1. Căn cứ pháp lý
– Hiến pháp 2013;
– Luật tổ chức Quốc hội năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2020).
2. Quy định chung về Quốc hội
Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam do cử tri cả nước trực tiếp bầu ra theo các nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Quốc hội có nhiệm kì là 5 năm.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
Quốc hội quyết định các chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, các nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước.
Quốc hội vừa mang chủ quyền nhà nước vừa mang chủ quyền của nhân dân.
– Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau:
1) Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật, quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh;
2) Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
3) Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của đất nước;
4) Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách nhà nước trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước, quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế;
5) Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước;
6) Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và chính quyền địa phương;
7) Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước; Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các uỷ viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh; bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn;
8) Quyết định thành lập, bãi bỏ các bộ và cơ quan ngang bộ của Chính phủ, thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thành lập hoặc giải tán đơn vị hành chính – kính tế đặc biệt.
9) Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội;
10) Quyết định đại xá;
11) Quyết định hàm, cấp trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm cấp ngoại giao và những hàm, cấp nhà nước khác, quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước,
12) Quyết định vấn đề về chiến tranh-và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;
13) Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại, phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp kí. Phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điểu ước quốc tế khác đã được kí kết hoặc gia nhập theo để nghị của Chủ tịch nước;
14) Quyết định việc trưng cầu ý dân.
– Các cơ quan của Quốc hội quy định tại Điều 4 và Điều 22 Luật Tổ chức Quốc hội như sau:
“Ðiều 4 Luật Tổ chức Quốc hội quy định:
Quốc hội tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ; làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số.
Hiệu quả hoạt động của Quốc hội được bảo đảm bằng hiệu quả của các kỳ họp của Quốc hội, hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội.”
Các cơ quan của Quốc hội gồm có: Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội.
Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội là các cơ quan của Quốc hội Quốc hội quyết định số lượng Uỷ ban và bầu các thành viên của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội. Khi xét thấy cần thiết, Quốc hội thành lập Uỷ ban lâm thời để nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra một vấn đề nhất định.”
“Điều 22 Luật Tổ chức Quốc hội quy định:
Quốc hội thành lập Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban sau đây:
1. Uỷ ban pháp luật;
2. Uỷ ban tư pháp;
3. Uỷ ban kinh tế;
4. Uỷ ban tài chính, ngân sách;
5. Uỷ ban quốc phòng và an ninh;
6. Uỷ ban văn hoá, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng;
7. Uỷ ban về các vấn đề xã hội;
8. Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường;
9. Uỷ ban đối ngoại.”
3. Chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban của Quốc hội
Uỷ ban của Quốc hội được thành lập để giúp Quốc hội thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn đã được Hiến pháp, luật quy định đồng thời, các Uỷ ban của Quốc hội còn là hình thức thu hút các đại biểu vào việc thực hiện công tác chung của Quốc hội. Uỷ ban của Quốc hội gồm có chủ nhiệm, các phó chủ nhiệm và các uỷ viên uỷ ban do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội. Các thành viên của các uỷ ban của Quốc hội không thể đồng thời là thành viên Chính phủ để đảm bảo cho hoạt động giám sát được khách quan.
Các Uỷ ban của Quốc hội được chia làm hai loại: Uỷ ban thường trực và Uỷ ban lâm thời.
Uỷ ban thường trực của Quốc hội là những uỷ bạn hoạt động thường xuyên, tổn tại trong suốt nhiệm kì của Quốc hội. Hiện nay Quốc hội khoá XI của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có bảy uỷ ban thường trực đó là: Uỷ ban pháp luật, Uỷ ban kinh tế và ngân sách, Uỷ ban văn hoá, giáo dục thanh thiếu niên và nhi đồng, Uỷ ban quốc phòng và an ninh; Uÿ ban về các vấn để xã hội, Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường, Uỷ ban đối ngoại.
Nhiệm vụ của các Uÿ ban trường trực là nghiên cứu, thẩm tra các dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và dự án khác, những báo cáo được Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội giao trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ý kiến vẻ chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; thực hiện quyền giám sát trong phạm ví nhiệm vụ, quyển hạn do luật định; kiến nghị những vấn đề thuộc phạm yị hoạt động của Uỷ ban. Mỗi uỷ ban có một số thành viên hoạt động theo chế độ chuyên trách.
Uỷ ban lâm thời là những uỷ ban được thành lập ra để thực hiện nhiệm vụ của Quốc hội trong một thời điểm nhất định, sau khi hoàn thành nhiệm vụ sẽ giải thể. Ví dụ: Uỷ ban kiểm tra tư cách đại biểu Quốc hội, Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp, Uỷ ban điều tra tội ác chiến tranh…
4. Các uỷ ban của Quốc hội
Những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội có quan hệ đến mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội, nhưng Quốc hội chỉ họp hai kì trong một năm nên không thể nghiên cứu, thảo luận và quyết định tốt các vấn đề nếu không có sự chuẩn bị kỹ càng. Vì vậy, các uỷ ban của Quốc hội được thành lập để giúp Quốc hội thực hiện được tốt các nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Các uỷ ban của Quốc hội chẳng những làm việc khi Quốc hội họp mà còn làm việc khi Quốc hội không họp; chẳng những nghiên cứu, thẩm tra những vấn đề được Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao cho mà còn đề xuất những sáng kiến giúp Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải quyết tốt các vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của mình. Đồng thời các uỷ ban của Quốc hội còn là hình thức thu hút các đại biểu vào việc thực hiện công tác chung của Quốc hội.
Quốc hội thành lập hai loại uỷ ban: Uỷ ban thường trực và uỷ ban lâm thời. Việc thành lập, giải thể uỷ ban do Quốc hội quyết định.
4.1. Ủy ban thường trực của Quốc hội
Uỷ ban thường trực của Quốc hội là những uỷ ban hoạt động thường xuyên. Nhiệm vụ của các uỷ ban này là nghiên cứu, thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và dự án khác, những báo cáo được Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao; trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ý kiến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; thực hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyên hạn do luật định; kiến nghị những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của uỷ ban.
Tùy theo từng lĩnh vực hoặc từng nhóm vấn đề nhất định, Quốc hội thành lập các uỷ ban sau đây:
1. Uỷ ban pháp luật;
2. Uỷ ban kinh tế và ngân sách;
3. Uỷ ban quốc phòng và an ninh;
4. Uỷ ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng;
5. Uỷ ban về các vấn đề xã hội;
6. Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường;
7. Uỷ ban đối ngoại.
(Điều 22 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001).
Trong các uỷ ban thường trực của Quốc hội thì Uỷ ban quốc phòng và an ninh là uỷ ban mới được thành lập từ năm 1992 để tham mưu cho Quốc hội về chính sách quốc phòng và an ninh, thẩm tra các dự án luật về quốc phòng và an ninh, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh.
Tại kì họp lần thứ 11 Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Quốc hội để thành lập thêm 2 uỷ ban thường trực mới là Uỷ ban tư pháp và Uỷ ban tài chính, ngân sách ưên cơ sở chia tách Uỷ ban pháp luật và Uỷ ban kinh tế và ngân sách.
Như vậy, theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Quốc hội có hiệu lực từ ngày 01/7/2007 thì Quốc hội có 9 uỷ ban thường trực, đó là:
1. Uỷ ban pháp luật;
2. Uỷ ban tư pháp;
3. Uỷ ban kinh tế;
4. Uỷ ban tài chính, ngân sách;
5. Uỷ ban quốc phòng và an ninh;
6. Uỷ ban văn hóa, giáo dụcthanh niên, thiếu niên và nhi đồng;
7. Uỷ ban về các vấn đề xã hội;
8. Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường;
9. Uỷ ban đối ngoại.
Luật tổ chức Quốc hội còn quy định mỗi uỷ ban phải có một số thành viên làm việc theo chế độ chuyên trách.
Theo Luật tổ chức Quốc hội (sửa đổi, bổ sung năm 2020), Quốc hội có 9 uỷ ban thường trực sau đây:
1. Uỷ ban pháp luật;
2. Uỷ ban tư pháp;
3. Uỷ ban kinh tế;
4. Uỷ ban tài chính, ngân sách;
5. Uỷ ban quốc phòng và an ninh;
6. Uỷ ban văn hóa, giáo dục;
7. Uỷ ban xã hội;
8. Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường;
9. Uỷ ban đối ngoại.
4.2. Ủy ban lâm thời của Quốc Hội
Uỷ ban lâm thời là những uỷ ban được Quốc hội thành lập ra khi xét thấy cần thiết để nghiên cứu thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, uỷ ban này sẽ giải thể. Vi dụ: ưỷ ban sửa đổi Hiến pháp, Uỷ ban thẩm tra tu cách đại biểu Quốc hội…
Uỷ ban của Quốc hội gồm có Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm và các uỷ viên, số Phó Chủ nhiệm và số uỷ viên uỷ ban do Quốc hội quyết định. Chủ nhiệm uỷ ban do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội, các Phó Chủ nhiệm và các uỷ viên uỷ ban do Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn, số thành viên hoạt động chuyên trách do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định.
Để đảm bảo thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, Hội đồng dân tộc và các uỷ ban của Quốc hội còn được Hiến pháp năm 2013 quy định có quyền yêu cầu thành viên Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng kiểm toán nhà nước và cá nhân hữu quan báo cáo, giải trình hoặc cung cấp tài liệu về những vấn đề cần thiết. Người được yêu càu có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu đó. Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm nghiên cứu và trả lời những kiến nghị của Hội đồng dân tộc và các uỷ ban của Quốc hội (Điều 77).
Trước đây, Luật tổ chức Quốc hội năm 2001 quy định: Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội có quyền kiến nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét trình Quốc hội việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì báo cáo công tác trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Các thành viên của Hội đồng dân tộc và các uỷ ban thường trực của Quốc hội phải là đại biểu Quốc hội và không thể đồng thời là thành viên Chính phủ để đảm bảo tính khách quan trong việc giám sát hoạt động của cơ quan chấp hành của Quốc hội.
5. Luật Tổ chức quốc hội sửa đổi 2020 Bổ sung quy định về Hội đồng dân tộc và Ủy ban của Quốc hội
Về cơ cấu tổ chức, theo quy định của Luật năm 2014, Thường trực Hội đồng dân tộc gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên thường trực. Thường trực Ủy ban của Quốc hội gồm Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên thường trực. Hiện nay theo quy định của Luật sửa đổi thì Thường trực Hội đồng dân tộc gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, các Ủy viên thường trực và các Ủy viên chuyên trách tại Hội đồng dân tộc. Thường trực Ủy ban của Quốc hội gồm Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm, các Ủy viên thường trực và các Ủy viên chuyên trách tại Ủy ban của Quốc hội.
Về nhiệm vụ quyền hạn, Luật bổ sung quy định về nhiệm vụ của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội trong việc tham gia thẩm tra nội dung liên quan đến lĩnh vực Hội đồng dân tộc, Ủy ban phụ trách trong dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do cơ quan khác của Quốc hội chủ trì thẩm tra. Trong quá trình thẩm tra dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội có trách nhiệm bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết với hệ thống pháp luật. Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội tổ chức phiên họp toàn thể để thẩm tra dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, đề án, báo cáo, dự án khác trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; xem xét, quyết định những vấn đề khác thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng, Ủy ban. Phiên họp toàn thể của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội phải có quá nửa tổng số thành viên của Hội đồng, Ủy ban tham dự. Báo cáo, nghị quyết, kiến nghị, các nội dung khác thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội được thông qua khi có quá nửa tổng số thành viên của Hội đồng, Ủy ban biểu quyết tán thành. Thành viên cửa Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội có trách nhiệm tham dự phiên họp của Hội đồng, Ủy ban theo triệu tập của Chủ tịch Hội đồng, Chủ nhiệm Ủy ban; thảo luận và biểu quyết các vấn đề xem xét tại phiên họp; trường hợp không tham dự phiên họp thì phải có lý do chính đáng, phải báo cáo và được sự đồng ý của Chủ tịch Hội đồng, Chủ nhiệm Ủy ban.