Luật sư tư vấn:

Vấn đề Bạn quan tâm, Luật LVN Group xin trao đổi như sau:

 

1. Cơ cấu lại thời hạn trả nợ vay là gì ?

Pháp luật Việt Nam trước đây thường đặt ra các điều kiện bắt buộc để được cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Theo các điều kiện này, pháp luật chỉ cho phép khi gặp khó khăn do thiên tai, hạn hán, chứ không phải do thua lỗ từ hoạt động sản xuất, kinh doanh. Khi chuyển sang mô hình đơn vị kinh doanh tiền tệ hoạt động theo quy luật kinh tế thị trường, những lý do này không còn là căn cứ pháp lý duy nhất.

Về phương diện hợp đồng, cơ cấu lại thời hạn trả nợ được xem như một thỏa thuận mới, hàm ý hỗ trợ bên vay khắc phục những khó khăn, tiếp tục hoạt động sản xuất, kinh doanh để trả nợ vay. Để biện pháp này ràng buộc chặt chẽ trách nhiệm của các bên (bao gồm các yêu cầu về hiệu quả sau khi được cơ cấu lại thời hạn trả nợ), pháp luật hiện hành đặt ra nhiều điều kiện xuất phát từ mục tiêu an toàn vay. Cùng với các quy định về mua bán nợ (phát sinh từ hợp đồng cho vay), quy định đã thể hiện rõ nét những giới hạn của quyền tự do trong các cam kết của hợp đồng, vì lợi ích, trật tự chung của hệ thống tín dụng.

 

2. Quy định về cơ cấu lại thời hạn trả nợ vay

Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 đang có hiệu lực không đề cập vấn đề thay đổi kỳ hạn trả nợ. Theo Điều 19 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN có đề cập hai hình thức này như sau:

Một là, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ gốc và/hoặc lãi tiền vay đó phù hợp với nguồn trả nợ của khách hàng;

Hai là, thời hạn cho vay không thay đổi; cho gia hạn nợ với thời hạn phù hợp nguồn trả nợ của khách hàng. Thời hạn được thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ trước hoặc trong thời hạn 10 (mười) ngày kể từ ngày đến kỳ hạn, thời hạn trả nợ thỏa thuận.

 

3. Thực tiễn tranh chấp về cơ cấu lại thời gian trả nợ

Mặc dù vậy, căn cứ vào một số án lệ mà tòa án nhân dân tối cao đã công bố để Bạn có thể vận dụng vào thực tiễn hợp đồng. Trên thực tế vẫn còn nhiều lúng túng, phần lớn các tổ chức tín dụng tự đặt ra các điều kiện riêng ghi trong hợp đồng vay như một “đặc ân” ban phát cho khách hàng, chứ không ràng buộc nghĩa vụ thực hiện. Chẳng hạn, Hợp đồng tín dụng số C0110073-NHKD, ký ngày 28/01/2011 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần VNTV với Ông Nguyễn Lưu H, tại khoản 2 có ghi:

“Bên ngân hàng có quyền chấp nhận hoặc không chấp nhận đề nghị cơ cấu lại thời hạn trả nợ của bên vay mà không cần có lý do”– (Hợp đồng tín dụng số co110073-NHKD, ký ngày 28/01/2011 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần VNTV – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh với Ông Nguyễn Lưu H). Điều khoản hợp đồng này ghi nhận quyền chủ động quyết định cơ cấu lại thời hạn trả nợ của bên cho vay đối với bên vay.

Ngay trong thực tiễn xét xử, giải quyết tranh chấp, có thể thấy, bên vay vẫn thường xin gia hạn nợ để khắc phục những khó khăn, tiếp tục duy trì khả năng thực hiện hợp đồng. Mặc dù vậy, các quyết định của Tòa án khi giải quyết tranh chấp có yêu cầu này của bị đơn (khách hàng vay) đều bị tuyên bác bỏ.

Ví dụ:Bản án số 61/2012/KDTM-PT ngày 28/12/2012 của Tòa án đã tuyên xử như sau:

Việc Ngân hàng thương mại cổ phần SGCT không xem xét đề nghị của công ty về việc giãn nợ, khoanh lãi, giãn thời gian thanh toán… Hội đồng xét xử xét thấy vấn đề này thuộc quyền hạn của ngân hàng khi xem xét doanh nghiệp có đủ điều kiện hay không để thực hiện theo quy chế, nên không thể cho rằng ngân hàng có lỗi…”.

Theo các viện dẫn ghi trong bản án, cơ cấu lại thời hạn trả nợ phụ thuộc vào quyền quyết định, khả năng xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng… như một điều kiện bắt buộc, đồng nghĩa tổ chức tín dụng hoàn toàn được quyền từ chối yêu cầu của khách hàng. Điều này làm cho hoạt động cơ cấu lại thời hạn trả nợ không đơn thuần là một quyền năng của bên vay, xét về phương diện quan hệ hợp đồng.

Thật vậy, điều kiện để cơ cấu lại thời hạn trả nợ được pháp luật cho phép, dựa theo các yêu cầu giải quyết nhu cầu xử lý nợ xấu, nợ quá hạn, mục tiêu lành mạnh hóa tài chính, năng lực hoạt động của các tổ chức tín dụng. Theo đó, khi cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ, tổ chức tín dụng phải đáp ứng được quy định của Ngân hàng Nhà nước về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn, bao gồm cả tỷ lệ tôi đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn, dài hạn trong trường hợp cơ cấu lại khoản nợ ngắn hạn để thành khoản nợ trung hạn, dài hạn, nhưng chỉ được thực hiện 01 (một) lần. Kèm theo đó là các biện pháp chế tài hành chính nếu tổ chức tín dụng có hành vi vi phạm (Điều 10 Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được sửa đổi bổ sung bởi điểm b, khoản 11, Điều 1 Thông tư số 09/2014/TT-NHNN ngày 18/3/2014).

Từ những quy định khá chặt chẽ này, các nhà làm luật đã thể hiện rõ những quan điểm về cơ cấu lại thời hạn trả nợ theo hướng an toàn tín dụng như sau:

Thứ nhất, áp dụng các biện pháp cơ cấu lại thời hạn trả nợ không chỉ dựa vào nhu cầu của khách hàng về một phương án hiệu quả sau khi cơ cấu lại, mà còn phụ thuộc tổ chức tín dụng đánh giá có khả năng trả nợ tốt hơn theo cam kết điều chỉnh, gia hạn nợ. Các bên tuy được phép thỏa thuận thay đổi kỳ hạn trả nợ nhưng thỏa thuận này vẫn không có giá trị ràng buộc chắc chắn, nếu không đáp ứng các điều kiện được viện dẫn.

Thứ hai, trước các yêu cầu đặt ra đối với sự phát triển ổn định của hệ thống tín dụng, mục đích của cơ cấu lại thời hạn trả nợ dần dần thay đổi, được quy định rõ hơn, phù hợp với các mục tiêu, định hướng hoàn thiện pháp luật hợp đồng cho vay như các tiêu chí về an toàn cho vay có đề cập. Các tiêu chí về rủi ro khách quan của các doanh nghiệp, cá nhân vốn dĩ là cơ sở để được cho phép cơ cấu lại thời hạn trả nợ, nếu dựa vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, không còn đóng vai trò chủ yếu.

Như vậy, trong việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, pháp luật ngân hàng thể hiện những khắt khe trong công tác quản lý tín dụng do chưa khuyến khích các bên cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Các quy định chỉ mói dừng lại ở mục tiêu đạt được – lợi ích của nền kinh tế quốc gia (sự an toàn tín dụng), song vẫn chưa bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể. Về nguyên tắc điều chỉnh của luật, các nghiên cứu trong khoa học pháp lý ngân hàng đã khẳng định yếu tố cân bằng quyền lợi của các chủ thể. Thiết nghĩ trong vấn đề này, pháp luật phải dung hòa lợi ích của các bên hợp đồng, thay vì chỉ chú ý đến các lợi ích công cộng.

Tóm lại, từ thực tiễn pháp lý trên, các quy định về cơ cấu lại thời hạn trả nợ như được phân tích, cần hoàn thiện hơn theo đỉnh hướng: i) Những rủi ro khách quan khi khách hàng sử dụng tiền vay là nhân tố tiên quyết cho công tác cơ cấu lại thời hạn trả nợ; ii) Giảm tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro đối với tổ chức tín dụng. Đây là giải pháp hữu hiệu khuyến khích các bên tìm đến biện pháp này khi gặp rủi ro, khó khăn khách quan tạm thời. Việc sửa đổi luật theo hướng này không làm mất đi an toàn vay, mà còn giúp cho cơ chế thực hiện hợp đồng được hài hòa, thông thoáng hơn.

Mọi vướng mắc pháp lý trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, hoạt động vay vốn, giải ngân vốn… Quý khác hàng vui lòng gọi: 1900.0191 để được Luật sư tư vấn pháp luật ngân hàng, tài chính trực tuyến qua tổng đài điện thoại. Đội ngũ Luật sư của LVN Group của Công ty luật LVN Group luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp mọi vướng mắc pháp lý trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.