nhất, đồng bộ của văn bản quy phạm pháp luật với các điều ước quốc tế có liên quan mà nước ta đã ký kết hoặc gia nhập.

 

II. Trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

 

1. Trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương

1.1. Trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội

Theo quy định của Luật năm 2008, trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội được tiến hành theo các bước sau đây:

– Lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, nghị quyết.

– Soạn thảo dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết;

– Lấy ý kiến về dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết;

– Thẩm định dự thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết.

– Chính phủ thảo luận, quyết định việc trình dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết.

– Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến đối với dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội (Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội thẩm tra sơ bộ dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết).

– Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội thẩm tra chính thức dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết.

– Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết.

– Chủ tịch Quốc hội ký chứng thực.

– Công bố, đăng Công báo.

 

1.1.1. Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh

a) Cơ sở xây dựng chương trình

Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh được xây dựng trên cơ sở đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh và yêu cầu quản lý nhà nước trong từng thời kỳ, bảo đảm các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân.

Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh bao gồm chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội và chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm.

Quốc hội quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội tại kỳ họp thứ hai của mỗi khoá Quốc hội; quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm tại kỳ họp thứ nhất của năm trước.

 

b) Đề nghị, kiến nghị về luật, pháp lệnh

– Chủ thể có quyền đề nghị, kiến nghị về luật, pháp lệnh gồm có: Cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội có quyền trình dự án luật quy định tại Điều 87 của Hiến pháp có quyền gửi đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh; đại biểu Quốc hội có quyền gửi kiến nghị về luật, pháp lệnh đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

– Nội dung của đề nghị, kiến nghị về luật, pháp lệnh:

+ Đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh phải nêu rõ sự cần thiết ban hành văn bản; đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản; những quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính của văn bản; dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo văn bản; báo cáo đánh giá tác động sơ bộ của văn bản; thời gian dự kiến đề nghị Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua.

+ Kiến nghị về luật, pháp lệnh phải nêu rõ sự cần thiết ban hành văn bản, đối tượng và phạm vi điều chỉnh của văn bản.

– Chính phủ lập đề nghị về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh về những vấn đề thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình trình Ủy ban thường vụ Quốc hội và phát biểu ý kiến về đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của cơ quan khác, tổ chức, đại biểu Quốc hội, kiến nghị về luật, pháp lệnh của đại biểu Quốc hội.

Bộ Tư pháp có trách nhiệm giúp Chính phủ lập đề nghị về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh trên cơ sở đề xuất của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.

– Chính phủ xem xét, thảo luận về đề nghị về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh theo trình tự sau đây:

+ Đại diện Bộ Tư pháp trình bày dự thảo đề nghị về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh;

+ Đại diện cơ quan, tổ chức được mời tham dự phiên họp phát biểu ý kiến;

+ Chính phủ thảo luận;

+ Chính phủ biểu quyết thông qua đề nghị về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.

 

c. Thời hạn gửi đề nghị, kiến nghị về luật, pháp lệnh

– Chậm nhất vào ngày 01 tháng 3 của năm trước, đề nghị, kiến nghị về luật, pháp lệnh phải được gửi đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội để lập dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm, đồng thời được gửi đến Uỷ ban pháp luật để thẩm tra.

Chậm nhất vào ngày 01 tháng 8 của năm đầu tiên của nhiệm kỳ Quốc hội, đề nghị, kiến nghị về luật, pháp lệnh phải được gửi đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội để lập dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội, đồng thời được gửi đến Uỷ ban pháp luật để thẩm tra.

– Trước khi gửi đề nghị, kiến nghị về luật, pháp lệnh đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội phải gửi đề nghị, kiến nghị của mình đến Chính phủ để Chính phủ phát biểu ý kiến.

 

d) Thẩm tra đề nghị, kiến nghị về luật, pháp lệnh

– Uỷ ban pháp luật tập hợp và chủ trì thẩm tra đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội và kiến nghị về luật, pháp lệnh của đại biểu Quốc hội.

Nội dung thẩm tra tập trung vào sự cần thiết ban hành, phạm vi, đối tượng điều chỉnh, chính sách cơ bản của văn bản, tính đồng bộ, tính khả thi, thứ tự ưu tiên, điều kiện bảo đảm để xây dựng và thi hành văn bản.

– Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban pháp luật trong việc thẩm tra đề nghị, kiến nghị về luật, pháp lệnh và phát biểu ý kiến về sự cần thiết ban hành, thứ tự ưu tiên ban hành văn bản thuộc lĩnh vực do mình phụ trách.

 

đ) Lập dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh

– Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét đề nghị, kiến nghị về luật, pháp lệnh theo trình tự sau đây:

+ Đại diện Chính phủ trình bày tờ trình đề nghị về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.

Đại diện cơ quan khác, tổ chức, đại biểu Quốc hội phát biểu ý kiến về đề nghị, kiến nghị về luật, pháp lệnh của mình;

+ Đại diện Uỷ ban pháp luật trình bày báo cáo thẩm tra;

+ Đại biểu tham dự phiên họp phát biểu ý kiến;

+ Uỷ ban thường vụ Quốc hội thảo luận;

+ Đại diện Chính phủ, đại diện cơ quan khác, tổ chức, đại biểu Quốc hội có đề nghị, kiến nghị về luật, pháp lệnh trình bày bổ sung những vấn đề được nêu ra tại phiên họp;

+ Chủ tọa phiên họp kết luận.

– Căn cứ vào đề nghị, kiến nghị về luật, pháp lệnh của cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội, ý kiến thẩm tra của Uỷ ban pháp luật, Uỷ ban thường vụ Quốc hội lập dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh trình Quốc hội xem xét, quyết định.

Hồ sơ dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh gồm có tờ trình và dự thảo nghị quyết của Quốc hội về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh phải được đăng tải trên Trang thông tin điện tử của Quốc hội.

– Uỷ ban pháp luật chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan giúp Uỷ ban thường vụ Quốc hội lập dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.

 

e) Trình tự xem xét, thông qua dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh

– Quốc hội xem xét, thông qua dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh theo trình tự sau đây:

+ Đại diện Uỷ ban thường vụ Quốc hội trình bày tờ trình về dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh;

+ Quốc hội thảo luận tại phiên họp toàn thể về dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Trước khi thảo luận tại phiên họp toàn thể, dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh có thể được thảo luận ở tổ đại biểu Quốc hội;

+ Sau khi dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh được Quốc hội thảo luận, cho ý kiến, Uỷ ban thường vụ Quốc hội chỉ đạo Uỷ ban pháp luật, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo nghị quyết của Quốc hội về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và xây dựng báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo nghị quyết;

+ Uỷ ban thường vụ Quốc hội báo cáo Quốc hội về việc giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo nghị quyết của Quốc hội về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh;

+ Quốc hội biểu quyết thông qua nghị quyết của Quốc hội về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.

– Nghị quyết về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh phải nêu rõ tên dự án, dự thảo; đối với nghị quyết về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm còn phải nêu rõ thời gian dự kiến trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua dự án, dự thảo đó.

 

g) Triển khai thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh

– Uỷ ban thường vụ Quốc hội có trách nhiệm chỉ đạo và triển khai việc thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh thông qua các hoạt động sau đây:

+ Phân công cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết; cơ quan chủ trì thẩm tra, cơ quan tham gia thẩm tra dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết.

Trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội trình dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội thì Quốc hội quyết định cơ quan thẩm tra hoặc thành lập Uỷ ban lâm thời để thẩm tra.

Trong trường hợp Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội trình dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định cơ quan thẩm tra;

+ Thành lập Ban soạn thảo dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 30 của Luật năm 2008;

+ Quyết định tiến độ xây dựng dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết và các biện pháp cụ thể để bảo đảm việc thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.

– Uỷ ban pháp luật có trách nhiệm giúp Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong việc tổ chức triển khai thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.

– Bộ Tư pháp có trách nhiệm dự kiến cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan phối hợp soạn thảo để trình Chính phủ quyết định và giúp Chính phủ đôn đốc việc soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do Chính phủ trình.

 

h) Điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh

Trong trường hợp cần thiết, Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

Việc điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh được thực hiện theo quy định tại các điều 23, 24 và 25 của Luật năm 2008.

 

1.1.2. Soạn thảo dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, dự thảo nghị quyết

a) Thành lập Ban soạn thảo và phân công cơ quan chủ trì soạn thảo

– Uỷ ban thường vụ Quốc hội thành lập Ban soạn thảo và phân công cơ quan chủ trì soạn thảo trong những trường hợp sau đây:

+ Dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết có nội dung liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực;

+ Dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội do Uỷ ban thường vụ Quốc hội trình;

+ Dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do đại biểu Quốc hội trình. Thành phần Ban soạn thảo do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của đại biểu Quốc hội.

– Trường hợp dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do Chính phủ trình thì Chính phủ giao cho một bộ hoặc cơ quan ngang bộ chủ trì soạn thảo; cơ quan được giao chủ trì soạn thảo có trách nhiệm thành lập Ban soạn thảo.

– Trường hợp dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do cơ quan khác, tổ chức trình thì cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm thành lập Ban soạn thảo và chủ trì soạn thảo.

 

b) Thành phần Ban soạn thảo

– Ban soạn thảo gồm Trưởng ban là người đứng đầu cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo và các thành viên khác là đại diện lãnh đạo cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo, cơ quan, tổ chức hữu quan, các chuyên gia, nhà khoa học. Đối với Ban soạn thảo dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do Chính phủ trình thì thành phần Ban soạn thảo còn có các thành viên là đại diện lãnh đạo Bộ Tư pháp và Văn phòng Chính phủ. Ban soạn thảo phải có ít nhất là chín người.

– Thành viên Ban soạn thảo phải là người am hiểu các vấn đề chuyên môn liên quan đến dự án, dự thảo và có điều kiện tham gia đầy đủ các hoạt động của Ban soạn thảo.

 

c) Nhiệm vụ của Ban soạn thảo, Trưởng ban soạn thảo

– Ban soạn thảo có trách nhiệm tổ chức việc soạn thảo và chịu trách nhiệm về chất lượng, tiến độ soạn thảo dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trước cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo.

– Ban soạn thảo có nhiệm vụ sau đây:

+ Xem xét, thông qua đề cương dự thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết;

+ Thảo luận về chính sách cơ bản và những vấn đề thuộc nội dung của dự án, dự thảo;

+ Thảo luận về dự thảo văn bản, tờ trình, bản thuyết minh chi tiết về dự án, dự thảo; về nội dung giải trình, tiếp thu ý kiến của cơ quan, tổ chức, cá nhân;

+ Bảo đảm các quy định của dự thảo văn bản phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng; bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của dự thảo văn bản với hệ thống pháp luật; bảo đảm tính khả thi của văn bản.

– Trưởng Ban soạn thảo có nhiệm vụ sau đây:

+ Thành lập Tổ biên tập giúp việc cho Ban soạn thảo và chỉ đạo Tổ biên tập chuẩn bị đề cương, biên soạn và chỉnh lý dự thảo văn bản;

+ Tổ chức các cuộc họp và các hoạt động khác của Ban soạn thảo.

 

d) Nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo

– Tổng kết việc thi hành pháp luật, đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan đến dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết; khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan đến nội dung chính của dự án, dự thảo. Trong trường hợp cần thiết, đề nghị cơ quan, tổ chức hữu quan tổng kết, đánh giá việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực do cơ quan, tổ chức đó phụ trách có liên quan đến nội dung của dự án, dự thảo.

– Tổ chức đánh giá tác động và xây dựng báo cáo đánh giá tác động của dự thảo văn bản. Nội dung của báo cáo đánh giá tác động phải nêu rõ các vấn đề cần giải quyết và các giải pháp đối với từng vấn đề đó; chi phí, lợi ích của các giải pháp; so sánh chi phí, lợi ích của các giải pháp.

– Tổ chức nghiên cứu thông tin, tư liệu, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có liên quan đến dự án, dự thảo. Trong trường hợp cần thiết, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu, thông tin liên quan đến dự án, dự thảo.

– Tổ chức lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức có liên quan về dự án, dự thảo; tổng hợp và nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến góp ý.

– Nghiên cứu, tiếp thu ý kiến thẩm định hoặc ý kiến tham gia của Chính phủ đối với dự án, dự thảo không do Chính phủ trình.

– Chuẩn bị dự thảo, tờ trình, bản thuyết minh chi tiết về dự án, dự thảo; báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến của cơ quan, tổ chức, cá nhân; báo cáo đánh giá tác động của dự thảo văn bản và đăng tải các tài liệu này trên Trang thông tin điện tử của Chính phủ hoặc của cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo.

– Chuẩn bị những nội dung cơ bản và những vấn đề còn có ý kiến khác nhau của dự án, dự thảo do Chính phủ trình để báo cáo Chính phủ xem xét, quyết định.

– Kiến nghị phân công cơ quan soạn thảo văn bản quy định chi tiết các điều, khoản, điểm của dự thảo.

– Bảo đảm điều kiện hoạt động của Ban soạn thảo, Tổ biên tập.

Trường hợp dự án, dự thảo do đại biểu Quốc hội trình thì Văn phòng Quốc hội có trách nhiệm bảo đảm điều kiện hoạt động của Ban soạn thảo và Tổ biên tập.

 

đ) Nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết

– Cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết có nhiệm vụ sau đây:

+ Chỉ đạo Ban soạn thảo trong quá trình soạn thảo; đối với dự án, dự thảo do Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ trình thì chỉ đạo cơ quan chủ trì soạn thảo;

+ Xem xét, quyết định việc trình Quốc hội dự án luật, dự thảonghị quyết, trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết. Trong trường hợp chưa thể trình dự án, dự thảo theo đúng tiến độ của chương trình xây dựng luật, pháp lệnh thì phải kịp thời báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét quyết định và nêu rõ lý do.

– Trường hợp dự án, dự thảo không do Chính phủ trình thì chậm nhất là bốn mươi ngày, trước ngày khai mạc phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo phải gửi hồ sơ dự án, dự thảo đến Chính phủ để Chính phủ tham gia ý kiến.

– Hồ sơ dự án, dự thảo gửi Chính phủ tham gia ý kiến bao gồm:

+ Tờ trình về dự án, dự thảo;

+ Dự thảo văn bản;

+ Bản thuyết minh chi tiết về dự án, dự thảo và báo cáo đánh giá tác động của dự án, dự thảo;

+ Báo cáo tổng kết việc thi hành pháp luật, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan đến nội dung chính của dự án, dự thảo;

+ Tài liệu khác (nếu có).

 

e) Hồ sơ dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trình Chính phủ

Hồ sơ dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trình Chính phủ xem xét, quyết định việc trình Quốc hội gồm:

– Tờ trình Chính phủ về dự án, dự thảo.

– Dự thảo văn bản.

– Bản thuyết minh chi tiết về dự án, dự thảo và báo cáo đánh giá tác động của dự thảo văn bản.

– Báo cáo thẩm định, báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến thẩm định, bản tổng hợp ý kiến góp ý của cơ quan, tổ chức, cá nhân về dự án, dự thảo.

– Báo cáo tổng kết việc thi hành pháp luật, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan đến nội dung chính của dự án, dự thảo.

– Tài liệu khác (nếu có).

 

g) Chỉnh lý, hoàn thiện dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trước khi trình Chính phủ

Trong trường hợp còn có ý kiến khác nhau giữa các bộ, cơ quan ngang bộ về những vấn đề lớn thuộc nội dung của dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết thì Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ triệu tập cuộc họp gồm đại diện lãnh đạo cơ quan chủ trì soạn thảo, Bộ Tư pháp, các bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan để giải quyết trước khi trình Chính phủ xem xét, quyết định. Căn cứ vào ý kiến tại cuộc họp này, cơ quan chủ trì soạn thảo phối hợp với các cơ quan có liên quan tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện dự án, dự thảo để trình Chính phủ.

 

h) Chính phủ thảo luận, xem xét quyết định việc trình dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết

Chính phủ thảo luận, xem xét quyết định việc trình dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết theo trình tự sau đây:

– Chính phủ có trách nhiệm xem xét, thảo luận tập thể, biểu quyết theo đa số để quyết định việc trình dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết.

– Văn phòng Chính phủ chuẩn bị những nội dung cơ bản, những vấn đề còn có ý kiến khác nhau của dự án, dự thảo để báo cáo Chính phủ thảo luận.

– Tuỳ theo tính chất và nội dung của dự án, dự thảo, Chính phủ có thể xem xét, thảo luận tại một hoặc một số phiên họp của Chính phủ theo trình tự sau đây:

+ Đại diện cơ quan chủ trì soạn thảo thuyết trình về dự án, dự thảo;

+ Đại diện Văn phòng Chính phủ trình bày những vấn đề còn có ý kiến khác nhau về dự án, dự thảo;

+ Đại diện cơ quan, tổ chức tham dự phiên họp phát biểu ý kiến;

+ Chính phủ thảo luận;

+ Chính phủ biểu quyết về việc trình dự án, dự thảo.

– Trong trường hợp Chính phủ chưa thông qua việc trình dự án, dự thảo thì Thủ tướng Chính phủ ấn định thời gian xem xét lại dự án, dự thảo. Căn cứ vào ý kiến của thành viên Chính phủ, cơ quan chủ trì soạn thảo phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan chỉnh lý dự án, dự thảo.

Tại phiên họp tiếp theo, Chính phủ thảo luận về dự án, dự thảo theo trình tự sau đây:

+ Cơ quan chủ trì soạn thảo báo cáo Chính phủ về nội dung chỉnh lý;

+ Chính phủ thảo luận và biểu quyết về việc trình dự án, dự thảo.

 

i) Chính phủ tham gia ý kiến đối với dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết không do Chính phủ trình

Chính phủ có trách nhiệm tham gia ý kiến bằng văn bản đối với dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do cơ quan khác, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án, dự thảo.

Bộ, cơ quan ngang bộ được Thủ tướng Chính phủ phân công chuẩn bị ý kiến chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp dự kiến những nội dung cần tham gia ý kiến để trình Chính phủ xem xét, quyết định.

 

1.1.3 Lấy ý kiến vào dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết

Công khai, minh bạch trong xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật là một trong những nguyên tắc quan trọng cần được các cơ quan soạn thảo, ban hành đặc biệt quan tâm trong quá trình soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết. Theo đó, Luật năm 2008 đặt ra yêu cầu trong quá trình soạn thảo dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết,cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo phải lấy ý kiến cơ quan, tổ chức hữu quan và đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản; nêu những vấn đề cần xin ý kiến phù hợp với từng đối tượng lấy ý kiến và xác định cụ thể địa chỉ tiếp nhận ý kiến; đăng tải toàn văn dự thảo trên Trang thông tin điện tử của Chính phủ hoặc của cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo trong thời gian ít nhất là sáu mươi ngày để các cơ quan, tổ chức, cá nhân góp ý kiến.

Việc lấy ý kiến có thể bằng hình thức lấy ý kiến trực tiếp, gửi dự thảo để góp ý, tổ chức hội thảo, thông qua Trang thông tin điện tử của Chính phủ, của cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo hoặc các phương tiện thông tin đại chúng.

Nhằm nâng cao chất lượng dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết và tạo điều kiện cho các cơ quan có thẩm quyền có thêm cơ sở thuyết phục khi xem xét, đánh giá các quy định của dự án, dự thảo, Luật quy địnhcác cơ quan, tổ chức hữu quan có trách nhiệm góp ý kiến bằng văn bản về dự án, dự thảo, trong đó, Bộ Tài chính có trách nhiệm góp ý kiến về nguồn tài chính, Bộ Nội vụ có trách nhiệm góp ý kiến về nguồn nhân lực, Bộ Tài nguyên và môi trường có trách nhiệm góp ý kiến về tác động đối với môi trường, Bộ Ngoại giao có trách nhiệm góp ý kiến về sự tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Đồng thời, Luật cũng đặt ra trách nhiệm của cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo có trách nhiệm tổng hợp, nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến góp ý của các cơ quan, tổ chức, cá nhân vào dự án, dự thảo.

 

1.1.4 Thẩm định dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết

a) Chủ thể thẩm định

– Bộ Tư pháp

Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thìBộ Tư pháp có trách nhiệm thẩm định dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết. Đối với dự án, dự thảo có nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực hoặc do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo thì Bộ trưởng Bộ Tư pháp thành lập Hội đồng thẩm định, bao gồm đại diện các cơ quan hữu quan, các chuyên gia, nhà khoa học.

 

b) Phạm vi thẩm định

Cơ quan thẩm định tiến hành thẩm định tập trung vào những vấn đề sau đây:

– Sự cần thiết ban hành văn bản, đối tượng, phạm vi điều chỉnh của dự thảo văn bản;

– Sự phù hợp của nội dung dự thảo văn bản với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng;

– Tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo văn bản với hệ thống pháp luật và tính tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;

– Tính khả thi của dự thảo văn bản, bao gồm sự phù hợp giữa quy định của dự thảo văn bản với yêu cầu thực tế, trình độ phát triển của xã hội và điều kiện bảo đảm để thực hiện;

– Ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo văn bản.

Trong trường hợp cần thiết, cơ quan thẩm định yêu cầu cơ quan chủ trì soạn thảo báo cáo về những vấn đề liên quan đến nội dung dự án, dự thảo.

 

c) Hồ sơ gửi thẩm định

Đối với dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, hồ sơ gửi thẩm định gồm:

– Tờ trình Chính phủ về dự án, dự thảo;

– Dự thảo văn bản;

– Bản thuyết minh chi tiết về dự án, dự thảo và báo cáo đánh giá tác động của dự thảo văn bản;

– Báo cáo tổng kết việc thi hành pháp luật, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan đến nội dung chính của dự án, dự thảo;

– Bản tổng hợp ý kiến của cơ quan, tổ chức, cá nhân về nội dung dự án, dự thảo; bản sao ý kiến của các bộ, cơ quan ngang bộ; báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến góp ý về dự án, dự thảo;

– Tài liệu khác (nếu có).

 

d) Thời hạn gửi báo cáo thẩm định

– Đối với dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết: Báo cáo thẩm định phải được gửi đến cơ quan chủ trì soạn thảo chậm nhất là hai mươi ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ gửi thẩm định.

 

1.1.5. Thẩm tra dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết

a) Chủ thể thẩm tra

– Chủ thể có trách nhiệm thẩm tra:

Dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trước khi trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thảo luận, cho ý kiến phải được Hội đồng dân tộc, Uỷ ban hữu quan của Quốc hội thẩm tra (sau đây gọi chung là cơ quan thẩm tra).

Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội có trách nhiệm chủ trì thẩm tra dự án, dự thảo thuộc lĩnh vực do mình phụ trách và dự án, dự thảo khác do Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội giao; tham gia thẩm tra dự án, dự thảo do cơ quan khác của Quốc hội chủ trì thẩm tra theo sự phân công của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

 

b) Trách nhiệm của các cơ quan thẩm tra

Cơ quan chủ trì thẩm tra có trách nhiệm mời đại diện cơ quan được phân công tham gia thẩm tra tham dự phiên họp thẩm tra để phát biểu ý kiến về những nội dung của dự án, dự thảo liên quan đến lĩnh vực do cơ quan đó phụ trách và những vấn đề khác thuộc nội dung của dự án, dự thảo.

Cơ quan chủ trì thẩm tra có thể mời đại diện cơ quan, tổ chức có liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học và đại diện các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản tham dự cuộc họp do mình tổ chức để phát biểu ý kiến về những vấn đề liên quan đến nội dung của dự án, dự thảo.

Cơ quan thẩm tra có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo báo cáo về những vấn đề liên quan đến nội dung của dự án, dự thảo; tự mình hoặc cùng cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo tổ chức hội thảo, khảo sát thực tế về những vấn đề thuộc nội dung của dự án, dự thảo.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu và đáp ứng các yêu cầu khác của cơ quan thẩm tra.

 

c) Nội dung thẩm tra

Cơ quan thẩm tra tiến hành thẩm tra tập trung vào những vấn đề chủ yếu sau đây:

– Phạm vi, đối tượng điều chỉnh của văn bản;

– Nội dung của dự thảo văn bản và những vấn đề còn có ý kiến khác nhau;

– Sự phù hợp của nội dung dự thảo văn bản với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, với Hiến pháp, pháp luật và tính thống nhất của dự thảo văn bản với hệ thống pháp luật;

– Tính khả thi của các quy định trong dự thảo văn bản.

 

d) Hồ sơ và thời hạn gửi hồ sơ dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết để thẩm tra

– Hồ sơ dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết để thẩm tra bao gồm:

+ Tờ trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội về dự án, dự thảo;

+ Dự thảo văn bản;

+ Bản thuyết minh chi tiết về dự án, dự thảo và báo cáo đánh giá tác động của dự thảo văn bản;

+ Báo cáo thẩm định đối với dự án, dự thảo do Chính phủ trình; ý kiến của Chính phủ đối với dự án, dự thảo không do Chính phủ trình; bản tổng hợp ý kiến góp ý về dự án, dự thảo;

+ Báo cáo tổng kết việc thi hành pháp luật, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan đến nội dung chính của dự án, dự thảo;

+ Tài liệu khác (nếu có).

– Thời hạn gửi hồ sơ dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết để thẩm tra:

+ Đối với dự án, dự thảo trình Ủy ban thường vụ Quốc hội thì chậm nhất là hai mươi ngày, trước ngày bắt đầu phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo phải gửi hồ sơ để thẩm tra đến cơ quan chủ trì thẩm tra, cơ quan tham gia thẩm tra để tiến hành thẩm tra.

+ Đối với dự án, dự thảo trình Quốc hội thì chậm nhất là ba mươi ngày, trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo phải gửi hồ sơ quy định tại khoản 1 Điều 42 của Luật năm 2008 đến cơ quan chủ trì thẩm tra, cơ quan tham gia thẩm tra để tiến hành thẩm tra.

 

đ) Phương thức thẩm tra

Cơ quan chủ trì thẩm tra phải tổ chức phiên họp toàn thể để thẩm tra; đối với dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến thì có thể tổ chức phiên họp Thường trực Hội đồng, Thường trực Uỷ ban để thẩm tra sơ bộ.

Trong trường hợp dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết được giao cho nhiều cơ quan phối hợp thẩm tra thì việc thẩm tra có thể được tiến hành bằng một trong các phương thức sau đây:

– Cơ quan chủ trì thẩm tra tổ chức phiên họp thẩm tra với sự tham gia của đại diện cơ quan tham gia thẩm tra;

– Cơ quan chủ trì thẩm tra tổ chức phiên họp thẩm tra với Thường trực cơ quan tham gia thẩm tra.

 

e) Báo cáo thẩm tra

Báo cáo thẩm tra phải thể hiện rõ quan điểm của cơ quan thẩm tra về những vấn đề thuộc nội dung thẩm tra quy định tại Điều 43 của Luật này, đề xuất những nội dung cần sửa đổi, bổ sung.

Báo cáo thẩm tra phải phản ánh đầy đủ ý kiến của thành viên cơ quan chủ trì thẩm tra, đồng thời phải phản ánh ý kiến của các cơ quan tham gia thẩm tra.

 

g) Trách nhiệm của Ủy ban pháp luật trong việc thẩm tra để bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết với hệ thống pháp luật

Uỷ ban pháp luật có trách nhiệm tham gia thẩm tra để bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do các cơ quan khác của Quốc hội chủ trì thẩm tra với hệ thống pháp luật trước khi trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua.

Ủy ban pháp luật tổ chức phiên họp Thường trực Ủy ban hoặc phiên họp toàn thể Ủy ban để chuẩn bị ý kiến tham gia thẩm tra và cử đại diện Ủy ban tham dự phiên họp thẩm tra của cơ quan chủ trì thẩm tra.

Nội dung tham gia thẩm tra để bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự án, dự thảovới hệ thống pháp luật bao gồm:

– Sự phù hợp của quy định trong dự thảo luật, nghị quyết của Quốc hội với quy định của Hiến pháp; quy định trong dự thảo pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;

– Sự thống nhất về nội dung giữa quy định trong dự thảo luật, nghị quyết của Quốc hội với luật, nghị quyết của Quốc hội; giữa quy định trong dự thảo pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội với pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; giữa các quy định trong dự thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết; sự thống nhất về kỹ thuật văn bản.

Khi gửi hồ sơ để thẩm tra, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo phải đồng thời gửi hồ sơ đến Uỷ ban pháp luật.

 

h) Trách nhiệm của Ủy ban về các vấn đề xã hội trong việc thẩm tra việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết

Uỷ ban về các vấn đề xã hội có trách nhiệm tham gia thẩm tra việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới đối với dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do cơ quan khác của Quốc hội chủ trì thẩm tra khi dự án, dự thảo đó có nội dung liên quan đến bình đẳng giới.

Ủy ban về các vấn đề xã hội tổ chức phiên họp Thường trực Ủy ban hoặc phiên họp toàn thể Ủy ban để chuẩn bị ý kiến tham gia thẩm tra và cử đại diện Ủy ban tham dự phiên họp thẩm tra của cơ quan chủ trì thẩm tra.

Nội dung thẩm tra việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới của dự án, dự thảo được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 22 của Luật bình đẳng giới.

Khi gửi hồ sơ theo quy định tại Điều 42 của Luật năm 2008, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo phải đồng thời gửi hồ sơ đến Uỷ ban về các vấn đề xã hội.

 

1.1.6. Quy trình xem xét, thông qua và công bố dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết

a) Xem xét, thông qua dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội

– Quốc hội xem xét, thông qua dự án luật, dự thảo nghị quyết tại một hoặc hai kỳ họp Quốc hội.

Đối với dự án, dự thảo trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến và dự án, dự thảo trình Quốc hội xem xét, thông qua tại một kỳ họp thì chậm nhất là hai mươi ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội, hồ sơ dự án, dự thảo phải được gửi đến đại biểu Quốc hội.

Đối với dự án, dự thảo đã được tiếp thu, chỉnh lý theo ý kiến của đại biểu Quốc hội tại kỳ họp trước và được trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp sau thì chậm nhất là bốn mươi lăm ngày trước ngày khai mạc kỳ họp, Uỷ ban thường vụ Quốc hội có trách nhiệm gửi lấy ý kiến đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội.

Đoàn đại biểu Quốc hội, Thường trực Hội đồng dân tộc, Thường trực Ủy ban của Quốc hội có trách nhiệm tổ chức thảo luận, góp ý kiến bằng văn bản và gửi về Văn phòng Quốc hội chậm nhất là hai mươi ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội.

– Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết tại một hoặc hai phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Chậm nhất là hai mươi ngày trước ngày bắt đầu phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội, hồ sơ dự án, dự thảo phải được gửi đến các thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội.

– Hồ sơ dự án, dự thảo trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội bao gồm các tài liệu quy định tại khoản 1 Điều 42 của Luật năm 2008 và báo cáo thẩm tra về dự án, dự thảo.

Dự thảo văn bản, tờ trình và báo cáo thẩm tra về dự án, dự thảo được đăng tải trên Trang thông tin điện tử của Quốc hội.

 

b) Trình tự xem xét, thông qua dự án luật, dự thảo nghị quyết tại một kỳ họp của Quốc hội

Quốc hội xem xét, thông qua dự án luật, dự thảo nghị quyết tại một kỳ họp theo trình tự sau đây:

– Đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo thuyết trình về dự án, dự thảo;

– Đại diện cơ quan chủ trì thẩm tra trình bày báo cáo thẩm tra;

– Quốc hội thảo luận tại phiên họp toàn thể về những nội dung cơ bản,những vấn đề lớn còn có ý kiến khác nhau của dự án, dự thảo. Trước khi thảo luận tại phiên họp toàn thể, dự án, dự thảo có thể được thảo luận ở tổ đại biểu Quốc hội;

– Trong quá trình thảo luận, đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo giải trình về những vấn đề liên quan đến dự án, dự thảo mà đại biểu Quốc hội nêu;

– Đối với những vấn đề quan trọng của dự án, dự thảo và những vấn đề lớn còn có ý kiến khác nhau thì Quốc hội tiến hành biểu quyết theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Cơ quan chủ trì thẩm tra chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo, Đoàn thư ký kỳ họp và cơ quan, tổ chức hữu quan giúp Uỷ ban thường vụ Quốc hội dự kiến những vấn đề thuộc nội dung của dự án, dự thảo trình Quốc hội biểu quyết;

– Sau khi dự án, dự thảo được Quốc hội thảo luận, cho ý kiến, Uỷ ban thường vụ Quốc hội chỉ đạo, tổ chức việc nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo theo trình tự sau đây:

+ Thường trực cơ quan chủ trì thẩm tra chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo, Uỷ ban pháp luật, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức hữu quan nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo và xây dựng báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội;

+ Chậm nhất là năm ngày trước ngày biểu quyết thông qua, dự thảo được gửi đến Thường trực Uỷ ban pháp luật để rà soát, hoàn thiện về mặt kỹ thuật văn bản. Thường trực Uỷ ban pháp luật chủ trì, phối hợp với cơ quan chủ trì thẩm tra, đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo tổ chức việc rà soát để bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự án, dự thảo với hệ thống pháp luật;

+ Uỷ ban thường vụ Quốc hội báo cáo Quốc hội về việc giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo; trường hợp cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo có ý kiến khác với nội dung đã được chỉnh lý trong dự thảo thì ý kiến đó phải được nêu rõ trong báo cáo;

+ Quốc hội biểu quyết thông qua dự thảo. Trong trường hợp vẫn còn những vấn đề có ý kiến khác nhau thì Quốc hội biểu quyết về những vấn đề đó theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trước khi biểu quyết thông qua dự thảo;

+ Chủ tịch Quốc hội ký chứng thực luật, nghị quyết của Quốc hội.

Trong trường hợp dự thảo chưa được thông qua hoặc mới được thông qua một phần thì việc chỉnh lý và thông qua dự thảo được thực hiện theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 53 của Luật năm 2008.

 

c) Trình tự xem xét, thông qua dự án luật, dự thảo nghị quyết tại hai kỳ họp của Quốc hội

Quốc hội xem xét, thông qua dự án luật, dự thảo nghị quyết tại hai kỳ họp theo trình tự sau đây:

– Tại kỳ họp thứ nhất:

+ Đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo thuyết trình về dự án, dự thảo;

+ Đại diện cơ quan chủ trì thẩm tra trình bày báo cáo thẩm tra;

+ Quốc hội thảo luận tại phiên họp toàn thể về những nội dung cơ bản, những vấn đề lớn còn có ý kiến khác nhau của dự án, dự thảo. Trước khi thảo luận tại phiên họp toàn thể, dự án, dự thảo có thể được thảo luận ở tổ đại biểu Quốc hội.

Trong quá trình thảo luận, đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo có trách nhiệm giải trình về những vấn đề liên quan đến dự án, dự thảo mà đại biểu Quốc hội nêu;

+ Đối với những vấn đề quan trọng của dự án, dự thảo và những vấn đề lớn còn có ý kiến khác nhau thì Quốc hội tiến hành biểu quyết theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Cơ quan chủ trì thẩm tra chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo, Đoàn thư ký kỳ họp và cơ quan, tổ chức hữu quan giúp Uỷ ban thường vụ Quốc hội dự kiến những vấn đề thuộc nội dung của dự án, dự thảo trình Quốc hội biểu quyết;

+ Uỷ ban thường vụ Quốc hội chỉ đạo Đoàn thư ký kỳ họp tổng hợp ý kiến của đại biểu Quốc hội và kết quả biểu quyết làm cơ sở cho việc chỉnh lý;

– Trong thời gian giữa hai kỳ họp của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội chỉ đạo, tổ chức việc nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo theo trình tự sau đây:

+ Thường trực cơ quan chủ trì thẩm tra chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo, Uỷ ban pháp luật, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức hữu quan nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo và xây dựng dự thảo báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo. Cơ quan chủ trì thẩm tra tổ chức phiên họp thường trực hoặc phiên họp toàn thể để thảo luận về dự thảo báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý và dự thảo văn bản đã được chỉnh lý;

+ Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, thảo luận về báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý và dự thảo văn bản đã được chỉnh lý;

+ Uỷ ban thường vụ Quốc hội gửi dự thảo đã được chỉnh lý để lấy ý kiến của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội;

+ Cơ quan chủ trì thẩm tra tổng hợp ý kiến của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội để nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo và hoàn thiện báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo trình Ủy ban thường vụ Quốc hội;

– Tại kỳ họp thứ hai:

+ Đại diện Uỷ ban thường vụ Quốc hội trình bày báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo; trong trường hợp cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo có ý kiến khác với nội dung đã được chỉnh lý trong dự thảo thì ý kiến đó phải được nêu rõ trong báo cáo;

+ Quốc hội thảo luận về những nội dung còn có ý kiến khác nhau của dự án, dự thảo;

+ Uỷ ban thường vụ Quốc hội chỉ đạo, tổ chức việc nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo;

+ Chậm nhất là năm ngày trước ngày biểu quyết thông qua, dự thảo được gửi đến Thường trực Uỷ ban pháp luật để rà soát, hoàn thiện về mặt kỹ thuật văn bản. Thường trực Uỷ ban pháp luật chủ trì, phối hợp với cơ quan chủ trì thẩm tra, đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo tổ chức việc rà soát để bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự án, dự thảo với hệ thống pháp luật;

+ Quốc hội biểu quyết thông qua dự thảo. Trong trường hợp vẫn còn những vấn đề có ý kiến khác nhau thì Quốc hội biểu quyết về những vấn đề đó theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trước khi biểu quyết thông qua dự thảo;

+ Chủ tịch Quốc hội ký chứng thực luật, nghị quyết của Quốc hội.

Trong trường hợp dự thảo chưa được thông qua hoặc mới được thông qua một phần thì việc xem xét, thông qua tại kỳ họp tiếp theo do Quốc hội quyết định theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

 

d) Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết tại một phiên họp

Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết tại một phiên họp theo trình tự sau đây:

– Đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo thuyết trình về dự án, dự thảo;

– Đại diện cơ quan chủ trì thẩm tra trình bày báo cáo thẩm tra;

– Đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân được mời tham dự phiên họp phát biểu ý kiến;

– Uỷ ban thường vụ Quốc hội thảo luận, chủ tọa phiên họp kết luận;

– Thường trực cơ quan chủ trì thẩm tra chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo, Uỷ ban pháp luật, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức hữu quan nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo;

– Chậm nhất là ba ngày trước ngày biểu quyết thông qua, dự thảo được gửi đến Thường trực Uỷ ban pháp luật để rà soát, hoàn thiện về mặt kỹ thuật văn bản. Thường trực Uỷ ban pháp luật chủ trì, phối hợp với cơ quan chủ trì thẩm tra, đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo tổ chức việc rà soát để bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự án, dự thảo với hệ thống pháp luật;

– Đại diện cơ quan chủ trì thẩm tra báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo; trường hợp cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo có ý kiến khác với nội dung đã được chỉnh lý trong dự thảo thì ý kiến đó phải được nêu rõ trong báo cáo;

– Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết thông qua dự thảo. Trong trường hợp vẫn còn những vấn đề có ý kiến khác nhau thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết về những vấn đề đó theo đề nghị của chủ tọa phiên họp trước khi biểu quyết thông qua dự thảo;

– Chủ tịch Quốc hội ký pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

 

d) Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết tại hai phiên họp

Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết tại hai phiên họp theo trình tự sau đây:

– Tại phiên họp thứ nhất, việc trình và thảo luận được thực hiện theo trình tự quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 54. Uỷ ban thường vụ Quốc hội thảo luận, biểu quyết một số vấn đề của dự án, dự thảo theo đề nghị của cơ quan chủ trì thẩm tra để làm cơ sở cho việc chỉnh lý;

– Trong thời gian giữa hai phiên họp, Thường trực cơ quan chủ trì thẩm tra chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo, Uỷ ban pháp luật, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức hữu quan nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo theo sự chỉ đạo của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;

– Chậm nhất là ba ngày trước ngày biểu quyết thông qua, dự thảo được gửi đến Thường trực Uỷ ban pháp luật để rà soát, hoàn thiện về mặt kỹ thuật văn bản. Thường trực Uỷ ban pháp luật chủ trì, phối hợp với cơ quan chủ trì thẩm tra, đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo tổ chức việc rà soát để bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự án, dự thảo với hệ thống pháp luật;

– Tại phiên họp thứ hai, cơ quan chủ trì thẩm tra báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội về việc chỉnh lý dự thảo; trong trường hợp cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo có ý kiến khác với nội dung đã được chỉnh lý trong dự thảo thì ý kiến đó phải được nêu rõ trong báo cáo;

– Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết thông qua dự thảo. Trong trường hợp vẫn còn những vấn đề có ý kiến khác nhau thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết về những vấn đề đó theo đề nghị của chủ tọa phiên họp trước khi biểu quyết thông qua dự thảo;

– Chủ tịch Quốc hội ký pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

 

e) Hồ sơ dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua

Hồ sơ dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua bao gồm:

– Báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo;

– Dự thảo đã được chỉnh lý.

 

g) Ngày thông qua luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội

Ngày thông qua luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội là ngày Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết thông qua luật, pháp lệnh, nghị quyết đó.

 

h) Công bố luật, pháp lệnh, nghị quyết

Chủ tịch nước ban hành lệnh để công bố luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong thời hạn chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày luật, pháp lệnh, nghị quyết được thông qua.

Đối với pháp lệnh, nghị quyết đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua mà Chủ tịch nước đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại theo quy định tại khoản 7 Điều 103 của Hiến pháp thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại những vấn đề mà Chủ tịch nước có ý kiến. Nếu pháp lệnh, nghị quyết đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất. Trong các trường hợp này thì thời hạn công bố chậm nhất là mười ngày, kể từ ngày Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua lại hoặc Quốc hội quyết định.

 

1.2 Soạn thảo dự thảo nghị định của Chính phủ

Theo quy định của Luật năm 2008, trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành nghị định của Chính phủ được tiến hành theo các bước sau đây:

– Lập chương trình xây dựng nghị định.

– Soạn thảo dự thảo nghị định.

– Lấy ý kiến về dự thảo nghị định.

– Thẩm định dự thảo nghị định.

– Chính phủ thảo luận, thông qua nghị định

– Thủ tướng Chính phủ ký nghị định.

– Đăng Công báo.

 

1.2.1. Chương trình xây dựng nghị định của Chính phủ

Văn phòng Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp và các cơ quan có liên quan lập dự kiến chương trình xây dựng nghị định hằng năm của Chính phủ trên cơ sở đề nghị của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Đề nghị xây dựng nghị định phải nêu rõ sự cần thiết ban hành, nội dung, chính sách cơ bản và báo cáo đánh giá tác động sơ bộ của văn bản.

– Trong trường hợp cần thiết, Văn phòng Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp tổ chức cuộc họp có sự tham gia của đại diện cơ quan, tổ chức có liên quan để xem xét đề nghị xây dựng nghị định của Chính phủ.

Cơ quan, tổ chức có đề nghị xây dựng nghị định cử đại diện thuyết trình về những vấn đề liên quan đến đề nghị của mình.

– Văn phòng Chính phủ lập dự kiến chương trình xây dựng nghị định của Chính phủ và gửi đến các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ để lấy ý kiến, đồng thời đăng tải dự kiến chương trình trên Trang thông tin điện tử của Chính phủ để cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia góp ý kiến.

– Chính phủ thông qua chương trình xây dựng nghị định hằng năm. Thủ tướng Chính phủ phân công bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ chủ trì soạn thảo dự thảo nghị định.

 

1.2.2. Soạn thảo dự thảo nghị định

a) Ban soạn thảo nghị định

– Thành lập Ban soạn thảo: cơ quan chủ trì soạn thảo thành lập Ban soạn thảo nghị định. Ban soạn thảo gồm Trưởng ban là đại diện cơ quan chủ trì soạn thảo và các thành viên là đại diện cơ quan thẩm định, đại diện cơ quan, tổ chức hữu quan, các chuyên gia, nhà khoa học.

– Trách nhiệm của Ban soạn thảo: Ban soạn thảo chịu trách nhiệm về chất lượng và tiến độ soạn thảo dự thảo nghị định trước cơ quan chủ trì soạn thảo.

Trưởng ban soạn thảo thành lập Tổ biên tập để giúp việc cho Ban soạn thảo và thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Ban soạn thảo.

– Nhiệm vụ của Ban soạn thảo, gồm:

+ Xem xét, thông qua đề cương dự thảo nghị định;

+ Thảo luận những vấn đề cơ bản, nội dung của dự thảo nghị định, những vấn đề còn có ý kiến khác nhau giữa các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;

+ Thảo luận về những nội dung cần được tiếp thu, chỉnh lý theo ý kiến của cơ quan thẩm định và ý kiến tham gia của cơ quan, tổ chức, cá nhân;

+ Bảo đảm các quy định của dự thảo văn bản phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; bảo đảm tính thống nhất của dự thảo với hệ thống pháp luật; bảo đảm tính khả thi của văn bản.

– Trên cơ sở ý kiến thảo luận của Ban soạn thảo, Trưởng ban soạn thảo chỉ đạo Tổ biên tập soạn thảo và chỉnh lý dự thảo nghị định.

 

b) Nhiệm vụ của cơ quan chủ trì soạn thảo

– Trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo: cơ quan chủ trì soạn thảo chịu trách nhiệm trước Chính phủ về nội dung, chất lượng của dự thảo nghị định và tiến độ soạn thảo.

– Nhiệm vụ của cơ quan chủ trì soạn thảo, gồm:

+ Tổng kết việc thi hành pháp luật, đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan đến dự thảo; khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan đến nội dung chính của dự thảo;

+ Tổ chức nghiên cứu thông tin, tư liệu và các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có liên quan đến dự thảo;

+ Tổ chức lấy ý kiến, nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo; xây dựng tờ trình, báo cáo giải trình tiếp thu ý kiến góp ý về dự thảo, báo cáo đánh giá tác động của dự thảo văn bản và đăng tải các tài liệu này trên Trang thông tin điện tử của Chính phủ hoặc của cơ quan chủ trì soạn thảo;

+ Bảo đảm điều kiện hoạt động của Ban soạn thảo và Tổ biên tập.

 

1.2.3. Lấy ý kiến vào dự thảo nghị định

Trong quá trình soạn thảo dự thảo nghị định, cơ quan chủ trì soạn thảo phải lấy ý kiến bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản; nêu những vấn đề cần xin ý kiến và xác định cụ thể địa chỉ tiếp nhận ý kiến góp ý; đăng tải toàn văn dự thảo trên Trang thông tin điện tử của Chính phủ hoặc của cơ quan chủ trì soạn thảo trong thời gian ít nhất là sáu mươi ngày để cơ quan, tổ chức, cá nhân góp ý kiến.

Việc lấy ý kiến về dự thảo có thể bằng hình thức lấy ý kiến trực tiếp, gửi dự thảo để góp ý, tổ chức hội thảo, thông qua Trang thông tin điện tử của Chính phủ, của cơ quan chủ trì soạn thảo hoặc các phương tiện thông tin đại chúng.

Cơ quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm tổng hợp, nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến góp ý.

 

1.2.4. Thẩm định dự thảo nghị định

a) Chủ thể thẩm định

Bộ Tư pháp có trách nhiệm thẩm định dự thảo nghị định trước khi trình Chính phủ. Đối với dự thảo nghị định có nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực hoặc do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo thì Bộ trưởng Bộ Tư pháp thành lập Hội đồng thẩm định, bao gồm đại diện các cơ quan hữu quan, các chuyên gia, nhà khoa học.

 

b) Phạm vi thẩm định

Cơ quan thẩm định tiến hành thẩm định tập trung vào những vấn đề sau đây:

– Sự cần thiết ban hành văn bản, đối tượng, phạm vi điều chỉnh của dự thảo văn bản;

– Sự phù hợp của nội dung dự thảo văn bản với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng;

– Tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo văn bản với hệ thống pháp luật và tính tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;

– Tính khả thi của dự thảo văn bản, bao gồm sự phù hợp giữa quy định của dự thảo văn bản với yêu cầu thực tế, trình độ phát triển của xã hội và điều kiện bảo đảm để thực hiện;

– Ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo văn bản.

Trong trường hợp cần thiết, cơ quan thẩm định yêu cầu cơ quan chủ trì soạn thảo báo cáo về những vấn đề liên quan đến nội dung dự án, dự thảo.

 

c) Hồ sơ gửi thẩm định

Đối với dự thảo nghị định, hồ sơ gửi thẩm định gồm:

– Tờ trình Chính phủ về dự thảo nghị định;

– Dự thảo nghị định;

– Bản thuyết minh chi tiết và báo cáo đánh giá tác động của dự thảo văn bản;

– Bản tổng hợp ý kiến của cơ quan, tổ chức, cá nhân và đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản; bản sao ý kiến của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; báo cáo giải trình về việc tiếp thu ý kiến góp ý.

– Tài liệu khác (nếu có).

 

d) Thời hạn gửi báo cáo thẩm định

Báo cáo thẩm định dự thảo nghị định phải được gửi đến cơ quan chủ trì soạn thảo chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ gửi thẩm định.

 

1.2.5. Hồ sơ dự thảo nghị định trình Chính phủ

Hồ sơ dự thảo nghị định trình Chính phủ xem xét, thông qua gồm:

– Tờ trình Chính phủ về dự thảo nghị định.

– Dự thảo nghị định sau khi tiếp thu ý kiến của cơ quan thẩm định và ý kiến của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

– Báo cáo giải trình tiếp thu ý kiến thẩm định và tiếp thu ý kiến của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

– Bản thuyết minh chi tiết và báo cáo đánh giá tác động của dự thảo nghị định.

– Bản tổng hợp ý kiến của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

– Tài liệu khác (nếu có).

 

1.2.6. Chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo nghị định trước khi trình Chính phủ

Trong trường hợp còn có ý kiến khác nhau giữa các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ về những vấn đề lớn thuộc nội dung của dự thảo nghị định thì Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ triệu tập cuộc họp gồm đại diện lãnh đạo của cơ quan chủ trì soạn thảo, Bộ Tư pháp, lãnh đạo của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có liên quan để giải quyết trước khi trình Chính phủ xem xét, quyết định. Căn cứ vào ý kiến tại cuộc họp này, cơ quan chủ trì soạn thảo phối hợp với các cơ quan có liên quan tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo để trình Chính phủ.

 

1.2.7. Trình tự xem xét, thông qua dự thảo nghị định

Tuỳ theo tính chất và nội dung của dự thảo nghị định, Chính phủ có thể xem xét, thông qua tại một hoặc hai phiên họp của Chính phủ theo trình tự sau đây:

– Đại diện cơ quan chủ trì soạn thảo thuyết trình về dự thảo;

– Đại diện Văn phòng Chính phủ nêu những vấn đề cần thảo luận;

– Đại diện cơ quan, tổ chức tham dự phiên họp phát biểu ý kiến;

– Chính phủ thảo luận.

Cơ quan chủ trì soạn thảo phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan có liên quan chỉnh lý dự thảo theo ý kiến của Chính phủ;

– Chính phủ biểu quyết thông qua dự thảo nghị định.

Trong trường hợp dự thảo chưa được thông qua thì Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo về những vấn đề cần phải chỉnh lý và ấn định thời gian trình lại dự thảo, đồng thời giao cơ quan chủ trì soạn thảo hoàn thiện dự thảo để trình Chính phủ xem xét, thông qua;

– Thủ tướng Chính phủ ký nghị định.

 

1.3. Soạn thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ

Việc soạn thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ được thực hiện theo trình tự, thủ tục như sau:

– Thủ tướng Chính phủ phân công cơ quan soạn thảo dự thảo quyết định. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm soạn thảo dự thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ theo sự phân công của Thủ tướng Chính phủ.

– Lấy ý kiến góp ý vào dự thảo quyết định. Cơ quan soạn thảo có trách nhiệm đăng tải toàn văn dự thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ trên Trang thông tin điện tử của Chính phủ hoặc của cơ quan soạn thảo trong thời gian ít nhất là sáu mươi ngày để cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến.

Tuỳ theo tính chất và nội dung của dự thảo, cơ quan soạn thảo gửi dự thảo lấy ý kiến của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có liên quan.

– Thẩm định dự thảo quyết định. Bộ Tư pháp có trách nhiệm thẩm định dự thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; nội dung thẩm định theo quy định tại khoản 3 Điều 36 của Luật năm 2008. Đối với dự thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, hồ sơ gửi thẩm định gồm: tờ trình Thủ tướng Chính phủ về dự thảo quyết định; dự thảo quyết định; bản tổng hợp ý kiến của cơ quan, tổ chức, cá nhân và đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản; bản sao ý kiến của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; báo cáo giải trình về việc tiếp thu ý kiến góp ý; tài liệu khác (nếu có). Báo cáo thẩm định phải được gửi đến cơ quan soạn thảo chậm nhất là mười ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ gửi thẩm định.

– Cơ quan soạn thảo có trách nhiệm nghiên cứu ý kiến của cơ quan thẩm định, ý kiến của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chỉnh lý dự thảo và báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

– Thủ tướng Chính phủ xem xét và ký ban hành quyết định.

 

1.4. Soạn thảo thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ

Việc soạn thảo thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ được thực hiện theo trình tự, thủ tục như sau:

– Dự thảo thông tư do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ phân công và chỉ đạo đơn vị trực thuộc bộ, cơ quan ngang bộ soạn thảo.

– Dự thảo thông tư được đăng tải trên Trang thông tin điện tử của cơ quan ban hành trong thời gian ít nhất là sáu mươi ngày để cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến.

Tuỳ theo tính chất và nội dung của dự thảo, dự thảo thông tư được gửi lấy ý kiến của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có liên quan.

– Tổ chức pháp chế của bộ, cơ quan ngang bộ có trách nhiệm thẩm định dự thảo văn bản theo các nội dung quy định tại khoản 3 Điều 36 của Luật năm 2008. Hồ sơ gửi thẩm định gồm: Tờ trình Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ về dự thảo thông tư; Dự thảo thông tư; Bản tổng hợp ý kiến của cơ quan, tổ chức, cá nhân, của các đơn vị có liên quan trong bộ, cơ quan ngang bộ và đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản; Tài liệu khác (nếu có).

– Đơn vị được phân công soạn thảo chủ trì, phối hợp với các đơn vị có liên quan nghiên cứu, tiếp thu ý kiến thẩm định và ý kiến của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chỉnh lý dự thảo và báo cáo Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.

– Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ xem xét và ký ban hành thông tư.

 

1.5. Xây dựng, ban hành lệnh, quyết định của Chủ tịch nước

Việc soạn thảo, ban hành lệnh, quyết định của Chủ tịch nước được thực hiện theo trình tự, thủ tục sau đây:

– Chủ tịch nước tự mình hoặc theo đề nghị của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định cơ quan soạn thảo dự thảo lệnh, quyết định.

– Cơ quan soạn thảo tổ chức nghiên cứu, soạn thảo dự thảo lệnh, quyết định.

– Tuỳ theo nội dung của dự thảo lệnh, quyết định, Chủ tịch nước quyết định việc đăng tải toàn văn trên Trang thông tin điện tử của cơ quan soạn thảo. Việc đăng tải dự thảo phải bảo đảm thời gian ít nhất là sáu mươi ngày để cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia ý kiến.

– Cơ quan soạn thảo có trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chỉnh lý dự thảo lệnh, quyết định và báo cáo Chủ tịch nước.

– Chủ tịch nước xem xét, ký ban hành lệnh, quyết định.

 

1.6. Xây dựng, ban hành nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao

Việc soạn thảo, ban hành nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao được thực hiện theo trình tự, thủ tục sau đây:

– Dự thảo nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tổ chức và chỉ đạo việc soạn thảo.

– Dự thảo nghị quyết được đăng tải trên Trang thông tin điện tử của Toà án nhân dân tối cao trong thời gian ít nhất là sáu mươi ngày để cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến.

Tuỳ theo tính chất và nội dung của dự thảo, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định gửi dự thảo để lấy ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân địa phương, Tòa án quân sự và cơ quan, tổ chức có liên quan.

– Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chỉ đạo việc tiếp thu ý kiến góp ý về dự thảo nghị quyết.

– Dự thảo nghị quyết được thảo luận tại phiên họp của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, có sự tham dự của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

– Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao biểu quyết thông qua dự thảo.

Trong trường hợp Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Tư pháp không nhất trí với nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì có quyền báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội để Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại phiên họp gần nhất.

– Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ký nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

 

1.7. Xây dựng, ban hành thông tư của Chánh án Toà án nhân dân tối cao

Việc soạn thảo, ban hành thông tư của Chánh án Toà án nhân dân tối cao được thực hiện theo trình tự, thủ tục sau đây:

– Dự thảo thông tư của Chánh án Toà án nhân dân tối cao do Chánh án Toà án nhân dân tối cao tổ chức và chỉ đạo việc soạn thảo.

– Dự thảo thông tư được đăng tải trên Trang thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao trong thời gian ít nhất là sáu mươi ngày để cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến.

Tuỳ theo tính chất và nội dung của dự thảo, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định gửi dự thảo thông tư để lấy ý kiến của Tòa án nhân dân địa phương, Tòa án quân sự và cơ quan, tổ chức có liên quan.

– Dự thảo thông tư của Chánh án Toà án nhân dân tối cao được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thảo luận và cho ý kiến.

– Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chỉ đạo việc tiếp thu ý kiến, xem xét và ký ban hành thông tư.

 

1.8. Xây dựng, ban hành thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Việc soạn thảo, ban hành thông tư của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao được thực hiện theo trình tự, thủ tục sau đây:

– Dự thảo thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tổ chức và chỉ đạo việc soạn thảo.

– Dự thảo thông tư được đăng tải trên Trang thông tin điện tử của Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong thời gian ít nhất là sáu mươi ngày để cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến.

Tuỳ theo tính chất và nội dung của dự thảo, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định gửi dự thảo thông tư để lấy ý kiến Viện kiểm sát nhân dân địa phương, Viện kiểm sát quân sự và cơ quan, tổ chức có liên quan.

– Dự thảo thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao được Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao thảo luận và cho ý kiến.

– Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chỉ đạo việc tiếp thu ý kiến, xem xét và ký ban hành thông tư.

 

1.9. Xây dựng, ban hành quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước

Việc soạn thảo, ban hành quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước được thực hiện theo trình tự, thủ tục sau đây:

– Dự thảo quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước do Tổng Kiểm toán Nhà nước tổ chức và chỉ đạo việc soạn thảo.

– Dự thảo quyết định được đăng tải trên Trang thông tin điện tử của Kiểm toán Nhà nước trong thời gian ít nhất là sáu mươi ngày để cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến.

– Tuỳ theo tính chất và nội dung của dự thảo, Tổng Kiểm toán Nhà nước quyết định gửi dự thảo để lấy ý kiến của cơ quan, tổ chức có liên quan.

– Tổng Kiểm toán Nhà nước chỉ đạo việc tiếp thu ý kiến góp ý, xem xét và ký ban hành quyết định.

 

1.10 Xây dựng, ban hành nghị quyết liên tịch

Việc soạn thảo, ban hành nghị quyết liên tịch được thực hiện theo trình tự, thủ tục sau đây:

– Dự thảo nghị quyết liên tịch giữa Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị – xã hội do Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc Chính phủ phân công cơ quan chủ trì soạn thảo.

– Cơ quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm tổ chức soạn thảo dự thảo.

– Dự thảo được đăng tải trên Trang thông tin điện tử của cơ quan chủ trì soạn thảo trong thời gian ít nhất là sáu mươi ngàyđể cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến.

– Cơ quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu ý kiến góp ý để chỉnh lý dự thảo.

– Dự thảo được thông qua khi có sự thống nhất ý kiến của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ban hành nghị quyết liên tịch.

Chủ tịch Quốc hội hoặc Thủ tướng Chính phủ và người đứng đầu tổ chức chính trị – xã hội cùng ký nghị quyết liên tịch.

 

1.11 Xây dựng, ban hành thông tư liên tịch

Việc soạn thảo, ban hành thông tư liên tịch được thực hiện theo trình tự, thủ tục sau đây:

– Dự thảo thông tư liên tịch giữa Chánh án Toà án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ hoặc giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thỏa thuận, phân công cơ quan chủ trì soạn thảo.

– Cơ quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm tổ chức soạn thảo dự thảo.

– Dự thảo được đăng tải trên Trang thông tin điện tử của cơ quan chủ trì soạn thảo trong thời gian ít nhất là sáu mươi ngày để cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến.

Dự thảo thông tư liên tịch giữa Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ phải được lấy ý kiến các thành viên Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, thành viên Uỷ ban Kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

– Cơ quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm nghiên cứu ý kiến góp ý để chỉnh lý dự thảo.

– Dự thảo được thông qua khi có sự thống nhất ý kiến của các cơ quan có thẩm quyền ban hành thông tư liên tịch.

Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ cùng ký thông tư liên tịch.

 

1.12 Xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn

a) Các trường hợp xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn

Trong trường hợp khẩn cấp hoặc cần sửa đổi ngay cho phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành thì việc xây dựng, ban hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ có thể được thực hiện theo trình tự, thủ tục rút gọn.

Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định việc xây dựng, ban hành pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội theo trình tự, thủ tục rút gọn; trình Quốc hội việc xây dựng, ban hành luật, nghị quyết của Quốc hội theo trình tự, thủ tục rút gọn.

Chủ tịch nước quyết định việc áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn trong xây dựng, ban hành lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.

Thủ tướng Chính phủ quyết định việc áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn trong xây dựng, ban hành nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

 

b) Trình tự, thủ tục rút gọn việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn

Việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật được quy định như sau:

– Cơ quan chủ trì soạn thảo không nhất thiết phải thành lập Ban soạn thảo và Tổ biên tập để soạn thảo mà có thể trực tiếp tổ chức việc soạn thảo;

– Cơ quan chủ trì soạn thảo có thể tổ chức lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan về dự thảo văn bản;

– Cơ quan thẩm định có trách nhiệm thẩm định dự thảo văn bản ngay sau khi nhận được hồ sơ thẩm định; cơ quan thẩm tra có trách nhiệm thẩm tra dự thảo văn bản ngay sau khi nhận được hồ sơ thẩm tra.

 

c) Hồ sơ trình dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn

Hồ sơ trình dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn gồm:

– Tờ trình về dự án, dự thảo.

– Dự thảo văn bản.

– Báo cáo thẩm định đối với dự thảo nghị định của Chính phủ, dự thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; báo cáo thẩm tra đối với dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

 

2. Soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân

 

2.1. Soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh

Theo quy định của Luật năm 2004 thì trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được tiến hành theo các bước sau đây:

– Lập chương trình xây dựng nghị quyết (Điều 21);

– Soạn thảo nghị quyết (Điều 22);

– Lấy ý kiến về dự thảo nghị quyết (Điều 23);

– Thẩm định dự thảo nghị quyết (Điều 24);

– Uỷ ban nhân dân xem xét dự thảo nghị quyết – đối với dự thảo do Uỷ ban nhân dân trình (Điều 26);

– Thẩm tra dự thảo nghị quyết (Điều 27);

– Xem xét, thông qua dự thảo nghị quyết (Điều 29);

– Chủ tịch Hội đồng nhân dân ký chứng thực (khoản 3 Điều 29).

 

2.1.1. Lập chương trình xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.

Việc lập chương trình xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân nhằm đáp ứng yêu cầu kế hoạch hóa công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đưa công tác này dần đi vào nền nếp.

 

a) Căn cứ xây dựng chương trình

Chương trình xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân phải được xây dựng trên cơ sở sau đây:

– Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng;

– Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh;

– Yêu cầu quản lý nhà nước ở địa phương, yêu cầu bảo đảm thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên;

– Yêu cầu bảo đảm các quyền và nghĩa vụ của công dân ở địa phương.

Chương trình xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh[6]được xây dựng theo từng năm. Hội đồng nhân dân thông qua chương trình xây dựng nghị quyết cho năm tới tại kỳ họp cuối năm. Hình thức văn bản thông qua Chương trình xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân là nghị quyết. Ví dụ: Chương trình xây dựng nghị quyết năm 2006 của Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội được Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội thông qua vào kỳ họp cuối năm 2005 bằng Nghị quyết về Chương trình xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội năm 2006.

 

b) Chủ thể có quyền đề xuất

– Chủ thể có quyền đề nghị xây dựng nghị quyết: Các Ban của Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh, cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là những chủ thể có quyền đề nghị xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Trên thực tế, thường các cơ quan, tổ chức phụ trách về ngành, lĩnh vực nào thì có thể đề xuất ban hành nghị quyết quy định về ngành, lĩnh vực đó. Ví dụ: Sở Giáo dục có thể đề nghị Hội đồng nhân dân ban hành nghị quyết quy định về mức đóng học phí; Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh có thể đề nghị Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ban hành nghị quyết về xoá bỏ nhà tranh tre vách nứa.

 

c) Nội dung đề nghị ban hành nghị quyết

Để làm căn cứ cho cơ quan có thẩm quyền quyết định có đưa vào chương trình xây dựng nghị quyết hay không, các chủ thể có quyền đề nghị ban hành nghị quyết phải nêu rõ trong bản đề nghị sự cần thiết ban hành văn bản, tên văn bản, đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản, những nội dung chính của văn bản, dự báo tác động kinh tế xã hội, nguồn lực tài chính, nhân lực bảo đảm thi hành văn bản, thời điểm ban hành văn bản.

 

d) Quy trình xây dựng, xem xét thông qua Chương trình

Quy trình xây dựng Chương trình xây dựng nghị quyết được tiến hành theo các bước sau đây:

– Dự kiến của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh về Chương trình xây dựng nghị quyết:

Cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cần gửi đề nghị đến Văn phòng Uỷ ban nhân dân và khi nhận được đề nghị xây dựng nghị quyết của cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, Văn phòng Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chủ trì, phối hợp với Sở Tư pháp, Sở Nội vụ, Sở Tài chính để lập dự thảo Dự kiến chương trình xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân (theo thứ tự ưu tiên ban hành văn bản, căn cứ vào nhu cầu quản lý nhà nước, tính khả thi của văn bản và tính đồng bộ của hệthống pháp luật).

Dự thảo Dự kiến chương trình phải nêu rõ tên văn bản, đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản, nội dung chính của văn bản, tác động kinh tế – xã hội, nguồn tài chính, nhân lực bảo đảm thi hành văn bản và thời điểm ban hành của từng văn bản.

Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm xem xét, thông qua Dự kiến chương trình xây dựng nghị quyết. Văn phòng Uỷ ban nhân dân gửi Dự kiến chương trình đã được Uỷ ban nhân dân thông qua đến Văn phòng Hội đồng nhân dân cùng cấp.

– Xây dựng Dự kiến chương trình trước khi trình Thường trực Hội đồng nhân dân. Trình tự lập dự kiến chương trình xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân trước khi trình Thường trực Hội đồng nhân dân có thể được thực hiện như sau:

+ Các Ban của Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân, Tòa án nhân nhân, Viện kiểm sát nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp gửi đề nghị xây dựng chương trình đến Văn phòng Hội đồng nhân dân;

+ Văn phòng Hội đồng nhân dântổng hợp các đề nghị xây dựng chương trình (bao gồm đề nghị của các ban của Hội đồng nhân dân, Tòa án nhân nhân, Viện kiểm sát nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đại biểu Hội đồng nhân dân, dự kiến của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh về chương trình xây dựng nghị quyết); phối hợp với Văn phòng Uỷ ban nhân dân, Sở Tư pháp và các Ban có liên quan của Hội đồng nhân dân xây dựng Dự kiến chương trình trước khi trình Thường trực Hội đồng nhân dân;

+ Dự kiến chương trình phải nêu rõ tên văn bản, đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản, những nội dung chính của văn bản, cơ quan trình văn bản, cơ quan thẩm tra văn bản và thời điểm ban hành của từng văn bản.

– Thông qua Chương trình xây dựng nghị quyết

Sau khi có dự kiến chương trình xây dựng nghị quyết hàng năm, Văn phòng Hội đồng nhân dân phải trình Thường trực Hội đồng nhân dân xem xét. Theo quy định tại khoản 4 Điều 21 Luật năm 2004 thì Thường trực Hội đồng nhân dân có trách nhiệm phân công Ban của Hội đồng nhân dân thẩm tra dự thảo nghị quyết. Do đó, để thuận tiện cho việc thi hành nghị quyết về Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân sau khi được Hội đồng nhân dân thông qua, Thường trực Hội đồng nhân dân cần phân công ngay Ban có nhiệm vụ thẩm tra dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân từ giai đoạn này. Việc xác định Ban nào của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh tham gia vào việc xây dựng Dự kiến chương trình, Ban nào của Hội đồng nhân dân chịu trách nhiệm thẩm tra dự thảo nghị quyết cần căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn của các Ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được quy định tại các Điều 30 (Ban Kinh tế và ngân sách), Điều 31 (Ban Văn hoá – xã hội), Điều 32 (Ban Pháp chế), Điều 33 (Ban Dân tộc) Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân (Nghị quyết số 753/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02/4/2005 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân). Để đại biểu Hội đồng nhân dân có thời gian nghiên cứu, Dự kiến chương trình phải được gửi đến các đại biểu Hội đồng nhân dân chậm nhất là 5 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Hội đồng nhân dân[7].

Hội đồng nhân dân thảo luận, thông qua chương trình xây dựng nghị quyết tại kỳ họp cuối năm. Trong Chương trình cần xác định rõ tên văn bản, cơ quan trình văn bản, cơ quan thẩm tra văn bản, thời điểm ban hành của từng văn bản.

Sau khi Chương trình xây dựng Nghị quyết của Hội đồng nhân dân được thông qua, Văn phòng Hội đồng nhân dân có trách nhiệm gửi Nghị quyết thông qua chương trình xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân đến đại biểu Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, các cơ quan, tổ chức hữu quan.

 

đ) Điều chỉnh Chương trình

Điều chỉnh Chương trình xây dựng nghị quyết trong hai trường hợp: đưa ra khỏi chương trình xây dựng nghị quyết và bổ sung chương trình xây dựng nghị quyết với các quy trình cụ thể như sau:

Trường hợp đề nghị đưa ra khỏi Chương trình: Trong trường hợp không bảo đảm tiến độ và chất lượng soạn thảo hoặc không cần thiết phải ban hành văn bản vì lý do khách quan, cơ quan, tổ chức, cá nhân đề nghị xây dựng nghị quyết có thể đề nghị đưa ra khỏi chương trình xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân văn bản đã dự kiến. Trong trường hợp này, cơ quan, tổ chức, cá nhân phải có Tờ trình gửi Thường trực Hội đồng nhân dân, đồng thời gửi Uỷ ban nhân dân, trong đó phải giải trình rõ lý do đề nghị đưa ra khỏi Chương trình.

– Trường hợp đề nghị bổ sung chương trình: do phát sinh nhu cầu ban hành văn bản, cơ quan đã đề nghị xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân và các cơ quan, tổ chức khác có thể đề nghị bổ sung vào chương trình xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

+ Chủ thể đề nghị bổ sung chương trình: cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền đề nghị xây dựng nghị quyết có thể đề nghị bổ sung chương trình xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Khi đề nghị, cơ quan, tổ chức, cá nhân gửi Tờ trình đến Thường trực Hội đồng nhân dân, đồng thời gửi Uỷ ban nhân dân. Tờ trình phải có dự kiến tên văn bản, cần xây dựng đối tượng, phạm vi điều chỉnh, những nội dung chính của văn bản, thời điểm ban hành văn bản, dự báo tác động kinh tế – xã hội, nguồn tài chính, nhân lực bảo đảm thi hành phải được nêu trong Tờ trình;

+ Quy trình bổ sung chương trình: Quy trình bổ sung chương trình được thực hiện tương tự như quy trình xây dựng chương trình;

+ Thẩm quyền điều chỉnh chương trình:Căn cứ vào đề nghị điều chỉnh chương trình xây dựng nghị quyết và yêu cầu quản lý của địa phương, Thường trực Hội đồng nhân dân phối hợp với Uỷ ban nhân dân điều chỉnh chương trình và báo cáo Hội đồng nhân dân tại kỳ họp gần nhất.

 

2.1.2. Soạn thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh

Trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được quy định tại Mục 1 Chương III của Luật năm 2004. Soạn thảo là thủ tục bao gồm các công đoạn khác nhau (lập chương trình xây dựng văn bản, xây dựng văn bản, tổ chức lấy ý kiến về dự thảo, kiểm tra trước dự thảo, lập hồ sơ để trình dự thảo văn bản). Tại đây, soạn thảo được đề cập như một bước trong toàn bộ quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và được thực hiện với mục đích chính là chuẩn bị dự thảo văn bản. Theo nghĩa này, việc soạn thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được quy định tại Điều 22 của Luật năm 2004.

 

a) Chủ thể soạn thảo

Theo khoản 1 Điều 22 của Luật năm 2004, dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh do Uỷ ban nhân dân trình hoặc do cơ quan, tổ chức khác trình. Khoản 2 Điều 22 của Luật quy định “Cơ quan trình dự thảo nghị quyết tổ chức việc soạn thảo hoặc phân công cơ quan soạn thảo”.

Như vậy, trong trường hợp Uỷ ban nhân dân là cơ quan trình dự thảo nghị quyết thì việc soạn thảo thường được giao cho cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân theo nguyên tắc: cơ quan giúp Uỷ ban nhân dân quản lý nhà nước về lĩnh vực nào thì soạn thảo văn bản về lĩnh vực đó. Bên cạnh đó, có sự phối hợp trong hoạt động soạn thảo giữa các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân khi văn bản liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của địa phương. Việc phân công soạn thảo và phân công phối hợp phải được thể hiện bằng văn bản do Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ký.

Trong trường hợp cần thiết, tuỳ theo tính chất và nội dung của dự thảo nghị quyết, cơ quan trình có thể thành lập Tổ soạn thảo (liên ngành, liên cơ quan). Việc thành lập Tổ soạn thảo nghị quyết thực hiện theo quyết định của thủ trưởng cơ quan chủ trì soạn thảo đối với các nghị quyết phức tạp, có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực hay để giải quyết một vấn đề mới, có ảnh hưởng lớn đến nhân dân địa phương. Trong văn bản thành lập Tổ soạn thảo phải nêu rõ thành phần gồm cơ quan chủ trì, cơ quan tham gia với tư cách thành viên Tổ soạn thảo; nhiệm vụ chính của Tổ soạn thảo và tiến độ thực hiện.

 

b) Nhiệm vụ của cơ quan soạn thảo

Nhiệm vụ của cơ quan soạn thảo được xác định tại khoản 3 Điều 22 của Luật năm 2004. Trường hợp cơ quan trình đồng thời là cơ quan soạn thảo thì cơ quan trình phải thực hiện các nhiệm vụ của cơ quan soạn thảo. Cơ quan soạn thảo thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau đây:

– Khảo sát, đánh giá thực trạng các quan hệ xã hội ở địa phương liên quan đến dự thảo.

– Nghiên cứu đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và thông tin, tư liệu có liên quan đến dự thảo.

– Xây dựng dự thảo và Tờ trình dự thảo nghị quyết; xác định văn bản, điều, khoản, điểm của văn bản dự kiến sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ, bãi bỏ.

– Tập hợp, nghiên cứu tiếp thu ý kiến và chỉnh lý dự thảo nghị quyết.

 

2.1.3. Lấy ý kiến khi soạn thảo nghị quyết

Một trong những nguyên tắc cơ bản của quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của địa phương là phải bảo đảm sự tham gia góp ý của cơ quan, tổ chức, cá nhân về dự thảo văn bản. Việc lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức, cá nhân là nhằm bảo đảm tính dân chủ, minh bạch, công khai trong việc hoạch định chính sách của các cơ quan nhà nước, đồng thời, bảo đảm sự tham gia của người dân vào quá trình này. Bên cạnh đó, cũng chính nhờ sự góp ý của các cơ quan, tổ chức, cá nhân mà tính khả thi của văn bản cũng được bảo đảm. Vì thế, Điều 23 của Luật năm 2004 quy định:

Căn cứ vào tính chất và nội dung của dự thảo nghị quyết, cơ quan soạn thảo tổ chức lấy ý kiến của cơ quan, tổ chức hữu quan, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của nghị quyết.

Cơ quan, tổ chức hữu quan được lấy ý kiến có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày nhận được dự thảo nghị quyết.

Trong trường hợp lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của nghị quyết thì cơ quan lấy ý kiến có trách nhiệm xác định những vấn đề cần lấy ý kiến, địa chỉ nhận ý kiến và dành ít nhất bảy ngày, kể từ ngày tổ chức lấy ý kiến để các đối tượng được lấy ý kiến góp ý vào dự thảo nghị quyết.”

 

– Các đối tượng cần và phải lấy ý kiến:

Để tiến hành lấy ý kiến góp ý vào dự thảo nghị quyết, cơ quan soạn thảo cần xác định đối tượng cần và phải lấy ý kiến trên cơ sở căn cứ vào tính chất và nội dung của dự thảo nghị quyết. Theo quy định tại Điều 23 của Luật năm 2004 thì đối tượng lấy ý kiến ở đây bao gồm: cơ quan, tổ chức hữu quan, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của nghị quyết.

– Phương thức lấy ý kiến: Việc lấy ý kiến của cơ quan, tổ chức, cá nhân và đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân ban hành có thể được thực hiện dưới các hình thức sau đây:

+ Lấy ý kiến trực tiếp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan thông qua các cuộc họp, hội nghị, hội thảo;

+ Lấy ý kiến thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua Internet;

+ Lấy ý kiến qua việc tiến hành khảo sát, phát các phiếu hỏi tới các đối tượng;

+ Các hình thức khác: qua đường bưu điện, giới thiệu ở các câu lạc bộ, qua sinh hoạt của các cơ quan, tổ chức,…

– Tiếp thu ý kiến:

Khi nhận được các ý kiến góp ý, cơ quan soạn thảo phải nghiên cứu và tiếp thu trong trường hợp ý kiến là hợp lý, trường hợp không hợp lý, cơ quan soạn thảo cần có giải trình trong tờ trình lý do không tiếp thu. Thủ trưởng cơ quan soạn thảo có trách nhiệm chỉ đạo việc tiếp thu ý kiến và tổ chức tập hợp ý kiến. Các ý kiến góp ý phải được đưa vào hồ sơ để các cơ quan liên quan tham khảo trong quá trình thẩm định, thẩm tra, xem xét, thông qua văn bản (ví dụ: cơ quan thẩm định, Uỷ ban nhân dân, cơ quan thẩm tra, Hội đồng nhân dân).

 

2.1.3. Thẩm định dự thảo nghị quyết

Thẩm định dự thảo nghị quyết là khâu quan trọng vì đây chính là hoạt động xem xét, đánh giá về nội dung và hình thức của dự thảo nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ của dự thảo trong hệ thống pháp luật và việc tuân thủ trình tự, thủ tục soạn thảo của dự thảo. Vì vậy, việc thẩm định dự thảo nghị quyết phải bảo đảm tính khách quan, tuân thủ trình tự, thủ tục thẩm định theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân.

Theo quy định tại Điều 24 của Luật năm 2004 thì dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh do Uỷ ban nhân dân cùng cấp trình phải được Sở Tư pháp thẩm định trước khi trình Uỷ ban nhân dân.

 

a) Hồ sơ gửi thẩm định, thời gian gửi thẩm định

– Hồ sơ gửi thẩm định dự thảo nghị quyết gồm:

– Công văn yêu cầu thẩm định.

– Tờ trình.

– Dự thảo nghị quyết.

– Bản tổng hợp ý kiến về dự thảo nghị quyết.

– Các tài liệu có liên quan.

 

b) Thời gian gửi thẩm định dự thảo nghị quyết

Điều 24 của Luật năm 2004 quy định: “Chậm nhất là mười lăm ngày trước ngày Uỷ ban nhân dân họp, cơ quan soạn thảo phải gửi hồ sơ dự thảo nghị quyết đến cơ quan tư pháp để thẩm định”. Cần lưu ý đây là khoảng thời gian tối thiểu gửi văn bản đến Sở Tư pháp để thẩm định.

 

c) Tiếp nhận hồ sơ thẩm định, phân công thẩm định dự thảo nghị quyết

– Tiếp nhận hồ sơ thẩm định:

Ngay sau khi nhận được hồ sơ thẩm định, Văn phòng của Sở Tư pháp có trách nhiệm tiếp nhận và kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ thẩm định. Trong trường hợp hồ sơ gửi thẩm định không đầy đủ hoặc không hợp lệ theo quy định, Chánh văn phòng Sở Tư pháp thừa lệnh Giám đốc Sở ký công văn đề nghị cơ quan yêu cầu thẩm định bổ sung, hoàn chỉnh hồ sơ.

– Phân công thẩm định dự thảo nghị quyết:

Văn phòng Sở có trách nhiệm trình Lãnh đạo Sở hồ sơ thẩm định để phân công thẩm định. Căn cứ vào nội dung dự thảo mà Lãnh đạo Sở phân công đơn vị thẩm định. Về nguyên tắc, đơn vị quản lý, phụ trách lĩnh vực nào thì thẩm định dự thảo liên quan đến lĩnh vực đó. Trong trường hợp nội dung dự thảo liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, thì Lãnh đạo Sở phân công một đơn vị chủ trì thẩm định và các đơn vị liên quan phối hợp thẩm định.

 

d) Phạm vi thẩm định dự thảo nghị quyết

– Sự cần thiết ban hành nghị quyết.

– Đối tượng, phạm vi điều chỉnh của dự thảo nghị quyết.

– Tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo nghị quyết với hệ thống pháp luật.

– Ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo văn bản.

– Tính khả thi của dự thảo nghị quyết

 

đ) Gửi báo cáo thẩm định

Theo quy định, chậm nhất là bảy ngày trước ngày Uỷ ban nhân dân họp, Sở Tư pháp gửi báo cáo thẩm định đến cơ quan soạn thảo.

 

e) Trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu ý kiến thẩm định để chỉnh lý dự thảo nghị quyết

Ngay sau khi nhận được báo cáo thẩm định, cơ quan soạn thảo có trách nhiệm nghiên cứu nội dung báo cáo thẩm định, tiếp thu ý kiến thẩm định của Sở Tư pháp để chỉnh lý dự thảo nghị quyết trước khi trình Uỷ ban nhân dân.

Bản giải trình hoặc tờ trình và dự thảo đã chỉnh lý theo ý kiến thẩm định được bộ phận văn phòng của cơ quan soạn thảo sao gửi đến Sở Tư pháp và Văn phòng Uỷ ban nhân dân.

 

2.1.4. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định trình dự thảo nghị quyết (đối với dự thảo nghị quyết do Uỷ ban nhân dân trình)

a) Hồ sơ dự thảo nghị quyết trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh

Cơ quan soạn thảo có trách nhiệm gửi hồ sơ dự thảo nghị quyết đến Văn phòng Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để chuyển đến các thành viên Uỷ ban nhân dân chậm nhất là ba ngày trước ngày Uỷ ban nhân dân họp.

Theo quy định của Luật năm 2004 thì hồ sơ dự thảo nghị quyết bao gồm:

– Tờ trình;

– Dự thảo nghị quyết;

– Báo cáo thẩm định;

– Các tài liệu có liên quan.

 

b) Uỷ ban nhân dân xem xét, quyết định việc trình dự thảo nghị quyết

Uỷ ban nhân dân có trách nhiệm xem xét, thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số để quyết định việc trình dự thảo nghị quyết ra Hội đồng nhân dân cùng cấp.

Việc xem xét, thảo luận, quyết định việc trình dự thảo nghị quyết tại phiên họp Uỷ ban nhân dân được tiến hành theo trình tự sau đây:

– Đại diện cơ quan soạn thảo trình bày dự thảo nghị quyết;

– Đại diện Sở Tư pháp trình bày báo cáo thẩm định;

– Uỷ ban nhân dân thảo luận và biểu quyết thông qua việc quyết định trình Hội đồng nhân dân dự thảo nghị quyết.

 

2.1.5. Thẩm tra dự thảo nghị quyết

a) Cơ quan thẩm tra dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân

Theo quy định tại Điều 27 của Luật năm 2004 thì dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phải được các ban của Hội đồng nhân dân cùng cấp thẩm tra trước khi trình Hội đồng nhân dân. Do vậy, việc phân công cho từng ban của hội đồng nhân dân thẩm tra các dự thảo nghị quyết cụ thể đã được Thường trực Hội đồng nhândân xác định rõ trong Chương trình xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

 

b) Hồ sơ thẩm tra

Chậm nhất là mười lăm ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Hội đồng nhân dân, cơ quan trình dự thảo nghị quyết gửi hồ sơ dự thảo nghị quyết đến Ban của Hội đồng nhân dân được phân công thẩm tra để thẩm tra.

Hồ sơ gửi thẩm tra bao gồm:

– Tờ trình;

– Dự thảo nghị quyết;

– Các tài liệu có liên quan.

 

c) Phạm vi thẩm tra dự thảo nghị quyết

Theo quy định của Luật năm 2004 thì việc thẩm tra dự thảo nghị quyết tập trung vào các nội dung sau:

– Sự phù hợp của nội dung dự thảo nghị quyết với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng;

– Sự phù hợp của nội dung dự thảo nghị quyết với tình hình, điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của địa phương;

– Tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo nghị quyết với hệ thống pháp luật.

 

d) Trình tự thẩm tra dự thảo nghị quyết

Việc thẩm tra dự thảo nghị quyết được thực hiện theo trình tự sau đây:

– Đại diện cơ quan, tổ chức trình dự thảo nghị quyết;

– Đại diện cơ quan, tổ chức hữu quan phát biểu ý kiến;

– Ban thẩm tra thảo luận;

– Đại diện cơ quan, tổ chức trình dự thảo nghị quyết phát biểu ý kiến nếu thấy cần thiết;

– Chủ tọa cuộc họp kết luận;

– Ban được phân công thẩm tra biểu quyết để làm cơ sở cho việc viết báo cáo thẩm tra.

 

đ) Nội dung báo cáo thẩm tra

Báo cáo thẩm tra được giao cho cá nhân chuẩn bị trên cơ sở kết quả biểu quyết của Ban được giao thẩm tra. Nội dung của báo cáo thẩm tra phải nêu được ý kiến đánh giá của Ban về dự thảo nghị quyết, những vấn đề được Ban nhất trí, không nhất trí và còn có ý kiến khác nhau, những kiến nghị sửa đổi, bổ sung.

Sau khi hoàn thành dự thảo báo cáo, đại diện Ban được phân công thẩm tra đọc dự thảo báo cáo thẩm tra, hoàn thiện báo cáo, thay mặt Ban ký báo cáo.

 

e) Gửi báo cáo thẩm tra

Sau khi báo cáo thẩm tra được hoàn thiện, Ban được phân công thẩm tra có trách nhiệm gửi báo cáo thẩm tra đến Thường trực Hội đồng nhân dân chậm nhất là bảy ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Hội đồng nhân dân.

 

2.1.6. Hội đồng nhân dân xem xét, thông qua dự thảo nghị quyết

a) Hồ sơ dự thảo nghị quyết trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh

Văn phòng Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm gửi hồ sơ dự thảo nghị quyết đến đại biểu Hội đồng nhân dân chậm nhất là năm ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Hội đồng nhân dân.

Theo quy định tại Điều 28 của Luật năm 2004 thì hồ sơ dự thảo nghị quyết để gửi đến đại biểu Hội đồng nhân dân bao gồm:

– Tờ trình và dự thảo nghị quyết;

– Báo cáo thẩm tra;

– Ý kiến của Uỷ ban nhân dân đối với dự thảo nghị quyết do cơ quan, tổ chức khác trình;

– Các tài liệu có liên quan.

 

b) Trình tự xem xét, thông qua

Điều 29 của Luật năm 2004 quy định trình tự Hội đồng nhân dân cấp tỉnh xem xét, thông qua dự thảo nghị quyết. Điều 16 Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân còn quy định cụ thể thêm một bước nữa, theo đó,Hội đồng nhân dân xem xét, thông qua dự thảo nghị quyết theo trình tự sau đây:

– Đại diện cơ quan, tổ chức trình bày dự thảo nghị quyết.

– Trưởng ban thẩm tra trình bày báo cáo thẩm tra nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

– Hội đồng nhân dân thảo luận.

Trước khi thảo luận tại phiên họp toàn thể, Hội đồng nhân dân có thể tổ chức thảo luận ở Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân.

Việc thảo luận tại phiên họp toàn thể được thực hiện theo các bước sau đây:

+ Thảo luận tại phiên họp toàn thể, Chủ tọa nêu những vấn đề cơ bản, những vấn đề còn có ý kiến khác nhau để đại biểu Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định.

+ Thường trực Hội đồng nhân dân chỉ đạo cơ quan, tổ chức trình dự thảo nghị quyết tiếp thu, chỉnh lý dự thảo theo ý kiến của đại biểu Hội đồng nhân dân. Cơ quan, tổ chức trình dự thảo nghị quyết báo cáo về việc tiếp thu, chỉnh lý.

+ Đại biểu Hội đồng nhân dân thảo luận về dự thảo đã được chỉnh lý. Chủ tọa kết thúc việc thảo luận và đề nghị biểu quyết.

Hội đồng nhân dân biểu quyết thông qua dự thảo nghị quyết bằng cách biểu quyết từng vấn đề, sau đó biểu quyết toàn bộ hoặc nghe đọc toàn văn rồi biểu quyết toàn bộ một lần hoặc biểu quyết những vấn đề còn có ý kiến khác nhau rồi biểu quyết toàn bộ.

Dự thảo nghị quyết được thông qua khi có quá nửa tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân biểu quyết tán thành.

 

c) Chỉnh lý về mặt kỹ thuật dự thảo nghị quyết

Thường trực Hội đồng nhân dân chỉ đạo cơ quan, tổ chức soạn thảo, Văn phòng Hội đồng nhân dân chỉnh lý về mặt kỹ thuật dự thảo nghị quyết trước khi trình Chủ tịch Hội đồng nhân dân ký chứng thực. Khi chỉnh lý, không được làm thay đổi nội dung dự thảo đã được Hội đồng nhân dân thông qua.

 

d) Chủ tịch Hội đồng nhân dân ký chứng thực nghị quyết

Nghị quyết của Hội đồng nhân dân phải được Chủ tịch Hội đồng nhân dân ký chứng thực trước khi đăng trên báo cấp tỉnh. Trong trường hợp vắng mặt, Chủ tịch Hội đồng nhân dân có thể ủy quyền cho Phó Chủ tịch ký chứng thực.

 

2.1.7. Công bố nghị quyết

Nhằm bảo đảm tính minh bạch, công khai của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, Điều 8 và Điều 51 của Luật năm 2004 xác định nguyên tắc:

Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phải được đăng Công báo cấp tỉnh; phải được đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương và phải được đăng trên báo cấp tỉnh.

 

a) Đăng báo nghị quyết

Theo Điều 51 của Luật năm 2004 thì nghị quyết của Hội đồng nhân dân phải được đăng trên báo cấp tỉnh chậm nhất là năm ngày, kể từ ngày Hội đồng nhân dân thông qua, do vậy, Văn phòng Hội đồng nhân dân có trách nhiệm gửi đăng báo ngay sau khi nghị quyết được ký chứng thực trong thời hạn chậm nhất là 03 ngày.

Cơ quan báo chí có trách nhiệm đăng báo chậm nhất là 02 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản.

Văn bản gửi đăng báo phải là bản chính.

Việc đăng báo nghị quyết của Hội đồng nhân dân trước khi nghị quyết có hiệu lực là nhằm mục đích để mọi tổ chức, cá nhân có điều kiện cập nhật với văn bản. Do vậy, dự thảo phải được đăng trên báo in cấp tỉnh, mà không phải là báo điện tử. Việc đăng dự thảo trên báo in là bắt buộc, ngoài ra, khuyến khích hình thức đăng trên báo điện tử.

 

b) Đăng Công báo nghị quyết

Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phải được Văn phòng Hội đồng nhân dân gửi Văn phòng Uỷ ban nhân dân để đăng Công báo cấp tỉnh trong thời hạn chậm nhất là ba mươi ngày kể từ ngày Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thông qua. Văn phòng Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm tổ chức việc đăng Công báo văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Nghị quyết gửi đăng Công báo phải là bản chính.

Giá trị pháp lý của nghị quyết đăng Công báo cấp tỉnh:

Nghị quyết của Hội đồng nhân dân đăng Công báo có giá trị như bản chính, là văn bản chính thức có giá trị sử dụng trong trường hợp có sự khác biệt giữa nghị quyết đăng Công báo và nghị quyết có từ các nguồn khác hoặc khi có tranh chấp pháp lý.

Các nghị quyết của Hội đồng nhân dân được đăng báo, đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, do các nhà xuất bản, các cơ quan thông tin đại chúng in, xuất bản chỉ có giá trị tham khảo.

 

c) Các hình thức khác

Ngoài việc đăng báo, đăng Công báo cấp tỉnh, nghị quyết của Hội đồng nhân dân còn được đưa tin trên đài phát thanh, đài truyền hình địa phương và nếu được niêm yết tại nhà văn hoá cấp huyện, cấp xã; nhà văn hoá của thôn, làng, ấp, bản, phum, sóc, cụm dân cư, tổdân phố; trung tâm giáo dục cộng đồng, các điểm bưu điện – văn hóa của địa phương, các điểm tập trung dân cư khác thì càng tốt. Ở những địa phương có các bản tin hay có trang Web thì nên đăng tải nghị quyết của Hội đồng nhân dân lên các bản tin, các trang này.

 

2.2. Soạn thảo, ban hành quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh

Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thì trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh được tiến hành theo các bước sau đây:

– Lập chương trình xây dựng quyết định, chỉ thị (Điều 35);

– Soạn thảo quyết định, chỉ thị (Điều 36);

– Lấy ý kiến về dự thảo quyết định, chỉ thị (Điều 37);

– Thẩm định dự thảo quyết định, chỉ thị (Điều 38);

– Uỷ ban nhân dân xem xét, thông qua dự thảo quyết định, chỉ thị (Điều 40);

– Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thay mặt ký ban hành quyết định, chỉ thị (Điều 40).

 

2.2.1. Lập chương trình xây dựng quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh

Chương trình xây dựng quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnhđược xây dựng hàng năm. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thông qua chương trình xây dựng quyết định, chỉ thị của mình tại phiên họp tháng một hàng năm. Hình thức văn bản thông qua Chương trình xây dựng quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là quyết định.

 

a) Chủ thể có quyền đề nghị xây dựng quyết định, chỉ thị

Cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có quyền đề nghị xây dựng quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Trên thực tế, thường các cơ quan phụ trách về ngành, lĩnh vực nào thì có đề xuất ban hành quyết định quy định về vấn đề mà mình quan tâm.

Ví dụ: – Quyết định về kinh phí hỗ trợ xây dựng văn bản quy phạm pháp luật do Sở Tư pháp đề nghị;

– Chỉ thị về việc tăng cường và nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh do Sở Tư pháp đề nghị;

 

b) Căn cứ để xây dựng chương trình

Căn cứ để xây dựng Chương trình xây dựng quyết định, chỉ thị hàng năm của Uỷ ban nhân dân bao gồm:

– Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng;

– Yêu cầu quản lý nhà nước ở địa phương;

– Các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.

 

c) Nội dung đề nghị ban hành quyết định, chỉ thị

Để làm căn cứ cho cơ quan có thẩm quyền quyết định có đưa vào chương trình xây dựng quyết định, chỉ thị hay không, cơ quan có quyền đề nghị ban hành quyết định, chỉ thị phải nêu rõ trong bản đề nghị sự cần thiết ban hành văn bản, tên văn bản, đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản, những nội dung chính của văn bản, dự báo tác động kinh tế – xã hội, dự kiến nguồn tài chính, nhân lực bảo đảm thi hành văn bản, thời điểm ban hành văn bản.

 

d) Quy trình xây dựng, xem xét thông qua Chương trình

Quy trình xây dựng Chương trình xây dựng quyết định, chỉ thị được tiến hành theo các bước sau đây:

– Xây dựng chương trình xây dựng quyết định, chỉ thị: cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh gửi đề nghị xây dựng quyết định, chỉ thị đến Văn phòng Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Văn phòng Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chủ trì, phối hợp với Sở Tư pháp giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh lập chương trình xây dựng quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân theo thứ tự ưu tiên ban hành văn bản, căn cứ vào nhu cầu quản lý nhà nước, tính khả thi của văn bản và tính đồng bộ của hệthống pháp luật.

Để có cơ sở cho Uỷ ban nhân dân xem xét thông qua, dự thảo chương trình cần nêu rõ tên văn bản, sự cần thiết ban hành văn bản, đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản, nội dung chính của văn bản, cơ quan soạn thảo văn bản dự báo tác động kinh tế – xã hội, nguồn tài chính, nguồn nhân lực và thời điểm ban hành của từng văn bản.

– Thông qua Chương trình xây dựng quyết định, chỉ thị: chương trình xây dựng quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân được thông qua tại phiên họp tháng một hàng năm của Uỷ ban nhân dân.

Để các thành viên Uỷ ban nhân dân có thời gian nghiên cứu, Dự thảo chương trình phải được Văn phòng Uỷ ban nhân dân gửi đến thành viên Uỷ ban nhân dân chậm nhất là 5 ngày trước ngày Uỷ ban nhân dân họp.Tên văn bản, cơ quan trình văn bản, thời điểm ban hành của từng văn bản phải được xác định ngay trong Chương trình.

Văn phòng Uỷ ban nhân dân gửi Quyết định về Chương trình xây dựng quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân đến các thànhviên Uỷ ban nhân dân, các cơ quan, tổ chức hữu quan.

 

đ) Điều chỉnh chương trình

– Trường hợp đề nghị đưa ra khỏi chương trình: Trong trường hợp không bảo đảm tiến độ và chất lượng soạn thảo hoặc không cần thiết phải ban hành văn bản vì lý do khách quan, cơ quan đề nghị xây dựng quyết định, chỉ thị có thể đề nghị đưa ra khỏi chương trình xây dựng quyết định, chỉ thị văn bản đã dự kiến.

Trong các trường hợp này, cơ quan đề nghị đưa ra khỏi chương trình phải có Tờ trình gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, Văn phòng Uỷ ban nhân dân, trong đó nêu rõ lý do đưa ra khỏi chương trình.

– Trường hợp đề nghị bổ sung chương trình:do phát sinh nhu cầu ban hành văn bản, cơ quan đã đề nghị xây dựng quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân và các cơ quan khác thuộc Ủy ban nhân dân có thể đề nghị bổ sung vào chương trình xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

– Chủ thể đề nghị: cơ quan có quyền đề nghị xây dựng quyết định, chỉ thị có thể đề nghị bổ sung chương trình xây dựng quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân. Khi đề nghị, cơ quan gửi Tờ trình đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, Văn phòng Uỷ ban nhân dân. Dự kiến tên văn bản, đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản, những nội dung chính của văn bản, dự báo tác động kinh tế – xã hội, dự kiến nguồn tài chính, nhân lực bảo đảm thi hành văn bản, thời điểm ban hành văn bản phải được nêu trong Tờ trình.

– Quy trình bổ sung chương trình:quy trình bổ sung chương trình được thực hiện tương tự như quy trình xây dựng chương trình.

– Thẩm quyền điều chỉnh chương trình:căn cứ vào đề nghị điều chỉnh chương trình xây dựng quyết định, chỉ thị và yêu cầu quản lý của địa phương, Uỷ ban nhân dân quyết định điều chỉnh chương trình.

 

2.2.2. Soạn thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh

a) Chủ thể soạn thảo

Theo quy định tại Điều 36 của Luật năm 2004 thì “tuỳ theo tính chất và nội dung của quyết định, chỉ thị, Uỷ ban nhân dân tổ chức việc soạn thảo hoặc phân công cơ quan soạn thảo quyết định, chỉ thị”. Theo đó, Uỷ ban nhân dân chỉ định cơ quan soạn thảo và cơ quan đó tổ chức việc soạn thảo văn bản trong trường hợp quyết định, chỉ thị liên quan đến một ngành, lĩnh vực công tác do một sở phụ trách thì Uỷ ban nhân dân có thể giao cho cơ quan đó soạn thảo văn bản.

Trường hợp văn bản có nội dung liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực hay phức tạp, cơ quan chuyên môn được Uỷ ban nhân dân phân công soạn thảo có thể ra quyết định thành lập Tổ soạn thảo gồm đại diện của các cơ quan, tổ chức liên quan (trước khi quyết định thành lập, có thể xin ý kiến bằng văn bản của lãnh đạo Uỷ ban nhân dân). Trong quyết định thành lập Tổ soạn thảo phải xác định rõ nhiệm vụ của Tổ trưởng (là thủ trưởng cơ quan soạn thảo), nhiệm vụ của thành viên (theo sự lựa chọn hay đề xuất của thủ trưởng cơ quan soạn thảo), trách nhiệm của cơ quan soạn thảo trong việc bảo đảm các điều kiện cho hoạt động soạn thảo của Tổ soạn thảo.

 

b) Nhiệm vụ của cơ quan soạn thảo

Nhiệm vụ của cơ quan soạn thảo được xác định tại khoản 2 Điều 36 của Luật năm 2004, gồm:

– Khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội ở địa phương liên quan đến dự thảo.

– Nghiên cứu đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp và thông tin, tư liệu có liên quan đến dự thảo.

– Xây dựng dự thảo và tờ trình dự thảo quyết định, chỉ thị xác định văn bản, điều, khoản, điểm của văn bản dự kiến sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ, bãi bỏ.

– Tổng hợp, nghiên cứu tiếp thu ý kiến và chỉnh lý dự thảo quyết định, chỉ thị.

 

2.2.3. Lấy ý kiến về dự thảo quyết định, chỉ thị

Điều 37 của Luật năm 2004 quy định: căn cứ vào tính chất và nội dung của dự thảo quyết định, chỉ thị, cơ quan soạn thảo tổ chức lấy ý kiến của cơ quan, tổ chức hữu quan, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của quyết định, chỉ thị.

Cơ quan, tổ chức hữu quan được lấy ý kiến có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày nhận được dự thảo quyết định, chỉ thị.

Trong trường hợp lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của quyết định, chỉ thị thì cơ quan lấy ý kiến có trách nhiệm xác định những vấn đề cần lấy ý kiến, địa chỉ nhận ý kiến và dành ít nhất bảy ngày, kể từ ngày tổ chức lấy ý kiến để các đối tượng được lấy ý kiến góp ý vào dự thảo quyết định, chỉ thị”.

 

a) Đối tượng cần và phải lấy ý kiến

Theo quy định tại Điều 37 của Luật năm 2004 thì đối tượng lấy ý kiến ở đây bao gồm: cơ quan, tổ chức hữu quan, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của nghị quyết.

– Lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức hữu quan.

– Xác định đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của quyết định.

Trách nhiệm của cơ quan tổ chức lấy ý kiến:

Để các đối tượng được lấy ý kiến có thời gian nghiên cứu dự thảo, cũng là để tránh việc lấy ý kiến mang tính hình thức, cơ quan lấy ý kiến có trách nhiệm xác định những vấn đề cần lấy ý kiến, địa chỉ nhận ý kiến và dành ít nhất bảy ngày, kể từ ngày tổ chức lấy ý kiến để các đối tượng được lấy ý kiến góp ý vào dự thảo quyết định, chỉ thị, trong trường hợp lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của quyết định, chỉ thị.

 

b) Phương thức lấy ý kiến

Việc lấy ý kiếncủa cơ quan, tổ chức, cá nhân và đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản quy phạm pháp luật do Uỷ ban nhân dân ban hành có thể được thực hiện dưới các hình thức sau đây:

– Lấy ý kiến trực tiếp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan thông qua các cuộc họp, hội nghị, hội thảo;

– Lấy ý kiến thông qua các phương tiện thông tin đại chúng; Internet;

– Lấy ý kiến qua việc tiến hành khảo sát, phát các phiếu hỏi tới các đối tượng;

– Các hình thức lấy ý kiến khác.

 

c) Tiếp thu ý kiến

Các ý kiến góp ý phải được cơ quan soạn thảo nghiên cứu, nếu hợp lý thì tiếp thu ý kiến để chỉnh lý dự thảo văn bản; trường hợp không hợp lý, nên giải trình rõ trong tờ trình. Thủ trưởng cơ quan soạn thảo có trách nhiệm chỉ đạo việc tiếp thu ý kiến.

Thủ trưởng cơ quan soạn thảo có trách nhiệm tổ chức tập hợp ý kiến.Các ý kiến góp ý phải được đưa vào hồ sơ để cơ quan có thẩm quyền tham khảo (như cơ quan thẩm định, Uỷ ban nhân dân).

 

2.2.4. Thẩm định dự thảo quyết định, chỉ thị

Theo quy định tại Điều 38 của Luật năm 2004 thì dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải được Sở Tư pháp thẩm định trước khi trình Uỷ ban nhân dân.

 

a) Hồ sơ gửi thẩm định, thời gian gửi thẩm định

– Hồ sơ gửi thẩm định bao gồm:

+ Công văn yêu cầu thẩm định;

+ Tờ trình và dự thảo quyết định, chỉ thị;

+ Bản tổng hợp ý kiến về dự thảo quyết định, chỉ thị;

+ Các tài liệu có liên quan.

– Thời gian gửi thẩm định dự thảo quyết định, chỉ thị

Khoản 1 Điều 38 của Luật năm 2004 quy định: “Chậm nhất là mười lăm ngày trước ngày Uỷ ban nhân dân họp, cơ quan soạn thảo phải gửi hồ sơ dự thảo quyết định, chỉ thị đến cơ quan tư pháp để thẩm định”. Cần lưu ý đây là khoảng thời gian tối thiểu gửi văn bản đến Sở Tư pháp để thẩm định. Trên thực tế, có những dự thảo quyết định, chỉ thị liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, liên quan đến nhiều văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên thì cơ quan soạn thảo nên gửi dự thảo sớm hơn, tạo điều kiện cho cán bộ làm công tác thẩm định có thời gian thu thập, nghiên cứu các tài liệu liên quan đến dự thảo để nâng cao chất lượng của công văn thẩm định.

 

b) Tiếp nhận hồ sơ thẩm định, phân công thẩm định dự thảo quyết định, chỉ thị

– Tiếp nhận hồ sơ thẩm định:

Ngay sau khi nhận được hồ sơ thẩm định, Văn phòng Sở Tư pháp có trách nhiệm tiếp nhận và kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ thẩm định. Trong trường hợp hồ sơ gửi thẩm định không đầy đủ hoặc không hợp lệ theo quy định (ví dụ: thiếu tờ trình, dự thảo quyết định, chỉ thị gửi thẩm định chưa được chỉnh lý sau khi lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức, các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản hoặc thiếu bảng tổng hợp ý kiến về dự thảo…). Chánh văn phòng Sở Tư pháp thừa lệnh Giám đốc Sở ký công văn đề nghị cơ quan yêu cầu thẩm định bổ sung, hoàn chỉnh hồ sơ.

– Phân công thẩm định dự thảo quyết định, chỉ thị:

Văn phòng Sở có trách nhiệm trình Lãnh đạo Sở hồ sơ thẩm định để phân công thẩm định. Căn cứ vào nội dung dự thảo mà Lãnh đạo Sở phân công đơn vị thẩm định. Về nguyên tắc, đơn vị quản lý, phụ trách lĩnh vực nào thì thẩm định dự thảo liên quan đến lĩnh vực đó. Trong trường hợp nội dung dự thảo liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, thì Lãnh đạo Sở phân công một đơn vị chủ trì thẩm định và các đơn vị liên quan phối hợp thẩm định.

 

c) Phạm vi thẩm định dự thảo quyết định, chỉ thị

Phạm vi thẩm định bao gồm:

– Sự cần thiết ban hành, đối tượng, phạm vi điều chỉnh của dự thảo quyết định, chỉ thị;

– Tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo quyết định, chỉ thị với hệ thống pháp luật;

– Ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo văn bản.

 

d) Tổ chức thẩm định

Ngay sau khi được phân công thẩm định, Thủ trưởng đơn vị được phân công thẩm định trực tiếp hoặc phân công cán bộ đã trực tiếp tham gia soạn thảo dự thảo hoặc cán bộ được giao theo dõi mảng công việc liên quan đến nội dung dự thảo viết báo cáo thẩm định.

Để công văn thẩm định đạt kết quả tốt, trước khi viết báo cáo thẩm định, thủ trưởng đơn vị được giao thẩm định có thể mời các cán bộ ở các bộ phận liên quan, triệu tập cán bộ trong đơn vị họp để góp ý dự thảo. Đối với dự thảo nghị quyết có nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, Lãnh đạo Sở Tư pháp cần mời đại diện các sở, ban, ngành có liên quan đến họp để góp ý về các nội dung thẩm định. Trong quá trình tổ chức thẩm định, Sở Tư pháp có thể mời các luật gia và chuyên gia am hiểu vấn đề chuyên môn thuộc nội dung dự thảo tham gia thẩm định.

 

đ) Trách nhiệm của cơ quan soạn thảo trong việc thẩm định: trong việc thẩm định dự thảo quyết định của Uỷ ban nhân dân, cơ quan được phân công chủ trì soạn thảo có trách nhiệm:

– Mời thành viên Sở Tư pháp tham gia vào quá trình soạn thảo văn bản;

– Gửi đầy đủ hồ sơ thẩm định theo quy định tại khoản 2 Điều 38 của Luật năm 2004;

– Cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết liên quan đến dự thảo theo yêu cầu của cơ quan thẩm định;

– Thuyết trình về dự thảo khi có yêu cầu của Sở Tư pháp.

 

e) Gửi báo cáo thẩm định

Theo quy định, chậm nhất là bảy ngày trước ngày Uỷ ban nhân dân họp, Sở Tư pháp gửi báo cáo thẩm định đến cơ quan soạn thảo. Do đó, ngay sau khi lãnh đạo Sở Tư pháp ký báo cáo thẩm định, Văn phòng Sở có trách nhiệm sao, gửi báo cáo đến cơ quan soạn thảo, đến các lãnh đạo Sở Tư pháp, đến đơn vị được phân công thẩm định và lưu văn thư.

 

g) Trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu ý kiến thẩm định để chỉnh lý dự thảo quyết định

Cơ quan soạn thảo có trách nhiệm nghiên cứunội dung báo cáo thẩm định, tiếp thu ý kiến của Sở Tư pháp để chỉnh lý dự thảo nghị quyết trước khi trình Uỷ ban nhân dân (không bắt buộc phải tiếp thu tất cả các ý kiến trong báo cáo thẩm định, mà chỉ tiếp thu những ý kiến hợp lý nhưng cần có báo cáo giải trình về việc tiếp thu ý kiến thẩm định).

Dự thảo đã chỉnh lý theo ý kiến thẩm định và Tờ trình được Văn phòng của cơ quan soạn thảo sao gửi đến Sở Tư pháp và Văn phòng Uỷ ban nhân dân.

 

2.2.5. Uỷ ban nhân dân xem xét, thông qua dự thảo quyết định, chỉ thị

a) Hồ sơ dự thảo quyết định, chỉ thị trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh

Theo quy định của Luật năm 2004 thì hồ sơ dự thảo quyết định, chỉ thị bao gồm:

– Tờ trình và dự thảo quyết định, chỉ thị;

– Báo cáo thẩm định;

– Bản tổng hợp ý kiến về dự thảo quyết định, chỉ thị;

– Các tài liệu có liên quan.

Bộ phận văn phòng của cơ quan soạn thảo có trách nhiệm gửi hồ sơ dự thảo quyết định, chỉ thị đến Văn phòng Uỷ ban nhân dân để chuyển đến các thành viên Uỷ ban nhân dân chậm nhất là ba ngày trước ngày Uỷ ban nhân dân họp.

 

b) Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, thông qua dự thảo quyết định, chỉ thị

Việc xem xét, thông qua dự thảo quyết định, chỉ thị tại phiên họp Uỷ ban nhân dân được tiến hành theo trình tự sau đây:

– Đại diện cơ quan soạn thảo trình bày dự thảo quyết định, chỉ thị;

– Đại diện cơ quan tư pháp trình bày báo cáo thẩm định;

– Uỷ ban nhân dân thảo luận và biểu quyết thông qua dự thảo quyết định, chỉ thị. Việc thảo luận, thông qua dự thảo quyết định, chỉ thị được tiến hành theo các bước sau đây:

+ Các thành viên Uỷ ban nhân dân thảo luận vào các nội dung cơ bản, những vấn đề còn có ý kiến khác nhau của dự thảo.

+ Chủ tịch Uỷ ban nhân dân chỉ đạo cơ quan trình dự thảo tiếp thu, chỉnh lý dự thảo theo ý kiến của thành viên Uỷ ban nhân dân. Cơ quan trình dự thảo báo cáo về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo trước các thành viên Uỷ ban nhân dân.

+ Biểu quyết thông qua dự thảo quyết định, chỉ thị. Uỷ ban nhân dân biểu quyết thông qua dự thảo bằng cách biểu quyết từng vấn đề, sau đó biểu quyết toàn bộ hoặc nghe đọc toàn văn rồi biểu quyết toàn bộ một lần hoặc biểu quyết những vấn đề còn có ý kiến khác nhau rồi biểu quyết toàn bộ dự thảo. Dự thảo quyết định, chỉ thị được thông quakhi có quá nửa tổng số đại biểu thành viên Uỷ ban nhân dân biểu quyết tán thành.

 

2.2.6. Chỉnh lý về mặt kỹ thuật dự thảo quyết định, chỉ thị

Chủ tịch Uỷ ban nhân dân chỉ đạo cơ quan soạn thảo, Văn phòng Uỷ ban nhân dân chỉnh lý về mặt kỹ thuật dự thảo văn bản trước khi trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thay mặt Uỷ ban nhân dân ký ban hành. Việc chỉnh lý văn bản sau khi Ủy ban nhân dân thông qua không được làm thay đổi nội dung dự thảo đã được thành viên Uỷ ban nhân dân thông qua.

 

2.2.7. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thay mặt Uỷ ban nhân dân ký ban hành quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh

Quyết định của Uỷ ban nhân dân phải được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thay mặt Uỷ ban nhân dân ký ban hành trước khi đăng trên báo cấp tỉnh. Trong trường hợp vắng mặt, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có thể ủy quyền cho Phó Chủ tịch ký ban hành.

 

2.2.8. Công bố quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh

a) Đăng báo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh

Theo Điều 51 Luật năm 2004 thì quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân phải được đăng trên báo cấp tỉnh chậm nhất là năm ngày, kể từ ngày Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thay mặt Uỷ ban nhân dân ký ban hành. Văn phòng Uỷ ban nhân dân có trách nhiệm gửi văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân đến cơ quan báo chí để đăng báo trong thời hạn chậm nhất là ba ngày kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành. Cơ quan báo chí có trách nhiệm đăng báo chậm nhất là 2 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân.

Quyết định, chỉ thị gửi đăng báo phải là bản chính.

 

b) Đăng Công báo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh

– Thời hạn đăng Công báo cấp tỉnh: Quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải được đăng Công báo cấp tỉnh trong thời hạn chậm nhất là ba mươi ngày kể từ ngày Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thay mặt Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ký ban hành. Văn phòng Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm tổ chức việc đăng Công báo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

– Quyết định, chỉ thị gửi đăng Công báo phải là bản chính.

– Đính chính quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh:

Trường hợp quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân đã được đăng Công báo có sai sót so với văn bản chính thì phải được đính chính. Nếu sai sót thuộc trách nhiệm của Văn phòng Uỷ ban nhân dân thì Chánh Văn phòng Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ký văn bản đính chính.

Việc đính chính quyết định, chỉ thị đăng Công báo phải dựa trên cơ sở đối chiếu với bản chính và không làm thay đổi nội dung của quy định trong bản chính.

Quyết định, chỉ thị được đính chính phải được đăng Công báo.

– Giá trị pháp lý của quyết định, chỉ thị đăng Công báo cấp tỉnh: Quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân đăng Công báo có giá trị như bản chính; là văn bản chính thức có giá trị sử dụng trong trường hợp có sự khác biệt giữa quyết định, chỉ thị đăng Công báo và quyết định, chỉ thị có từ các nguồn khác hoặc khi có tranh chấp pháp lý. Các quyết định, chỉ thị của Hội đồng nhân dân được đăng báo, đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, do các nhà xuất bản, các cơ quan thông tin đại chúng in, xuất bản chỉ có giá trị tham khảo.

 

c) Các hình thức công bố khác

Ngoài việc đăng báo, đăng Công báo cấp tỉnh, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân còn được đưa tin trên đài phát thanh, đài truyền hình địa phương. ở một số địa phương có các bản tin hay có trang Web thì nên đăng tải quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân.

 

2.3. Soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp huyện

Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thì trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện được tiến hành theo các bước sau đây:

– Soạn thảo nghị quyết (khoản 1 Điều 30);

– Lấy ý kiến về dự thảo nghị quyết (khoản 2 Điều 30);

– Uỷ ban nhân dân xem xét dự thảo nghị quyết (khoản 3 Điều 30);

– Thẩm tra dự thảo nghị quyết (Điều 31);

– Xem xét, thông qua dự thảo nghị quyết (khoản 1, 2 Điều 32);

– Chủ tịch Hội đồng nhân dân ký chứng thực (khoản 3 Điều 32).

Luật năm 2004 không bắt buộc phải lập chương trình xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện (kể cả đối với quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp huyện) như đối với nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Ngoài ra, khác với quy trình soạn thảo, ban hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, trong quy trình soạn thảo, ban hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện không quy định trách nhiệm thẩm định của Phòng Tư pháp đối với dự thảo nghị quyết, tuy nhiên, cần lưu ý: đối với dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp huyện thì Phòng Tư pháp có trách nhiệm thẩm định dự thảo.

 

2.3.1. Soạn thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện

Tương tự như quy trình soạn thảo, ban hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, soạn thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện là công đoạn đầu tiên trong quy trình ban hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện. Theo quy định tại Điều 30 của Luật năm 2004, dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện do Uỷ ban nhân dân cùng cấp trình.

 

a) Chủ thể trình, soạn thảo

Luật không quy định cụ thể chủ thể soạn thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện. Tại Điều 30 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân quy định: dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện do Uỷ ban nhân dân cùng cấp trình Hội đồng nhân dân căn cứ vào tính chất và nội dung của nghị quyết Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân phân công cơ quan soạn thảo. Như vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 30 của Luật năm 2004 thì chủ thể trình dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện là Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Còn chủ thể soạn thảo nghị quyết do Uỷ ban nhân dân phân công trên cơ sở căn cứ vào tính chất và nội dung vấn đề mà nghị quyết Hội đồng nhân dân cần điều chỉnh. Ví dụ: khi soạn thảo văn bản về giáo dục – đào tạo thì Uỷ ban nhân dân phân công Phòng giáo dục – đào tạo soạn thảo. Điều này đảm bảo nguyên tắc: cơ quan tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân quản lý nhà nước về lĩnh vực nào thì được phân công soạn thảo văn bản về lĩnh vực đó, như vậy mới đảm bảo được chất lượng văn bản về mặt chuyên môn.

Trường hợp văn bản soạn thảo có nội dung phức tạp hoặc liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực, điều chỉnh những vấn đề mới, thì thủ trưởng cơ quan chủ trì soạn thảo có thể thành lập tổ soạn thảo văn bản theo hình thức liên cơ quan, liên ngành có liên quan đến nội dung dự thảo (có thể xin ý kiến Lãnh đạo Uỷ ban nhân dân) trước khi quyết định thành lập Tổ soạn thảo. Tổ soạn thảo do cơ quan chủ trì soạn thảo làm tổ trưởng và các thành viên khác tham gia. Quyết định thành lập tổ soạn thảo nên xác định rõ thành viên tổ soạn thảo, nhiệm vụ của từng thành viên, thời gian và tiến độ cụ thể thực hiện nhiệm vụ soạn thảo.

 

b) Nhiệm vụ của cơ quan soạn thảo

Theo quy định tại khoản 2 Điều 30 của Luật năm 2004, sau khi được Uỷ ban nhân dân phân công, cơ quan soạn thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện có các nhiệm vụ sau:

– Xây dựng dự thảo và tờ trình dự thảo nghị quyết;

– Căn cứ vào tính chất, nội dung của dự thảo nghị quyết, cơ quan soạn thảo tổ chức lấy ý kiến của cơ quan tổ chức hữu quan, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của nghị quyết.

Luật năm 2004 không quy định nhiệm vụ cụ thể của cơ quan soạn thảo dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện, nhưng để đảm bảo chất lượng, hiệu quả và để đảm bảo tính khả thi của dự thảo khi Hội đồng nhân dân thảo luận, biểu quyết thông qua, nhất là đối với các nghị quyết quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng về các lĩnh vực kinh tế, giáo dục, tài nguyên môi trường, quốc phòng an ninh, thi hành pháp luật… nhất là những nghị quyết có phạm vi điều chỉnh rộng, thì cơ quan soạn thảo cần chú ý các vấn đề sau:

– Khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội ở địa phương liên quan đến dự thảo

– Nghiên cứu đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, các văn bản liên quan đến nội dung nghị quyết của cơ quan nhà nước cấp trên và thông tin, tư liệu khác liên quan đến dự thảo

– Xây dựng dự thảo và tờ trình dự thảo nghị quyết; xác định văn bản, điều, khoản, điểm của văn bản dự kiến sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ, bãi bỏ

-Tổng hợp tiếp thu ý kiến và chỉnh lý dự thảo nghị quyết

– Chuẩn bị hồ sơ trình Uỷ ban nhân dân cấp huyện gồm: tờ trình Uỷ ban nhân dân (tờ trình của cơ quan soạn thảo) và dự thảo nghị quyết; các tài liệu có liên quan đến văn bản; hồ sơ trình Hội đồng nhân dân gồm: tờ trình Hội đồng nhân dân (Tờ trình của Uỷ ban nhân dân) và dự thảo nghị quyết; báo cáo thẩm tra;các tài liệu có liên quan như bản tập hợp ý kiến về dự thảo nghị quyết, bản giải trình tiếp thu ý kiến, các văn bản pháp luật có liên quan, nếu có. Hồ sơ dự thảo nghị quyết phải được gửi đến các đại biểu Hội đồng nhân dân chậm nhất là năm ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Hội đồng nhân dân.

 

2.3.2. Lấy kiến vào dự thảo văn bản

Căn cứ vào tính chất và nội dung của dự thảo nghị quyết, cơ quan soạn thảo tổ chức lấy ý kiến của cơ quan, tổ chức hữu quan, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản vào dự thảo nghị quyết. Việc xác định đối tượng lấy ý kiến của cơ quan, tổ chức hữu quan, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản vào dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện tương tự lấy ý kiến khi soạn thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.

Cơ quan, tổ chức hữu quan trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận được dự thảo nghị quyết có trách nhiệm góp ý và trả lời cơ quan soạn thảo bằng văn bản.

Trong trường hợp lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của nghị quyết, cơ quan lấy ý kiến có trách nhiệm xác định rõ những vấn đề cần lấy ý kiến, địa chỉ nhận ý kiến và dành ít nhất 5 ngày kể từ ngày tổ chức lấy ý kiến để các đối tượng được lấy ý kiến góp ý vào dự thảo nghị quyết.

 

2.3.3. Uỷ ban nhân dân xem xét, thông qua việc quyết định trình dự thảo nghị quyết

Do Uỷ ban nhân dân cấp huyện là cơ quan duy nhất trình và phân công soạn thảo dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp nên Uỷ ban nhân dân có trách nhiệm xem xét, thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số để quyết định việc trình dự thảo nghị quyết.

Việc xem xét, thảo luận, quyết định việc trình dự thảo nghị quyết tại phiên họp Uỷ ban nhân dân được tiến hành theo trình tự sau đây:

– Đại diện cơ quan soạn thảo trình bày dự thảo nghị quyết;

– Uỷ ban nhân dân thảo luận và biểu quyết thông qua việc quyết định trình Hội đồng nhân dân dự thảo nghị quyết.

 

2.3.4. Thẩm tra dự thảo nghị quyết

a) Cơ quan thẩm tra dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân

Theo quy định tại Điều 31 của Luật năm 2004 thì dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện phải được Ban của Hội đồng nhân dân cùng cấp thẩm tra trước khi trình Hội đồng nhân dân.

 

b) Hồ sơ thẩm tra

Chậm nhất là mười ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Hội đồng nhân dân, Văn phòng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm gửi hồ sơ dự thảo nghị quyết đến Ban của Hội đồng nhân dân được phân công thẩm tra để thẩm tra.

Hồ sơ gửi thẩm tra bao gồm:

– Tờ trình;

-Dự thảo nghị quyết;

– Các tài liệu có liên quan.

 

c) Phạm vi thẩm tra dự thảo nghị quyết

Theo quy định của Luật năm 2004 thì việc thẩm tra dự thảo nghị quyết tập trung vào các nội dung sau:

– Sự phù hợp của nội dung dự thảo nghị quyết với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng;

– Sự phù hợp của nội dung dự thảo nghị quyết với tình hình, điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của địa phương;

– Tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo nghị quyết với hệ thống pháp luật.

 

d) Tổ chức thẩm tra

Để chuẩn bị cho việc thẩm tra, Ban được phân công thẩm tra có thể cử cán bộ tham gia nghiên cứu dự thảo nghị quyết, đồng thời giao trách nhiệm cho cán bộ này viết báo cáo thẩm tra; yêu cầu cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan cung cấp tài liệu và trình bày về vấn đề mà Ban thẩm tra, tổ chức họp lấy ý kiến của những người am hiểu về vấn đề đó, khảo sát tình hình thực tế tại địa phương về những nội dung liên quan đến dự thảo nghị quyết. Đối với dự thảo nghị quyết có nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, Lãnh đạo Ban thẩm tra cần mời đại diện các ban, ngành có liên quan đến họp để góp ý về các nội dung thẩm tra.

 

đ) Trình tự thẩm tra dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện

Việc thẩm tra dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện được thực hiện theo trình tự sau đây:

– Đại diện cơ quan, tổ chức trình dự thảo nghị quyết;

– Đại diện cơ quan, tổ chức hữu quan phát biểu ý kiến;

– Ban thẩm tra thảo luận;

– Đại diện cơ quan, tổ chức trình dự thảo nghị quyết phát biểu ý kiến;

– Chủ tọa cuộc họp kết luận;

– Ban được phân công thẩm tra biểu quyết.

 

e) Nội dung báo cáo thẩm tra

Nội dung của báo cáo thẩm tra phải nêu được ý kiến đánh giá của Ban về dự thảo nghị quyết, những vấn đề được Ban nhất trí, không nhất trí và còn có ý kiến khác nhau, những kiến nghị sửa đổi, bổ sung.

 

g) Gửi báo cáo thẩm tra

Ban được phân công thẩm tra có trách nhiệm gửi báo cáo thẩm tra đến Thường trực Hội đồng nhân dân để chuyển đến các đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện chậm nhất là năm ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Hội đồng nhân dân.

 

2.3.5. Hội đồng nhân dân xem xét, thông qua dự thảo nghị quyết

a) Hồ sơ dự thảo nghị quyết trình Hội đồng nhân dân cấp huyện

Văn phòng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm gửi hồ sơ dự thảo nghị quyết đến đại biểu Hội đồng nhân dân chậm nhất là năm ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Hội đồng nhân dân.

Hồ sơ dự thảo nghị quyết để gửi đến đại biểu Hội đồng nhân dân bao gồm:

– Tờ trình và dự thảo nghị quyết;

– Báo cáo thẩm tra;

– Các tài liệu có liên quan.

 

b) Trình tự xem xét, thông qua

Hội đồng nhân dân cấp huyện xem xét, thông qua dự thảo nghị quyết của Hội đồng theo trình tự sau đây:

– Đại diện cơ quan, tổ chức trình bày dự thảo nghị quyết.

– Trưởng ban thẩm tra trình bày báo cáo thẩm tra nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

– Hội đồng nhân dân thảo luận và Biểu quyết thông qua dự thảo nghị quyết.

Dự thảo nghị quyết được thông qua khi có quá nửa tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân biểu quyết tán thành.

 

c) Chỉnh lý về mặt kỹ thuật dự thảo nghị quyết

Thường trực Hội đồng nhân dân chỉ đạo cơ quan, tổ chức soạn thảo, Văn phòng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân chỉnh lý về mặt kỹ thuật dự thảo nghị quyết trước khi trình Chủ tịch Hội đồng nhân dân ký chứng thực. Cần lưu ý là việc chỉnh lý chỉ về mặt câu chữ, kỹ thuật mà không làm thay đổi nội dungdự thảo đã được Hội đồng nhân dân thông qua.

 

d) Chủ tịch Hội đồng nhân dân ký chứng thực nghị quyết

Nghị quyết của Hội đồng nhân dânphải được Chủ tịch Hội đồng nhân dân ký chứng thực trước khi niêm yết. Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp huyện có thể ủy quyền cho Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân ký chứng thực nếu phải vắng mặt.

 

2.3.6. Công bố nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện

a) Niêm yết văn bản

Để đảm bảo tính công khai, minh bạch của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp huyện theo quy định của Điều 8 của Luật năm 2004 thì:

– Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân phải được đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương (đài truyền thanh, truyền hình của huyện, bản tin, trạm tin…).

– Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện phải được niêm yết tại trụ sở của Hội đồng nhân dân (cơ quan ban hành) và ở những địa điểm khác theo quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp như: nhà văn hoá huyện, các điểm tập trung dân cư, các điểm bưu điện, văn hoá khác của huyện v.v…

Việc niêm yết chậm nhất là 3 ngày kể từ ngày Hội đồng nhân dân thông qua, trừ trường hợp văn bản quy định ngày có hiệu lực muộn hơn.

Văn bản niêm yết phải là văn bản chính. Thời gian niêm yết văn bản ít nhất là 30 ngày liên tục (theo Điều 9 của Nghị định số 91/2006/NĐ-CP), kể từ ngày niêm yết. Tuy nhiên, đối với những văn bản có nội dung quan trọng thì thời gian niêm yết nên dài hơn.

 

b) Các hình thức công bố khác

Ngoài các hình thức đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương, niêm yết tại trụ sở cơ quan ban hành văn bản và các địa điểm khác theo quyết định của chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Luật không quy định cụ thể các hình thức khác chính là để tạo tính chủ động, linh hoạt và phù hợp điều kiện thực hiện của từng địa phương, ví dụ: đưa nội dung văn bản lên trang website của địa phương (nơi có điều kiện), tổ chức giới thiệu nội dung văn bản ở các hội nghị từ huyện đến cơ sở, các buổi sinh hoạt tổ dân phố v.v… tất cả những hình thức đó đều có cùng một mục đích là tạo điều kiện để người sau tiếp cận toàn bộ nội dung văn bản, đưa văn bản vào đời sống, công khai hoá, minh bạch hoá văn bản.

 

2.4. Soạn thảo, ban hành quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp huyện

Việc soạn thảo, ban hành quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp huyện được thực hiện theo trình tự, thủ tục sau đây:

– Soạn thảo (Điều 41);

– Lấy ý kiến vào dự thảo (Điều 41);

– Thẩm định dự thảo (Điều 42);

– Uỷ ban nhân dân cấp huyện xem xét, thông qua (Điều 44).

 

2.4.1. Soạn thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp huyện

a) Chủ thể soạn thảo

Điều 41 của Luật năm 2004 quy định việc soạn thảo, ban hành quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp huyện được tiến hành như sau:

Dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp huyện do “Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phân công và trực tiếp chỉ đạo cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân soạn thảo”.

Như vậy, chủ thể soạn thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp huyện là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phân công và trực tiếp chỉ đạo việc soạn thảo. Ví dụ: Phòng Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chuyên môn được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phân công soạn thảo dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân về các vấn đề liên quan đến môi trường.

 

b) Nhiệm vụ của cơ quan soạn thảo

Nhiệm vụ của cơ quan soạn thảo được quy định tại Điều 41 của Luật năm 2004như sau:

– Xây dựng dự thảo và tờ trình dự thảo quyết định, chỉ thị.

– Căn cứ vào tính chất và nội dung của dự thảo quyết định, chỉ thị cơ quan soạn thảo tổ chức lấy ý kiến của cơ quan, tổ chức hữu quan, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự thảo quyết định, chỉ thị (khoản 2 Điều 41).

– Trường hợp lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của quyết định, chỉ thị thì cơ quan lấy ý kiến (cơ quan soạn thảo) có trách nhiệm xác định những vấn đề cần lấy ý kiến, địa chỉ nhận ý kiến và dành ít nhất5 ngày kể từ ngày tổ chức lấy ý kiến để các đối tượng được lấy ý kiến góp ý vào dự thảo quyết định, chỉ thị.

 

2.4.2. Lấy ý kiền về dự thảo quyết định, chỉ thị

Theo quy định tại khoản 2 Điều 41 của Luật năm 2004 thì không phải tất cả các dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân đều phải tổ chức việc lấy ý kiến vào dự thảo, mà căn cứ vào tính chất và nội dung của dự thảo quyết định, chỉ thị, cơ quan soạn thảo tổ chức lấy ý kiến của cơ quan, tổ chức hữu quan, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của quyết định, chỉ thị. Trong trường hợp lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của quyết định, chỉ thị cơ quan lấy ý kiến có trách nhiệm xác định những vấn đề cần lấy ý kiến, địa chỉ nhận ý kiến và dành ít nhất 5 ngày, kể từ ngày tổ chức lấy ý kiến để các đối tượng được lấy ý kiến góp ý vào dự thảo quyết định, chỉ thị.

 

2.4.3. Thẩm định dự thảo quyết định, chỉ thị

Dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp huyện trước khi trình Uỷ ban nhân dân cần phải được thẩm định theo quy định tại Điều 42 của Luật năm 2004. Theo đó, việc thẩm định quyết định, chỉ thị được thực hiện như sau:

– Dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp huyện phải được Phòng Tư pháp thẩm định trước khi trình Uỷ ban nhân dân.

– Chậm nhất là 7 ngày, trước ngày Uỷ ban nhân dân họp, Phòng Tư pháp gửi báo cáo thẩm định đến cơ quan soạn thảo.

 

a) Hồ sơ gửi thẩm định

Hồ sơ gửi thẩm định bao gồm:

– Công văn yêu cầu thẩm định;

– Tờ trình và dự thảo quyết định, chỉ thị;

– Bản tổng hợp ý kiến về dự thảo quyết định, chỉ thị;

– Các tài liệu có liên quan.

 

b) Tiếp nhận hồ sơ thẩm định và phân công thẩm định

Ngay sau khi nhận được hồ sơ thẩm định, Phòng Tư pháp có trách nhiệm tiếp nhận và kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ thẩm định và nếu hồ sơ không đầy đủ theo quy định thì có thể đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung hồ sơ.

Phòng Tư pháp có thể phân công cho cán bộ hoặc một nhóm cán bộ của Phòng tùy điều kiện nhân sự của mỗi Phòng Tư pháp địa phương để thẩm định dự thảo quyết định, chỉ thị. Việc tổ chức các cuộc họp thẩm định thường đem lại chất lượng tốt hơn cho văn bản hơn là chỉ giao cho một cá nhân thực hiện, nhất là trong trường hợp phải thẩm định gấp một văn bản.

 

c) Phạm vi thẩm định dự thảo quyết định, chỉ thị

Tương tự như phạm vi thẩm định dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, phạm vi thẩm định dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp huyện bao gồm:

– Sự cần thiết ban hành, đối tượng, phạm vi điều chỉnh của dự thảo quyết định, chỉ thị;

– Tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo quyết định, chỉ thị với hệ thống pháp luật;

– Ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo văn bản;

– Tính khả thi (nội dung không bắt buộc): Về tính khả thi của văn bản, Luật không quy định bắt buộc cơ quan tư pháp (Phòng Tư pháp cấp huyện) phải có ý kiến vì trách nhiệm cao nhất về tính khả thi của văn bản cũng như nội dung của văn bản thuộc về cơ quan soạn thảo. Luật quy định “Cơ quan tư pháp có thể đưa ra ý kiến về tính khả thi của dự thảo quyết định, chỉ thị”, quy định này chỉ có tính khuyến khích cơ quan tư pháp phát biểu về tính khả thi của dự thảo quyết định, chỉ thị.

 

d) Gửi báo cáo thẩm định

Chậm nhất là bảy ngày trước ngày Uỷ ban nhân dân họp, cơ quan tư pháp gửi báo cáo thẩm định đến cơ quan soạn thảo.

 

đ) Trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu ý kiến thẩm định để chỉnh lý dự thảo

Cơ quan soạn thảo có trách nhiệm nghiên cứu nội dung báo cáo thẩm định, tiếp thu ý kiến của Phòng Tư pháp để chỉnh lý dự thảo nghị quyết trước khi trình Uỷ ban nhân dân (không bắt buộc phải tiếp thu tất cả các ý kiến trong báo cáo thẩm định, mà chỉ tiếp thu những ý kiến hợp lý nhưng cần có báo cáo giải trình về việc tiếp thu ý kiến thẩm định).

Dự thảo đã chỉnh lý theo ý kiến thẩm định và Tờ trình được sao gửi đến Sở Tư pháp và Văn phòng Uỷ ban nhân dân.

 

2.4.4. Uỷ ban nhân dân xem xét, thông qua

Trình tự xem xét, thông qua dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp huyện được quy định tại Điều 44 của Luật năm 2004 như sau:

– Đại diện cơ quan soạn thảo trình bày dự thảo quyết định, chỉ thị;

– Đại diện cơ quan tư pháp trình bày báo cáo thẩm định;

– Uỷ ban nhân dân thảo luận và biểu quyết tán thành (cần lưu ý là theo quy định tại khoản 2 Điều 44 của Luật năm 2004 thì dự thảo quyết định, chỉ thị chỉ được thông qua khi có quá nửa tổng số thành viên Uỷ ban nhân dân biểu quyết tán thành);

– Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thay mặt Uỷ ban nhân dân ký ban hành quyết định, chỉ thị.

 

2.4.5. Chỉnh lý về mặt kỹ thuật dự thảo quyết định, chỉ thị

Chủ tịch Uỷ ban nhân dân chỉ đạo cơ quan soạn thảo chỉnh lý về mặt kỹ thuật dự thảo văn bản trước khi trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân (Chủ tịch thay mặt Uỷ ban nhân dân ký ban hành văn bản). Khi chỉnh lý, không được làm thay đổi nội dungdự thảo đã được thành viên Uỷ ban nhân dân thông qua.

 

2.4.6. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thay mặt Uỷ ban nhân dân ký ban hành quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân

Quyết định của Uỷ ban nhân dân phải được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thay mặt Uỷ ban nhân dân ký ban hành trước khi niêm yết. Trong trường hợp vắng mặt, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có thể ủy quyền cho Phó Chủ tịch ký ban hành.

 

2.4.7. Công bố quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp huyện

Việc niêm yết, đăng báo, đưa tin, gửi và lưu trữ văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân cấp huyện được quy định tại khoản 2 Điều 8 của Luật năm 2004, cụ thể là:

– Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân phải được đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương (đài truyền thanh, trạm tiếp sóng truyền hình của huyện, trên các bảng tin, trạm tin hoặc trang web của huyện, nếu có…);

– Quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp huyện khi được ban hành phải được niêm yết tại trụ sở của cơ quan ban hành và những địa điểm khác do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện quyết định như: nhà văn hóa huyện, các điểm tập trung đông dân cư, các điểm bưu điện, nhà văn hoá của huyện.v.v…

– Thời điểm niêm yết chậm nhất là 3 ngày kể từ ngày Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ký ban hành, trừ trường hợp văn bản quy định ngày có hiệu lực muộn hơn. Thời gian niêm yết quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp huyện ít nhất là 30 ngày liên tục kể từ ngày niêm yết.

– Văn bản niêm yết là văn bản chính (không phải bản chụp). Để việc niêm yết có tác dụng thiết thực, kinh nghiệm thực tế cho thấy nên giao cho Văn phòng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện việc niêm yết.

Ngoài hình thức niêm yết, đưa tin văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân cấp huyện trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương, Luật năm 2004 không quy định thêm các hình thức công bố khác, tuy nhiên, trong thực tế các hình thức khác đều được khuyến khích nhằm tạo nhiều cách, nhiều điều kiện để người dân cập nhật, tiếp cận với văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương. Ví dụ: Đưa lên trang web của địa phương, giới thiệu ở các câu lạc bộ, sinh hoạt tổ dân phố, thi tìm hiểu pháp luật .v.v… đều đáng được khích lệ và tổ chức thực hiện để đưa văn bản quy phạm pháp luật vào cuộc sống.

 

2.5. Soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp xã

Luật năm 2004 không quy định cụ thể về quy trình soạn thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân mà chỉ quy định dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã do Uỷ ban nhân dân cùng cấp soạn thảo và trình Hội đồng nhân dân (Khoản 1 Điều 33). Tuy nhiên, có thể nhấn mạnh rằng việc soạn thảo dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã và trình dự thảo đó ra Hội đồng nhân dân cùng cấp là trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân chứ không phải của cá nhân Chủ tịch Uỷ ban nhân dân (dù Chủ tịch phải là người chịu trách nhiệm chính trong việc này). Do vậy, cần phải hình dung trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã theo các bước sau đây:

– Soạn thảo nghị quyết;

– Lấy ý kiến về dự thảo nghị quyết;

– Uỷ ban nhân dân xem xét dự thảo nghị quyết;

– Hội đồng nhân dân xem xét, thông qua dự thảo nghị quyết.

 

2.5.1. Soạn thảo nghị quyết

a) Phân công và chỉ đạo việc soạn thảo

Điều 33 của Luật năm 2004 quy định:“Dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã do Uỷ ban nhân dân cùng cấp soạn thảo và trình Hội đồng nhân dân”. Như vậy, chủ thể soạn thảo dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã là Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Như vậy, trách nhiệm soạn thảo dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã là thuộc tập thể Uỷ ban nhân dân. Tuy nhiên, người chịu trách nhiệm chính trong tập thể Uỷ ban nhân dân chính là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã.

Như vậy, khi phân công soạn thảo, có thể có các khả năng sau: hoặc Chủ tịch phân công một Phó chủ tịch soạn thảo, hoặc Chủ tịch giao cho một hoặc một số cán bộ cấp xã (có thể là công chức tư pháp cấp xã) soạn thảo. Điểm cần lưu ý là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo việc soạn thảo.

 

b) Trách nhiệm của chủ thể soạn thảo

Để soạn thảo dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã, chủ thể soạn thảo phải thực hiện các nhiệm vụ sau:

– Xây dựng dự thảo nghị quyết và xây dựng tờ trình dự thảo nghị quyết;

– Tổ chức lấy ý kiến về dự thảo nghị quyết; tổng hợp ý kiến, tiếp thu và chỉnh lý hoàn thiện dự thảo nghị quyết;

– Chuẩn bị hồ sơ trình.

 

2.5.2. Lấy ý kiến về dự thảo nghị quyết

Luật năm 2004 không quy định cụ thể thời gian lấy ý kiến vào dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã, mà “Căn cứ vào tính chất và nội dung của dự thảo nghị quyết” (ví dụ về mức đóng góp của nhân dân để xây dựng trường học, đường giao thông xã…), Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tổ chức việc lấy ý kiến vào dự thảo nghị quyết. Toàn bộ quá trình tổ chức lấy ý kiến của các đối tượng vào dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã được quy định cụ thể như sau:

 

a) Cơ quan tổ chức lấy ý kiến

Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tổ chức lấy ý kiến.

 

b) Đối tượng được lấy ý kiến

Đối tượng được lấy ý kiến, tùy theo tính chất và nội dung của văn bản, là các cơ quan, tổ chức hữu quan, nhân dân các thôn, làng, ấp, bản, phum, sóc, tổ dân phố.

 

c) Nội dung cần lấy ý kiến

Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã đề xuất và tiến hành các nội dung cần lấy ý kiến vào dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã. Ví dụ, đối với các văn bản có nội dung quy định về mức đóng góp, huy động vốn của nhân dân địa phương để xây dựng trường học, đường giao thông, trạm điện ở xã thì nội dung cần lấy ý kiến nên tập trung vào: mức đóng góp cụ thể, thời gian huy động vốn, phương thức thanh toán, cơ chế giám sát, kiểm tra…

 

d) Hình thức lấy ý kiến

Luật năm 2004 chỉ quy định chung là việc tổ chức lấy ý kiến về dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã được tiến hành bằng “các hình thức thích hợp”.

Thực tiễn của việc tổ chức lấy ý kiến của các đối tượng vào các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật (kể cả ở trung ương và địa phương) cho thấy có thể áp dụng các hình thức sau để tổ chức lấy ý kiến vào dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân ở cấp xã:

– Lấy ý kiến thông qua các cuộc họp tổ dân phổ, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi (tổ chức hội nghị, hội thảo…);

– Qua khảo sát bằng phiếu hoặc phỏng vấn;

– Gửi dự thảo tới hộ gia đình hoặc tổ dân phố để lấy ý kiến (sửa trực tiếp vào dự thảo). Sau đó cơ quan, tổ chức lấy ý kiến tiếp thu dự thảo để tập hợp.

Ý kiến góp ý đối với dự thảo văn bản phải được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã chỉ đạo nghiên cứu, tiếp thu để hoàn chỉnh dự thảo. Trường hợp không tiếp thu phải được lý giải rõ trong Tờ trình Hội đồng nhân dân.

 

2.5.3. Uỷ ban nhân dân xem xét, quyết định trình Hội đồng nhân dân cấp xã dự thảo nghị quyết

Việc xem xét, thảo luận, quyết định việc trình dự thảo nghị quyết tại phiên họp Uỷ ban nhân dân được tiến hành theo trình tự sau đây:

– Chủ thể soạn thảo trình bày dự thảo.

– Uỷ ban nhân dân thảo luận và biểu quyết về việc trình (hay không trình) dự thảo nghị quyết. Uỷ ban nhân dân biểu quyết thông qua dự thảo dưới các hình thức sau:

+ Biểu quyết từng vấn đề (nếu dự thảo có những vấn đề chưa được thống nhất cao trong các thành viên Ủy ban nhân dân), sau đó biểu quyết toàn bộ;

+ Nghe đọc toàn văn rồi biểu quyết toàn bộ một lần;

+ Biểu quyết những vấn đề còn có ý kiến khác nhau rồi biểu quyết toàn bộ dự thảo. Khi có quá nửa tổng số đại biểu thành viên Uỷ ban nhân dân biểu quyết tán thành, dự thảo nghị quyết được quyết định trình Hội đồng nhân dân.

 

2.5.4. Hội đồng nhân dân xem xét, thông qua dự thảo nghị quyết

a) Hồ sơ dự thảo nghị quyết trình Hội đồng nhân dân cấp xã

Điều 34 của Luật năm 2004 quy định “Chậm nhất là ba ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân gửi tờ trình, dự thảo nghị quyết và các tài liệu có liên quan đến các đại biểu Hội đồng nhân dân”.

Như vậy, hồ sơ dự thảo nghị quyết trình Hội đồng nhân dân cấp xã gồm:

– Tờ trình;

– Dự thảo nghị quyết;

– Các tài liệu có liên quan (nếu có).

 

b) Trình tự xem xét, thông qua nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã

Việc xem xét, thông qua dự thảo nghị quyết tại kỳ họp Hội đồng nhân dân cấp xã được Luật năm 2004 quy định tại Điều 34 như sau:

– Đại diện Uỷ ban nhân dân trình bày dự thảo nghị quyết;

– Hội đồng nhân dân thảo luận và biểu quyết thông qua dự thảo nghị quyết;

– Hội đồng nhân dân thảo luận, thông qua dự thảo nghị quyết.

Hội đồng nhân dân biểu quyết thông qua dự thảo nghị quyết bằng cách biểu quyết từng vấn đề, sau đó biểu quyết toàn bộ hoặc nghe đọc toàn văn rồi biểu quyết toàn bộ một lần hoặc biểu quyết những vấn đề còn có ý kiến khác nhau rồi biểu quyết toàn bộ.

Dự thảo nghị quyết được thông qua khi có quá nửa tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân biểu quyết tán thành.

 

2.5.5. Chỉnh lý về mặt kỹ thuật dự thảo nghị quyết

Chủ tịch Hội đồng nhân dân chỉ đạo người soạn thảo dự thảo nghị quyết chỉnh lý về mặt kỹ thuậtdự thảo nghị quyết trước khi trình Chủ tịch Hội đồng nhân dân ký chứng thực.

 

2.5.6. Công bố văn bản

Khoản 2 Điều 8 của Luật năm 2004 quy định: “Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp xã phải được niêm yết tại trụ sở của cơ quan ban hành và những địa điểm khác do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp quyết định”.

Khoản 1 Điều 51 của Luật năm 2004 quy định rõ: “Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp xã có hiệu lực sau 5 ngày và phải được niêm yết chậm nhất là hai ngày kể từ ngày Hội đồng nhân dân thông qua hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ký ban hành, trừ trường hợp văn bản quy định ngày có hiệu lực muộn hơn”.

Để tránh việc niêm yết chỉ là hình thức, người dân khó tiếp cận hoặc chỉ niêm yết trong một thời gian ngắn… cần phải thực hiện việc niêm yết như sau:

– Thời gian niêm yết văn bản phải bảo đảm cho người dân có thời gian tìm hiểu, nghiên cứu văn bản, ít nhất là 20 ngày liên tục kể từ ngày niêm yết (theo quy định tại Điều 9 Nghị định số 91/2006/NĐ-CP);

– Việc niêm yết nên giao cho cán bộ Văn phòng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thực hiện;

– Phải niêm yết văn bản chính (không phải bản chụp);

– Ngoài việc niêm yết ở trụ sở cơ quan ban hành (Hội đồng nhân dân) nên niêm yết cả ở trụ sở Uỷ ban nhân dân, các điểm tập trung đông dân cư, nhà văn hoá, bưu điện xã…

 

2.6. Soạn thảo, ban hành quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp xã

Việc soạn thảo, ban hành quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp xã được thực hiện theo trình tự, thủ tục sau đây:

– Soạn thảo (Điều 45);

– Lấy ý kiến vào dự thảo (Điều 45);

– Uỷ ban nhân dân xem xét, thông qua (Điều 46).

 

2.6.1. Soạn thảo

a) Phân công soạn thảo, chỉ đạo việc soạn thảo

Theo quy định của Luật tại Điều 45 thì “Dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp xã do Chủ tịchUỷ ban nhân dân phân công và chỉ đạo việc soạn thảo”.

Luật quy định rõ hơn trách nhiệm của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân là “phân công và chỉ đạo việc soạn thảo”. Theo quy định của Luật, sẽ có những khả năng và cách thực hiện nhiệm vụ này như sau:

– Phân công cho cá nhân, tổ chức soạn thảo: có thể là công chức tư pháp chuyên trách, hoặc Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phụ trách lĩnh vực mà văn bản sẽ điều chỉnh; Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân…, hoặc một nhóm chuyên viên gồm: chuyên viên tư pháp, tài chính, cán bộ đoàn thể ở xã tham gia.

– Chỉ đạo việc soạn thảo: đây là nhiệm vụ của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, nhưng cũng có khả năng Chủ tịch Uỷ ban nhân dân giao cho một đồng chí Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phụ trách, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm chung.

 

b) Trách nhiệm của người soạn thảo

Cũng như đối với việc soạn thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân, để soạn thảo dự thảo chỉ thị, quyết định của Uỷ ban nhân dân, người (hoặc tổ chức được phân công soạn thảo) có các nhiệm vụ sau:

– Xây dựng dự thảo quyết định, chỉ thị và dự thảo Tờ trình;

– Tham gia việc tổ chức việc lấy ý kiến của các đối tượng vào dự thảo văn bản theo chỉ đạo của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã (trong trường hợp cần thiết);

– Tổng hợp ý kiến, tiếp thu và chỉnh lý dự thảo văn bản (theo chỉ đạo của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân);

– Gửi hồ sơ dự thảo văn bản đến các thành viên Uỷ ban nhân dân chậm nhất là 3 ngày trước ngày Uỷ ban nhân dân họp.

Hồ sơ trình phải gồm các tài liệu sau:

– Dự thảo quyết định, chỉ thị và tờ trình;

– Bản tổng hợp ý kiến (đối với quyết định, chỉ thị cần lấy ý kiến);

– Bản giải trình tiếp thu ý kiến tham gia vào dự thảo (nếu có);

– Tài liệu liên quan khác đến nội dung dự thảo (văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, của Hội đồng nhân dân cùng cấp, tài liệu tham khảo khác…).

 

2.6.2. Lấy ý kiến vào dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp xã

Theo quy định tại khoản 2 Điều 45 của Luật năm 2004, không phải tất cả các quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp xã trước khi ban hành đều phải tổ chức lấy ý kiến góp ý vào dự thảo văn bản, mà “căn cứ vào tính chất và nội dung của quyết định, chỉ thị, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tổ chức việc lấy kiến và tiếp thu ý kiến…”.

Như vậy, việc lấy ý kiến vào dự thảo văn bản là do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã quyết định.

 

a) Đối tượng cần lấy ý kiến

– Nhân dân tại các thôn, làng, ấp, bản, phum, sóc, tổ dân phố…;

– Cơ quan, tổ chức hữu quan.

 

b) Loại văn bản của cấp xã cần được lấy ý kiến

Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã cần phải tổ chức việc lấy ý kiến khi soạn thảo các quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp xã có nội dung:

– Quy định về mức đóng góp, huy động vốn của nhân dân địa phươngđể xây dựng trường học, trạm xá, đường giao thông trong xã, liên xã…;

– Có ảnh hưởng quan trọng tới phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương (ví dụ quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân về việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở xã);

– Có ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt văn hoá, xã hội địa phương, đến môi trường sinh thái địa phương;

– Liên quan đến vấn đề quy hoạch, quản lý đất đai, xây dựng các công trình công cộng quan trọng trên địa bàn xã…

 

c) Hình thức lấy ý kiến

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi và để Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã tùy theo điều kiện cụ thể của địa phương mà tổ chức lấy ý kiến của các đối tượng vào dự thảo văn bản sao cho phù hợp, có hiệu quả.

Trong thực tế, các hình thức lấy ý kiến của các đối tượng vào dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp xã được tổ chức bằng nhiều hình thức khác nhau, nhưng thường là các hình thức như:

– Lấy ý kiến trực tiếp của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan qua các hội nghị (Đoàn Thanh niên, Phụ nữ, Nông dân, Cựu chiến binh, Mặt trận Tổ quốc…).

– Lấy ý kiến qua khảo sát, thăm dò dư luận bằng phiếu (có gợi ý vấn đề cần xin ý kiến để đối tượng điền vào ô trống);

– Phỏng vấn trực tiếp đối tượng (hộ gia đình, đại diện tổ dân phố, phum, sóc, buôn, làng…).

Một việc cũng rất có ý nghĩa và liên quan trực tiếp tới chất lượng lấy ý kiến vào các dự thảo văn bản – chính là việc tiếp thu các ý kiến đã góp ý để chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo. Việc chỉ đạo tiếp thu ý kiến góp ý thuộc trách nhiệm của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân. Các ý kiến không được tiếp thu phải được giải trình rõ trong Tờ trình Uỷ ban nhân dân..

 

2.6.3. Uỷ ban nhân dân xem xét, thông qua dự thảo quyết định, chỉ thị

a) Hồ sơ trình Uỷ ban nhân dân

Để các thành viên Uỷ ban nhân dân có thời gian nghiên cứu dự thảo trước khi xem xét, thông qua, Luật năm 2004 quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 46 như sau:

“1. Tổ chức, cá nhân được phân công soạn thảo gửi tờ trình, dự thảo quyết định, chỉ thị, bản tổng hợp ý kiến và các tài liệu có liên quan đến các thành viên Uỷ ban nhân dân chậm nhất là ba ngày trước ngày Uỷ ban nhân dân họp”.

Như vậy, hồ sơ trình Uỷ ban nhân dân gồm:

– Tờ trình.

– Dự thảo quyết định, chỉ thị.

– Bản tổng hợp ý kiến.

– Các tài liệu có liên quan.

 

b) Uỷ ban dân nhân xem xét, thông qua dự thảo quyết định, chỉ thị

Theo quy định của Luật, việc xem xét thông qua dự thảo quyết định, chỉ thị tại phiên họp Uỷ ban nhân dân được tiến hành theo trình tự sau:

– Đại diện tổ chức, cá nhân được phân công soạn thảo trình bày dự thảo quyết định, chỉ thị;

– Uỷ ban nhân dân thảo luận và biểu quyết thông qua dự thảo quyết định, chỉ thị;

– Dự thảo quyết định, chỉ thị được thông qua khi có quá nửa tổng số thành viên Uỷ ban nhân dân biểu quyết, tán thành;

– Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thay mặt Uỷ ban nhân dân ký ban hành quyết định, chỉ thị.

Có một vấn đề cần chú ý là trong công đoạn này Luật năm 2004 không quy định công chức tư pháp – hộ tịch phát biểu ý kiến tại phiên họp của Uỷ ban nhân dân để xem xét, thông qua dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân, tuy nhiên, để bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của dự thảo văn bản thì công chức tư pháp hộ tịch cần tham gia vào quy trình thảo luận, thông qua văn bản của Uỷ ban nhân dân.

Sau khi dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân đượcthông qua, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thay mặt Uỷ ban nhân dân ký ban hành quyết định, chỉ thị.

 

2.6.4. Công bố văn bản

Việc công bố văn bản để cơ quan, tổ chức, nhân dân địa bàn cấp xã biết và chấp hành là yêu cầu bắt buộc được quy định tại Điều 8 và Điều 51 của Luật, cụ thể là:

 

a) Niêm yết văn bản

Khoản 2 Điều 8 của Luật năm 2004 quy định: “Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp xã phải được niêm yết tại trụ sở của cơ quan ban hành và những địa điểm khác do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp quyết định”.

Như vậy, việc niêm yết quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân sau khi đã ban hành là bắt buộc tại trụ sở Uỷ ban nhân dân (cơ quan ban hành) và các địa điểm khác do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân quyết định, đó là ở những nơi tập trung đông dân cư, trụ sở cơ quan, tổ chức trên địa bản xã, ở Câu lạc bộ, tủ sách pháp luật…

Để người dân và các đối tượng khác có thời gian nghiên cứu, tìm hiểu văn bản, cần dành một khoảng thời gian nhất định để niêm yết văn bản, ít nhất là 20 ngày liên tục kể từ khi bắt đầu niêm yết. Mặt khác, việc niêm yết văn bản nên giao cho cán bộ Văn phòng Uỷ ban nhân dân thực hiện là có hiệu quả nhất. Điều cần lưu ý là văn bản niêm yết phải là văn bản chính (không phải bản chụp).

 

b) Các hình thức công bố khác

Luật không quy định các hình thức khác về công bố, niêm yết văn bản của Uỷ ban nhân dân vì trong thực tiễn, mỗi địa phương có cách làm và sự linh hoạt khác nhau. Nếu quy định cụ thể sẽ khó thực hiện. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy, một trong những hình thức có hiệu quả để người dân có điều kiện tiếp cận văn bản đó là:

– Phát văn bản đến tổ dân phố; cơ quan, tổ chức hữu quan (tất nhiên phải ở những nơi có điều kiện);

– Phát trên loa truyền thanh, đài truyền thanh xã (định kỳ các buổi);

– In thành tập (như dạng hệ thống hoá)…

 

2.7. Soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân các cấp trong trường hợp đột xuất, khẩn cấp

2.7.1 Nhu cầu Soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân các cấp trong trường hợp đột xuất, khẩn cấp

Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân phải tuân thủ theo thủ tục, trình tự chặt chẽ do Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân quy định.

Tuy nhiên, hoạt động quản lý nhà nước của địa phương rất đa dạng, phong phú. Nhiều vấn đề đột xuất, khẩn cấp phát sinh trong quản lý đòi hỏi Uỷ ban nhân dân các cấp cần có những quyết sách kịp thời nhằm giải quyết các vấn đó. Khi đó, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để giải quyết những vấn đề này là đòi hỏi tất yếu của hoạt động quản lý nhà nước. Tuy nhiên, trước yêu cầu cấp bách của việc giải quyết vấn đề đột xuất, khẩn cấp, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật không thể tuân thủ một cách chặt chẽ thủ tục, trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong trường hợp thông thường mà Luật năm 2004 quy định. Do đó, để bảo đảm sự linh hoạt, kịp thời trong quản lý nhà nước ở địa phương, Luật còn quy định việc ban hành quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân trong trường hợp đột xuất, khẩn cấp. Điều 47 Luật năm 2004 quy định:trong trường hợp phải giải quyết các vấn đề phát sinh đột xuất, khẩn cấp trong phòng, chống thiên tai, cháy, nổ, dịch bệnh, an ninh, trật tự thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã ban hành quyết định, chỉ thị không theo trình tự, thủ tục thông thường mà theo trình tự, thủ tục quy định tại Điều 48 Luật năm 2004 (trình tự, thủ tục rút gọn). Cần lưu ý rằng Luật chỉ quy định trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành rút gọn đối với văn bản của Uỷ ban nhân dân mà không quy định đối với soạn thảo, ban hành văn bản của Hội đồng nhân dân.

 

2.7.2. Trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân các cấp trong trường hợp đột xuất, khẩn cấp

a) Trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân các cấp trong trường hợp đột xuất

Theo quy định tại khoản 1 Điều 48 Luật năm 2004 thì trong trường hợp phải giải quyết các vấn đề đột xuất, trình tự, thủ tục soạn thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân các cấp được thực hiện như sau:

– Phân công soạn thảo:

Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phân công cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân hoặc cá nhân soạn thảo và trực tiếp chỉ đạo việc soạn thảo văn bản. Ví dụ: khi phải giải quyết các vấn đề phát sinh trong phòng, chống thiên tai, cháy, nổ, dịch bệnh, an ninh, trật tự như: quyết định, chỉ thị để phòng, chống dịch cúm gia cầm, các quyết định, chỉ thị về phòng, chống cháy rừng, quyết định, chỉ thị về phòng, chống cơn bão sắp tới thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phân công Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoặc cá nhân như Chánh văn phòng Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh soạn thảo dự thảo quyết định, chỉ thị đồng thời trực tiếp chỉ đạo việc soạn thảo.

– Trách nhiệm của cơ quan, cá nhân soạn thảo

Khi được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giao soạn thảo quyết định, cơ quan, cá nhân soạn thảo có trách nhiệm:

+ Xây dựng dự thảo theo sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh;

+ Xây dựng tờ trình, trong đó nêu rõ sự cần thiết ban hành văn bản, đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản, những nội dung chính của dự thảo văn bản;

+ Lấy ý kiến của cơ quan, tổ chức hữu quan bằng cách tổ chức các cuộc họp để lấy ý kiến. Việc tổ chức lấy ý kiến cần được tiến hành nhanh, gọn nhằm góp phần cho cơ quan, cá nhân được giao tiến hành soạn thảo, chỉnh lý dự thảo văn bản tốt hơn. Các ý kiến góp ý phải được cơ quan soạn thảo, cơ quan của cá nhân được giao soạn thảo tổng hợp hoặc tập hợp lại để gửi các thành viên Uỷ ban nhân dân.

Một điều cần lưu ý là dù quyết định, chỉ thị được ban hành để giải quyết các trường hợp đột xuất, vẫn phải bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của quyết định, chỉ thị trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Do vậy, cơ quan, cá nhân được giao soạn thảo quyết định, chỉ thị cần lấy ý kiến góp ý của Sở Tư pháp về dự thảo quyết định, chỉ thị.

– Hồ sơ gửi thành viên Uỷ ban nhân dân

Cơ quan soạn thảo, cơ quan của cá nhân được giao soạn thảo có trách nhiệm chuẩn bị hồ sơ dự thảo quyết định, chỉ thị và gửi đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân. Hồ sơ dự thảo quyết định, chỉ thị bao gồm:

+ Tờ trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh;

+ Dự thảo quyết định, chỉ thị;

+ Bản tổng hợp hoặc tập hợp ý kiến của cơ quan, tổ chức hữu quan vào dự thảo quyết định, chỉ thị;

+ Tài liệu có liên quan đến dự thảo quyết định, chỉ thị như: văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, chỉ thị, nghị quyết của Đảng về vấn đề phòng, chống dịch cúm gia cầm.

Chủ tịch Uỷ ban nhân dân chỉ đạo việc gửi hồ sơ dự thảo quyết định, chỉ thị đến các thành viên Uỷ ban nhân dân chậm nhất là một ngày trước ngày Uỷ ban nhân dân họp.

– Uỷ ban nhân dân thảo luận và biểu quyết thông qua dự thảo quyết định, chỉ thị

Việc thảo luận, thông qua dự thảo quyết định, chỉ thị trong trường hợp đột xuất được tiến hành theo trình tự sau:

+ Cơ quan, cá nhân được giao soạn thảo báo cáo về sự cần thiết ban hành quyết định, chỉ thị và những nội dung cơ bản của dự thảo quyết định, chỉ thị;

+ Các thành viên Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thảo luận;

+ Cơ quan, cá nhân được giao soạn thảo chỉnh lý dự thảo theo ý kiến các thành viên Uỷ ban nhân dân và trình bày việc chỉnh lý dự thảo;

+ Sau khi nghe cơ quan trình dự thảo báo cáo về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo, thành viên Uỷ ban nhân dân thảo luận về dự thảo đã được chỉnh lý. Chủ tọa kết thúc việc thảo luận và đề nghị biểu quyết.

Uỷ ban nhân dân biểu quyết thông qua dự thảo bằng cách biểu quyết từng vấn đề, sau đó biểu quyết toàn bộ hoặc nghe đọc toàn văn rồi biểu quyết toàn bộ một lần.

Dự thảo quyết định, chỉ thị được thông qua khi có quá nửa tổng số đại biểu thành viên Uỷ ban nhân dân biểu quyết tán thành.

– Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thay mặt Uỷ ban nhân dân ký ban hành Quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh

Quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh được ban hành để giải quyết các trường hợp đột xuất cũng phải được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thay mặt Uỷ ban nhân dân ký ban hành. Trong trường hợp vắng mặt, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có thể ủy quyền cho Phó Chủ tịch ký.

 

b) Soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong trường hợp khẩn cấp

Theo quy định tại khoản 2 Điều 48 Luật năm 2004 thì trong trường hợp phải giải quyết các vấn đề khẩn cấp trong phòng, chống thiên tai, cháy nổ, dịch bệnh, an ninh, trật tự (ví dụ: chống lụt bão, chống dịch cúm gia cầm, chống cháy rừng...) thì trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành văn bản được tiến hành như sau:

– Phân công soạn thảo:

Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phân công cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân hoặc cá nhân soạn thảo văn bản.

– Trách nhiệm của cơ quan, cá nhân được giao soạn thảo

Cơ quan, cá nhân được giao soạn thảo có trách nhiệm:

+ Xây dựng dự thảo quyết định, chỉ thị theo sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh;

+ Xin ý kiến của cơ quan, tổ chức hữu quan góp ý về dự thảo quyết định, chỉ thị;

+ Chuẩn bị hồ sơ dự thảo quyết định, chỉ thị gồm: tờ trình, dự thảo quyết định, chỉ thị, ý kiến của cơ quan, tổ chức hữu quan và tài liệu có liên quan;

+ Gửi hồ sơ dự thảo quyết định, chỉ thị đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân.

– Uỷ ban nhân dân thảo luận và biểu quyết thông qua dự thảo quyết định, chỉ thị:

Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh triệu tập ngay phiên họp Uỷ ban nhân dân để thông qua dự thảo quyết định, chỉ thị.

Việc thảo luận, thông qua dự thảo quyết định, chỉ thị trong trường hợp khẩn cấp được tiến hành theo trình tự sau:

+ Cá nhân được giao soạn thảo báo cáo những nội dung cơ bản của dự thảo quyết định, chỉ thị;

+ Các thành viên Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thảo luận;

+ Cá nhân được giao soạn thảo chỉnh lý dự thảo theo ý kiến các thành viên Uỷ ban nhân dân;

+ Các thành viên Uỷ ban nhân dân biểu quyết thông qua dự thảo bằng cách biểu quyết từng vấn đề, sau đó biểu quyết toàn bộ hoặc nghe đọc toàn văn rồi biểu quyết toàn bộ một lần.

Dự thảo quyết định, chỉ thị được thông qua khi có quá nửa tổng số đại biểu thành viên Uỷ ban nhân dân biểu quyết tán thành.

– Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thay mặt Uỷ ban nhân dân ký ban hành quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

Quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh được ban hành để giải quyết các trường hợp khẩn cấp cũng phải được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thay mặt Uỷ ban nhân dân ký ban hành. Trong trường hợp vắng mặt, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có thể ủy quyền cho Phó Chủ tịch ký.

 

III. Hiệu lực và nguyên tắc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật

 

1. Các nguyên tắc liên quan đến hiệu lực của văn bản

Liên quan đến hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật, người ta thường nói đến hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật về không gian, về thời gian (thời điểm bắt đầu có hiệu lực của văn bản và thời điểm chấm dứt hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật), hiệu lực về đối tượng áp dụng; hiệu lực về thứ bậc giá trị pháp lý của văn bản.

 

1.1. Hiệu lực về không gian và đối tượng áp dụng của văn bản quy phạm pháp luật

1.1.1. Hiệu lực về không gian và đối tượng áp dụng của văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương

Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật về không gian là giới hạn phạm vi lãnh thổ mà văn bản có hiệu lực.

Theo Điều 82 của Luật năm 2008 thì văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước trung ương có hiệu lực trong phạm vi cả nước và được áp dụng đối với mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân, trừ trường hợp văn bản có quy định khác hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.

Nhìn chung, văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan trung ương về nguyên tắc có hiệu lực trên phạm vi toàn lãnh thổ quốc gia trừ trường hợp văn bản bị giới hạn bởi nhu cầu điều chỉnh pháp luật không phải đối với toàn bộ, mà chỉ một phần lãnh thổ.

 

1.1.2.Hiệu lực về không gian và đối tượng áp dụng của văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp

a) Hiệu lực về không gian

Theo Điều 5 cña Luật năm 2004 thì: “Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân phải quy định hiệu lực về thời gian, không gian và đối tượng áp dụng”, theo đó, chể hóa điều này, Điều 49 của Luật quy định rõ hiệu lực về không gian, đối tượng áp dụng của văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân:

“1. Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân của đơn vị hành chính nào thì có hiệu lực trong phạm vi đơn vị hành chính đó.

2. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân có hiệu lực trong phạm vi nhất định của địa phương thì phải được xác định ngay trong văn bản đó.

3. Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân có hiệu lực áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân khi tham gia các quan hệ xã hội được văn bản quy phạm pháp luật đó điều chỉnh”.

Nếu như các cơ quan nhà nước trung ương được thiết lập ở tầm quốc gia thì các cơ quan chính quyền địa phương lại được tổ chức ở các đơn vị hành chính – lãnh thổ. Thẩm quyền và phạm vi quản lý của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp chỉ giới hạn trong khuôn khổ một địa bàn lãnh thổ nhất định. Văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan này với tính chất là sản phẩm của hoạt động quản lý có hiệu lực trong lãnh thổ địa phương thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan tương ứng. Tiêu chí để xác định hiệu lực về không gian của văn bản là phạm vi lãnh thổ mà Hội đồng nhân dân hoặc Uỷ ban nhân dân được giao quản lý. Do đó, “văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân có hiệu lực trong phạm vi địa phương” (khoản 2 Điều 79 của Luật năm 2004) thì “phạm vi địa phương” ở đây phải được hiểu là đơn vị hành chính lãnh thổ thuộc thẩm quyền quản lý của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ban hành văn bản.

Bên cạnh đó, do địa giới hành chính của các địa phương nhiều khi bị điều chỉnh như chia tách, sáp nhập toàn bộ hoặc một phần lãnh thổ, nên hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân trong trường hợp bị điều chỉnh địa giới hành chính cũng bị ảnh hưởng theo. Dự liệu đối với các ảnh hưởng này, Điều 50 của Luật năm 2004 đề cập tới hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân trong trường hợp điều chỉnh địa giới hành chính (liên quan đến hiệu lực về không gian) như sau:

– Trường hợp chia tách đơn vị hành chính lãnh thổ:

Trong trường hợp một đơn vị hành chính được chia thành các đơn vị hành chính mới thì văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân của đơn vị hành chính được chia có hiệu lực đối với các đơn vị hành chính mới cho đến khi Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân của đơn vị hành chính mới ban hành văn bản quy phạm pháp luật thay thế.

Ví dụ: Huyện A được tách thành hai huyện E và F thì văn bản của huyện A có hiệu lực cho đến khi Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân huyện E và F ban hành văn bản mới thay thế.

– Trường hợp sáp nhập đơn vị hành chính lãnh thổ:

Trong trường hợp nhiều đơn vị hành chính được sáp nhập thành một đơn vị hành chính mới thì văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân của đơn vị hành chính được sáp nhập có hiệu lực đối với đơn vị hành chính đó cho đến khi Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân của đơn vị hành chính mới ban hành văn bản quy phạm pháp luật thay thế.

Ví dụ: Xã A, xã B và xã C được sáp nhập thành xã D thì văn bản của các xã A, B và C vẫn còn có hiệu lực cho đến khi Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã D ban hành văn bản mới thay thế.

– Trường hợp sáp nhập một phần đơn vị hành chính lãnh thổ:

Trong trường hợp một phần địa phận và dân cư của đơn vị hành chính này được sáp nhập về một đơn vị hành chính khác thì văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân của đơn vị hành chính được mở rộng có hiệu lực đối với phần địa phận và bộ phận dân cư được sáp nhập.

Ví dụ:Xã A thuộc huyện B được sáp nhập vào xã C thuộc huyện D thì văn bản của các xã C có hiệu lực đối với dân cư của xã A. Hoặc ví dụ khác: Thôn K thuộc xã M được sáp nhập vào xã N thì văn bản của xã N có hiệu lực đối với dân cư thôn K của xã M.

 

b) Hiệu lực về đối tượng áp dụng

Hiệu lực về đối tượng áp dụng liên quan mật thiết đến hiệu lực theo lãnh thổ của văn bản quy phạm pháp luật. Tương ứng với mỗi chủ thể quản lý có một nhóm đối tượng chịu quản lý. Nhìn chung, đối tượng áp dụng văn bản quy phạm pháp luật là những cá nhân, tổ chức. Bên cạnh các cá nhân, tổ chức nêu trên, còn có những đối tượng chịu sự quản lý của một địa phương, song lại đang ở trên một địa bàn thuộc quyền quản lý của một địa phương khác. Kết hợp giữa nguyên tắc xác định hiệu lực theo không gian và theo đối tượng áp dụng, có thể kết luận rằng những đối tượng nêu trên phải tuân thủ văn bản của hai loại cơ quan: Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân nơi họ đang ở và Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân có quyền quản lý trực tiếp, thường xuyên đối với họ. Hay nói một cách khác, văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân có thể có hiệu lực đối với đối tượng thuộc quyền quản lý của mình đóng ở một địa phương khác. Chẳng hạn như, cá nhân, tổ chức mặc dù không cư trú, song khi đang ở một địa bàn lãnh thổ nào thì phải chấp hành các quy định về bảo đảm trật tự an toàn giao thông hay quy định về phí, lệ phí của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân quản lý địa bàn đó.

Đối với các luật thì đối tượng áp dụng sẽ rộng hơn so với văn bản của chính quyền địa phương. Ví dụ: Luật điện lực quy định tại Điều 2 về đối tượng áp dụng như sau: “Luật này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân hoạt động điện lực, sử dụng điện hoặc có các hoạt động khác liên quan đến điện lực tại Việt Nam”. Như vậy, Luật nhằm tới đối tượng điều chỉnh là tổ chức, cá nhân trong phạm vi toàn quốc, trong khi đó, văn bản của địa phương thì đối tượng áp dụng chủ yếu là người dân địa phương hoặc tổ chức, cá nhân trú tại địa phương (sống hoặc làm việc tại địa phương). Do đó, đối tượng áp dụng của văn bản do cấp xã ban hành thường ít hơn so với đối tượng áp dụng văn bản do cấp tỉnh ban hành.

 

1.2. Hiệu lực về thời gian

Hiệu lực về thời gian thể hiện ở thời điểm bắt đầu có hiệu lực và thời điểm chấm dứt hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật. Luật năm 2008 và Luật năm 2004 đã quy định rất cụ thể về thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật và thời điểm chấm dứt hiệu lực của văn bản

 

1.2.1.Về thời điểm (bắt đầu) có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật

Xuất phát từ quan điểm: pháp luật phải công khai, phải được phổ biến rộng rãi đến người dân để tất cả các cá nhân, tổ chức biết về nội dung văn bản trước khi văn bản có hiệu lực và không ai có thể phải chịu các chế tài của văn bản một khi văn bản đó chưa được công khai hoá, mặt khác, việc quy định thời điểm có hiệu lực của văn bản phải tính đến quá trình chuẩn bị tốt các điều kiện để tổ chức thi hành văn bản cũng như thông tin đến mọi đối tượng có liên quan đến việc thi hành văn bản đó đòi hỏi phải thay đổi cách quy định thời điểm bắt đầu có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật “sau mười lăm ngày kể từ ngày đăng Công báo” và “kể từ ngày ký” bằng quy định mới tại Điều 78 Luật năm 2008 và Điều 51 Luật năm 2004.

Xét dưới góc độ quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì sau khi văn bản được ký còn phải có một công đoạn quan trọng là công bố văn bản, mặt khác, có một số văn bản sau khi ký phải được phê chuẩn thì mới có thể phát huy hiệu lực; còn dưới góc độ tổ chức thì cần có thời gian để các chủ thể chuẩn bị cho việc triển khai văn bản và để các cơ quan cấp dưới có thời gian chuẩn bị, ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành, thì việc quy định thời điểm có hiệu lực của văn bản phải bảo đảm các điều kiện: văn bản phải được công bố rộng rãi tới các đối tượng trực tiếp thi hành văn bản và tới các đối tượng rộng hơn; có thời gian để chuẩn bị cho việc đưa văn bản vào cuộc sống; tạo thuận lợi cho việc quy định chi tiết, hướng dẫn áp dụng văn bản nếu đó là cần thiết. Ngoài ra, cũng cần chú ý quy định thời điểm khi có sự cân nhắc về khoảng thời gian cần thiết để dành cho công tác tuyên truyền, phổ biến nội dung của văn bản đến đối tượng thi hành hoặc để chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc tổ chức thực hiện văn bản đó.

a) Về thời điểm (bắt đầu) có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở trung ương

Điều 78 của Luật năm 2008 quy định thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương như sau:

“1. Thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được quy định trong văn bản nhưng không sớm hơn bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành.

Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật quy định các biện pháp thi hành trong tình trạng khẩn cấp, văn bản được ban hành để kịp thời đáp ứng yêu cầu phòng, chống thiên tai, dịch bệnh thì có thể có hiệu lực kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành nhưng phải được đăng ngay trên Trang thông tin điện tử của cơ quan ban hành và phải được đưa tin trên phương tiện thông tin đại chúng; đăng Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sau đây gọi chung là Công báo) chậm nhất sau hai ngày làm việc, kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành.

2. Văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng Công báo; văn bản quy phạm pháp luật không đăng Công báo thì không có hiệu lực thi hành.”

Theo quy định này, thời điểm bắt đầu có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật phải được cơ quan ban hành văn bản xác định rõ ngay trong văn bản và phải bảo đảm nguyên tắc “không được sớm hơn bốn mươi lăm ngày kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành” nhằm bảo đảm tính công khai, minh bạch trước khi văn bản có hiệu lực. Quy định này nhằm khắc phục quy định về thời điểm có hiệu lực của văn bản xác định theo thời điểm đăng Công báo “sau mười lăm ngày kể từ ngày đăng Công báo” tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002 đã gây rất nhiều khó khăn cho việc xác định thời điểm văn bản có hiệu lực. Bởi lẽ, không phải ai cũng có sẵn tờ Công báo hoặc nếu có, lại phải một lần nữa xác định ngày có hiệu lực của văn bản. Đó là chưa kể đến việc nếu văn bản được in trong các sách hoặc tạp chí nào đó không phải là tờ Công báo lần đầu tiên đăng tải văn bản đó thì người đọc sẽ khó mà biết được hiệu lực của văn bản được tính từ ngày, tháng, năm nào.

Bên cạnh đó, Luật năm 2008 cũng dự liệu trường hợp ngoại lệ trong việc xác định thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được ban hành trong trường hợp khẩn cấp, văn bản được ban hành để kịp thời đáp ứng yêu cầu phòng, chống thiên tai, dịch bệnh thì “có thể có hiệu lực kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành”, nhưng phải bảo đảm “được đăng ngay trên Trang thông tin điện tử của cơ quan ban hành và phải được đưa tin trên phương tiện thông tin đại chúng; đăng Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sau đây gọi chung là Công báo) chậm nhất sau hai ngày làm việc, kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành”.

Một nguyên tắc cần lưu ý là việc đăng Công báo văn bản quy phạm pháp luật là điều kiện bắt buộc để văn bản phát sinh hiệu lực. Theo đó, Điều 78 của Luật năm 2008 quy định “văn bản quy phạm pháp luật không đăng Công báo thì không có hiệu lực thi hành”. Nguyên tắc này bắt buộc đối với ngay cả trường hợp văn bản quy phạm pháp luật phát sinh hiệu lực ngay từ ngày công bố hoặc ký ban hành được ban hành trong trường hợp khẩn cấp, văn bản được ban hành để kịp thời đáp ứng yêu cầu phòng, chống thiên tai, dịch bệnh.

Điều 79 của Luật năm 2008 vẫn quy định hiệu lực trở về trước của văn bản quy phạm pháp luật, theo đó, nguyên tắc xác định hiệu lực trở về trước của văn bản quy phạm pháp luật được quy định như sau:

“Chỉ trong những trường hợp thật cần thiết, văn bản quy phạm pháp luật mới được quy định hiệu lực trở về trước.

2. Không được quy định hiệu lực trở về trước đối với các trường hợp sau đây:

a) Quy định trách nhiệm pháp lý mới đối với hành vi mà vào thời điểm thực hiện hành vi đó pháp luật không quy định trách nhiệm pháp lý;

b) Quy định trách nhiệm pháp lý nặng hơn”.

b) Thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân

Thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân được quy định tại Điều 51 của Luật năm 2004 như sau:

“1. Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có hiệu lực sau mười ngày và phải được đăng trên báo cấp tỉnh chậm nhất là năm ngày, kể từ ngày Hội đồng nhân dân thông qua hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ký ban hành, trừ trường hợp văn bản quy định ngày có hiệu lực muộn hơn.

Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp huyện có hiệu lực sau bảy ngày và phải được niêm yết chậm nhất là ba ngày, kể từ ngày Hội đồng nhân dân thông qua hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ký ban hành, trừ trường hợp văn bản quy định ngày có hiệu lực muộn hơn.

Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp xã có hiệu lực sau năm ngày và phải được niêm yết chậm nhất là hai ngày, kể từ ngày Hội đồng nhân dân thông qua hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ký ban hành, trừ trường hợp văn bản quy định ngày có hiệu lực muộn hơn.

Đối với văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân quy định các biện pháp nhằm giải quyết các vấn đề phát sinh đột xuất, khẩn cấp quy định tại Điều 47 của Luật này thì có thể quy định ngày có hiệu lực sớm hơn”.

Cần bổ sung nội dung cách tính ngày có hiệu lực của 3 cấp và vấn đề đăng báo, niêm yết là điều kiện bắt buộc để văn bản phát sinh hiệu lực.

“Ngày có hiệu lực sớm hơn”, theo quy định của Luật năm 2004 là sớm hơn so với quy định chung, hay cụ thể hơn, thay vì sau 10, 7, 5 (lần lượt đối với cấp tỉnh, huyện, xã) ngày kể từ ngày Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ký ban hành thì văn bản có thể có hiệu lực ngay sau khi ký.

Đối với việc áp dụng quy định về hiệu lực sớm hơn, văn bản được áp dụng là quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã. Điều cần lưu ý là chỉ văn bản do Uỷ ban nhân dân ban hành và trong trường hợp để giải quyết các vấn đề phát sinh đột xuất, khẩn cấp trong phòng, chống thiên tai, cháy, nổ, dịch bệnh, an ninh, trật tự.

Mặc dù có quy định của Điều 51 năm 2004 nhưng trong thực tiễn áp dụng, vẫn có nhiều người hiểu rằng văn bản sẽ có hiệu lực ngay sau 10 ngày đối với văn bản của cấp tỉnh, sau 7 ngày đối với văn bản của cấp huyện và sau 5 ngày đối với văn bản của cấp xã và ít chú ý tới quy định “trừ trường hợp văn bản quy định ngày có hiệu lực muộn hơn”.

Điều cần được nhấn mạnh ở đây là văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cần phải quy định rõ trong chính văn bản thời điểm bắt đầu có hiệu lực của văn bản. ví dụ: thay vì quy định “Quyết định này có hiệu lực sau 10 ngày kể từ ngày Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ký ban hành” thì nên quy định “Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày … tháng … năm…”.Ngoài ra, cũng cần chú ý quy định thời điểm khi có sự cân nhắc về khoảng thời gian cần thiết để dành cho công tác tuyên truyền, phổ biến nội dung của văn bản đến đối tượng thi hành hoặc để chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc tổ chức thực hiện văn bản đó.

Với bất cứ một văn bản quy phạm pháp luật nào, nếu như người dân không được biết vì không thể biết thì họ không có nghĩa vụ phải thi hành. Đối với văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương cũng vậy, nếu như người dân không biết hoặc có biết mà không thể hiểu được thì văn bản cũng chỉ nằm “trên giấy” mà thôi.

Một trong những nguyên tắc cần được các cấp chính quyền địa phương lưu ý là không quy định hiệu lực trở về trước của văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ban hành. Khoản 2 Điều 51 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân quy định rõ “Không quy định hiệu lực trở về trước đối với văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân.” Như vậy, văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp không thể có hiệu lực trước khi văn bản được ban hành vì Luật đã quy định rõ nguyên tắc này. Văn bản sẽ chỉ có hiệu lực sau khi được chủ thể có thẩm quyền ký ban hành.

 

1.2.2. Ngưng hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật

a) Ngưng hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan trung ương

“Ngưng hiệu lực” là một thuật ngữ pháp lý còn tranh cãi: hiệu lực của văn bản đã dừng hẳn hay chỉ là “tạm dừng”, có khái niệm “tạm ngưng hiệu lực” hay không? Tuy nhiên, theo ngôn từ và tinh thần của Điều 80 của Luật năm 2008 thì ngưng hiệu lực được quy định ở đây chính là dừng hiệu lực tạm thời của văn bản và trong các trường hợp sau:

– Văn bản quy phạm pháp luật bị đình chỉ việc thi hành thì ngưng hiệu lực cho đến khi có quyết định xử lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định huỷ bỏ thì văn bản hết hiệu lực, nếu không huỷ bỏ thì văn bản tiếp tục có hiệu lực.

– Thời điểm ngưng hiệu lực, tiếp tục có hiệu lực của văn bản hoặc hết hiệu lực của văn bản phải được quy định rõ tại quyết định đình chỉ việc thi hành, quyết định xử lý văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Quyết định đình chỉ việc thi hành, quyết định xử lý văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng Công báo, đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng.

 

a) Ngưng hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân

Tương tự như việc ngưng hiệu lực của văn bản do cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành, Điều 52 của Luật năm 2004 quy định văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ngưng hiệu lực trong các trường hợp sau:

– Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân bị đình chỉ thi hành thì ngưng hiệu lực cho đến khi có quyết định xử lý của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền; trường hợp không bị hủy bỏ, bãi bỏ thì văn bản tiếp tục có hiệu lực; trường hợp bị hủy bỏ, bãi bỏ thì văn bản hết hiệu lực.

– Thời điểm ngưng hiệu lực, tiếp tục có hiệu lực hoặc hết hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật phải được quy định rõ tại văn bản đình chỉ thi hành, văn bản xử lý của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền.

Tuy vậy, thời gian ngưng hiệu lực không dễ xác định trong trường hợp văn bản không bị xử lý sau khi có quyết định tạm đình chỉ thi hành. Trong trường hợp đã có văn bản đình chỉ thi hành, cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm tuyên bố về “tình trạng hiệu lực” của văn bản sau khi đã được kiểm tra, giám sát.

 

1.2.3. Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực

a) Những trường hợp văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước trung ương ban hành hết hiệu lực

Theo quy định tại Điều 81 của Luật năm 2008, văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong các trường hợp sau đây:

– Hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản;

– Được sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế bằng văn bản mới của chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó;

– Bị hủy bỏ hoặc bãi bỏ bằng một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

 

b) Những trường hợp văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân hết hiệu lực

Theo quy định tại Điều 53 của Luật năm 2004, trong các trường hợp sau đây văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân hết hiệu lực:

– Văn bản hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản. Ví dụ: Quyết định số 2816/QĐ-UB ngày 15 tháng 11 năm 2002 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng về việc duyệt giá hỏa thiêu bằng lò gas tạm thời thực hiện tại Công ty phục vụ mai táng Hải Phòng [8] quy định: “Thời gian thực hiện tạm thời mức giá duyệt tại Điều 1 được thực hiện 365 ngày kể từ ngày ký Quyết định”.Hoặc một số văn bản quy định: “Văn bản này hết (chấm dứt) hiệu lực sau 3 năm kể từ ngày văn bản có hiệu lực”.

– Văn bản hết hiệu lực do được thay thế bằng một văn bản mới của chính cơ quan đã ban hành văn bản đó. Ví dụ: Quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh A năm 2005 về việc quy định mức thu một phần viện phí khám chữa bệnh tại bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng V nhằm thay thế Quyết định của chính Uỷ ban nhân dân tỉnh A ban hành năm 2000.

– Văn bản hết hiệu lực do bị hủy bỏ hoặc bãi bỏ bằng một văn bản của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền. Ví dụ: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh X bãi bỏ Quyết định số… có nội dung trái pháp luật của Uỷ ban nhân dân huyện Y (huyện Y phải thuộc tỉnh X).

– Văn bản không còn đối tượng điều chỉnh. Ví dụ: không còn đối tượng được đền bù theo quy định của Quyết định của Uỷ ban nhân dân thành phố N về việc thực hiện công tác bồi thường và giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng trên địa bàn thành phố.

 

2. Nguyên tắc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật

Việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện chỉ sau khi văn bản đã có hiệu lực thi hành. Theo đó, Điều 83 của Luật năm 2008 quy định các nguyên tắc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành như sau:

– Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng từ thời điểm bắt đầu có hiệu lực.

Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực. Trong trường hợp văn bản có hiệu lực trở về trước thì áp dụng theo quy định đó.

– Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn.

– Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành mà có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản được ban hành sau.

– Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật mới không quy định trách nhiệm pháp lý hoặc quy định trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn đối với hành vi xảy ra trước ngày văn bản có hiệu lực thì áp dụng văn bản mới.

Đối với văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thì việc áp dụng văn bản được thực hiện theo nguyên tắc sau:

– Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân được áp dụng từ thời điểm có hiệu lực.

– Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cùng cấp có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân.

– Trong trường hợp các nghị quyết của cùng một Hội đồng nhân dân có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của nghị quyết được ban hành sau.

– Trong trường hợp các quyết định, chỉ thị của cùng một Uỷ ban nhân dân có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của quyết định, chỉ thị được ban hành sau.

(LVN GROUP FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)