Luật sư tư vấn:

Cảm ơn Bạn đã gửi câu hỏi, vấn đề này Luật LVN Group xin trao đổi một số góc độ như sau:

 

1. Mục đích sử dụng vốn vay theo pháp luật và thực tiễn trong nước và quốc tế

Mục đích vay vốn được trình bày trong mục này là nghĩa vụ hợp đồng vay theo những cam kết của bên vay đối với bên cho vay nhằm bảo đảm tuân thủ, đạt những mục tiêu, hiệu quả hợp đồng như mong muôn của các bên.

 

1.1 Quy định về mục đích sử dụng vốn theo pháp luật và thực tiễn ở các nước

Quy định mục đích sử dụng vốn vay được đặt ra nhằm xác định ý chí của bên vay dự đinh sử dụng tiền vay vào kế hoạch, mục tiêu được ấn định trước. Khi đó họ mới ý thức tiết kiệm, sử dụng vốn hợp lý và quyết định tốt hơn về khoản nợ sau này. Dựa trên những cam kết của khách hàng về mục đích sử dụng vốn, tổ chức tín dụng dễ dàng định giá khoản vay, kiểm soát được năng lực tài chính của khách hàng. Trong bài viết “Thỏa thuận cho vay – Những điều khoản chủ yếu” (Loan agreements – key terms), tác giả Martin Gunson còn nhấn mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng của quy định này như sau: “Người mượn có trách nhiệm chỉ sử dụng tiền vay đúng mục đích…”Justin Pritchart

Về phương diện quản lý nhà nước, quy định về mục đích sử dụng vốn được các nhà làm luật đặt ra còn nhằm điều tiết nguồn vốn của người dân vào nền kinh tế theo mục tiêu, định hướng phát triển của Nhà nước. Bằng việc ban hành các quy định về tăng cường (khuyến khích cho vay) hoặc hạn chế cho vay, Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp, cá nhân sản xuất, kinh doanh trọng tâm vào một số lĩnh vực của đời sông xã hội, tăng cường kiểm soát dòng tín dụng, hạn chế tình trạng vốn vay đi chệch hướng vào các lĩnh vực gây bất ổn, rủi ro cho các ngân hàng,…

Công tác kiểm soát tín dụng vĩ mô bằng phương thức này đã khẳng định vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước như các lý thuyết về kinh tế, lý thuyết về mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế được luận giải. Sự can thiệp của Nhà nước vào các quan hệ kinh tế, dân sự là yêu cầu bắt buộc, khẳng định lợi ích hợp đồng không chỉ giới hạn trong phạm vi các bên trực tiếp tham gia hợp đồng, đó còn là lợi ích chung của cộng đồng, xã hội. Quy định này tương tự như pháp luật nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, phạm vi giới hạn về mục đích sủ dụng vốn ở từng quốc gia có những khác biệt. Ví dụ: Tại Trung Quốc, pháp luật ngân hàng chỉ quy định cụ thể giới hạn cho vay theo chính sách công nghiệp của nhà nước, không đề cập đến các lĩnh vực, ngành nghề kinh tế khác (Điều 34 Luật Ngân hàng thương mại Trung Quốc).

Nghiên cứu pháp luật một số nước theo hệ thống luật thành văn (civil law):

Pháp luật các nước theo hệ thống luật này không thống nhất trong các quy định về mục đích sử dụng vốn vay: Pháp luật ngân hàng của Đức, Malaixia không đề cập nghĩa vụ này trong hợp đồng cho vay; Pháp luật Trung Quốc quy định về mục đích sử dụng vốn vay tương đối cụ thể (cả trong lĩnh vực ngân hàng và dân sự): Theo Chương XII Luật Hợp đồng Trung Quốc năm 1999 tại Điều 203, nếu bên vay (trong quan hệ dân sự) có lỗi sử dụng tiền vay không đúng mục đích, bên cho vay được quyền chấm dứt cho vay, thu hồi nợ trước hạn hoặc hủy bỏ hợp đồng vay. Trong lĩnh vực ngân hàng cũng có những quy định tương tự, theo đó hợp đồng tín dụng bắt buộc phải ghi mục đích sử dụng vốn vay. Bên cạnh đó, tổ chức tín dụng phải thực hiện kiểm tra nghiêm ngặt việc sử dụng vốn (theo đúng mục đích cam kết), khả năng và hình thức hoàn trả cũng như các vấn đề liên quan khác của người vay (Điều 35, 37 Luật Ngân hàng thương mại Trung Quốc).

Mặc dù pháp luật các nước tiếp cận và có các quy định khác nhau, nhưng thực tiễn hợp đồng vay của các ngân hàng nước ngoài, vẫn thường được đặt ra điều khoản trên như một cam kết. Theo đó:

“Hợp đồng vay được ký kết là bằng chứng cho thấy người vay và người cho vay có một cam kết vốn vay sẽ được sử dụng mục đích cụ thể… Nếu số tiền không được sử dụng cho các mục đích quy định, nó sẽ được trả lại cho bên cho vay ngay lập tức”.

Qua nghiên cứu cho thấy, pháp luật Việt Nam có sự tương đồng về điểm này, hơn thế nữa các quy định không chỉ dừng lại ở nghĩa vụ hoàn trả tiền vay ngay lập tức, pháp luật còn đặt ra các biện pháp chế tài cần thiết, tương tự như hành vi vi phạm nghĩa vụ hoàn trả tiền vay, song lãi suất chậm trả vẫn là lãi suất trong hạn.

Như vậy, quy định sử dụng vốn vay đúng mục đích là nghĩa vụ bắt buộc đối với bên vay, được luật hóa trong thực tiễn pháp lý và giao kết hợp đồng tại Việt Nam cũng như ở các nước trên thế giới. Quy định này gắn liền với trách nhiệm kiểm tra, giám sát của tổ chức tín dụng nhằm bảo đảm công tác quản trị, phòng ngừa rủi ro hiệu quả xuyên suốt quá trình thực hiện hợp đồng. Khó có thể tìm thấy bất kỳ một hợp đồng cho vay nào được ký kết trong thực tế mà không thể hiện mục đích sử dụng vốn vay, ngay cả trong các hợp đồng cho vay được ký kết giữa Chính phủ với các định chế tài chính quốc tế (Ví dụ: Hợp đồng tín dụng số 4558D giữa Chính phủ Irắc với Ngân hàng tái thiết và phát triển Quốc tế ký ngày 29/3/2001 ghi rõ mục đích cho vay nhằm thực hiện Dự án Đường ống dẫn dầu và Phát triển dầu khí đồng thời thiết lập cơ chế giải ngân, giám sát dựa trên mục đích này).

 

1.2 Thực trạng pháp luật về sử dụng vốn vay đúng mục đích và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

Pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay ngân hàng tại Việt Nam quy định về sử dụng vốn vay đúng mục đích là điều khoản chủ yếu của hợp đồng vay. Bên vay không chỉ sử dụng vốn vay đúng mục đích, quy định này còn nhằm mục đích hướng đến hiệu quả thật sự của khoản vay, thể hiện rõ quan điểm nhất quán của các nhà làm luật trước đây cũng như hiện nay. Chẳng hạn, Chỉ thị số 05-NH/CT ngày 15/01/1975 về cho vay mở rộng diện tích phát triển nồng, lâm nghiệp ở trung du và miền núi quy định (điều kiện giải ngân), bên vay được nhận tiền vay dần theo mức độ thực hiện kế hoạch, hoàn trả vốn vay đúng hạn. Trường hợp vay vốn dài hạn không phải trả lãi, bên vay phải thực hiện tốt các tiêu chuẩn kinh tế – kỹ thuật để được xóa nợ theo thời hạn quy định. Điều khoản hợp đồng này dần được các nhà làm luật bổ sung đầy đủ hơn, bao hàm trách nhiệm cụ thể của bên vay nếu vi phạm (Điều 51 Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997; khoản 3, 4, Điều 94 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010).

Trên lý thuyết, tuân thủ quy định mục đích sử dụng vốn còn là cơ sở để các tổ chức tín dụng tiến hành thực hiện các hành vi kiểm soát tín dụng (kiểm soát dòng tiền vay có đúng với phương án vay, đạt mục đích như ban đầu bên vay đã cam kết), đánh giá hiệu quả khoản vay, dự liệu rủi ro có thể xảy ra trong tương lai. Tổ chức tín dụng không thể xác định khoản vay nhằm mục đích gì, có hiệu quả hay không, nếu không có các quy định về mục đích rõ ràng, cụ thể. Thông qua hoạt động này, khoản vay còn được bảo đảm bằng chính nguồn tín dụng được bên vay sử dụng hiệu quả, có hỗ trợ, tư vấn của tổ chức tín dụng, hạn chế phụ thuộc quá nhiều vào tài sản bảo đảm tiền vay.

Về phương diện quản lý vĩ mô, Nhà nước thường chỉ đạo các tổ chức tín dụng hạn chế cho vay vào các mục đích đầu tư chứng khoán, bất động sản. Lĩnh vực này có tỷ suất sinh lời lổn nhưng tiềm ẩn rủi ro cao, chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi sự biến động của nền kinh tế. Cụ thể những nguy cơ, rủi ro có thể xảy ra như sau:

– Đối với lĩnh vực chúng khoán: Tổ chức tín dụng thường dựa vào giá trị cổ phiếu tại thời điểm giao dịch để xác định giá trị tài sản cầm cố, mức vay. Song, thị trường chứng khoán Việt Nam đang phát triển, nhiều biến động, có nguy cơ giảm giá trị chứng khoán cầm cố, khi đó khách hàng giảm năng lực trả nợ;

– Đối với lĩnh vực bất động sản:Lĩnh vực này thường có nhiều khuyến cáo nhất của Nhà nước, do lợi nhuận thiếu ổn định; hiệu quả khai thác, sử dụng tài sản đòi hỏi bên vay phải có năng lực tổ chức, quản lý nhất định.

Vì vậy, khi cho vay nhằm vào các mục đích trên, tổ chức tín dụng phải ghi rõ trong hợp đồng cho vay mục đích sử dụng vốn, nghĩa vụ tuân thủ các chủ trương của Nhà nước về giới hạn cho vay tại thời điểm giải ngân. Đồng thời, thiết lập cơ chế kiểm soát dòng tiền giải ngân phù hợp với từng mục đích vay (với ý nghĩa làm tăng giá trị tài sản hình thành từ vốn vay, khoản vay được an toàn hơn). Các tổ chức tín dụng cũng cần nâng cao nhận thức, thực hiện nghiêm túc công tác thẩm định giá trị bất động sản, giá trị cổ phiếu, trái phiếu phù hợp với giá thị trường, theo nguyên tắc thẩm định độc lập, xác định hạn mức cấp tín dụng phù hợp với quy chế nội bộ ngân hàng trưóc khi cho vay, hạn chế thấp nhất tình trạng cho vay vượt giá trị tài sản bảo đảm.

Đối với khoản vay mục đích tiêu dùng, với bản chất pháp lý là những quan hệ dân sự, các quy định về hợp đồng cho vay tiêu dùng thực hiện theo cơ chế chuyên biệt, hướng đến mục tiêu bình đẳng hợp đồng, bảo vệ tối ưu quyền lợi của bên vay. Thông tư số 43/2016/TT-NHNN và các quy định liên quan đã có nhiều thay đổi đáng kể, hướng đến mục tiêu này trước sự phát triển của thương mại, tín dụng tiêu dùng đầy tiềm năng như các dự báo đã đề cập. Điển hình, có thể kể đến các quy định minh bạch cho vay, bên cạnh nghĩa vụ cung cấp thông tin. Tuy nhiên, các quy định về hợp đồng cho vay tiêu dùng theo luật Việt Nam hiện nay, theo tác giả vẫn chưa hình thành một cơ chế pháp lý đầy đủ, chặt chẽ, bảo vệ đúng mực quyền lợi chính đáng của người vay trước bên mạnh thế (ngân hàng).

Tóm lại, quy định của pháp luật về mục đích sử dụng vốn tương đối rõ ràng cụ thể, nhưng trong thực tiễn áp dụng, không ít trường hợp bên vay sử dụng vốn vay không đúng mục đích cam kết, vi phạm hợp đồng vay. Bên cho vay cũng không làm tốt công tác kiểm tra nên nhiều trường hợp sai phạm kéo dài, để xảy ra hậu quả nghiêm trọng.

 

2. Phương thức xử lý vi phạm về sử dụng vốn vay

Vấn đề đặt ra, trường hợp bên vay vi phạm quy định về sử dụng vốn vay đúng mục đích, thì họ phải chịu các biện pháp chế tài như thế nào ?

 

2.1 Chế tài vi phạm hợp đồng đối với bên vay:

Theo biện pháp chế tài này, bên cho vay được phép: chấm dứt cho vay, thu hồi tiền vay trước thời hạn (Điều 21 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN). Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng còn đặt ra các khoản phí buộc bên vay phải trả, bồi thường thiệt hại nhằm tăng cường trách nhiệm bên vay nhưng tổ chức tín dụng phải chứng minh được các khoản tiền thiệt hại này là hậu quả trực tiếp do lỗi của bên vay sử dụng vốn vay không đúng mục đích gây ra.

 

2.2 Chế tài bằng biện pháp xử lý, truy cứu trách nhiệm hình sự:

Việc sử dụng vốn vay trái mục đích là dấu hiệu rõ ràng nhất của hành vi chiếm đoạt tiền vay. Thông thường những biểu hiện bên ngoài của hành vi này là: khách hàng tạo dựng chứng từ giả mạo, cung cấp thông tin không đúng sự thật với mục đích duy nhất: có được vốn vay để giải quyết cho các nhu cầu riêng của mình, kể cả việc sử dụng vào mục đích trái pháp luật. Nếu không hoàn trả tiền vay, đây là những biểu hiện của ý thức (chủ quan), sai phạm về những gian dối của bên vay, căn cứ xác định hành vi chiếm đoạt tài sản đã hoàn thành để các cơ quan tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự.

Trong thực tiễn cho vay, quy định mục đích sử dụng vốn vay được pháp luật Việt Nam đề cập nhằm xác định hành vi sai phạm, kể cả xử lý về hình sự, tương tự như được đề cập tại pháp luật Ngân hàng Trung Quốc (Điều 80 Luật Ngân hàng thương mại Trung Quốc quy định: “Người đi vay bằng sự gian trá để được vay coi như là phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo như luật nàý Trong lĩnh vực hình sự Việt Nam, các nhà làm luật còn thiết kê thành điều luật riêng về các tội phạm liên quan đến lĩnh vực ngân hàng (Điều 206 Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2017) thông nhất áp dụng cho các hành vi liên quan đến lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm này.

Trên cơ sở các dấu hiệu về tội phạm được đề cập, hành vi này nếu cấu thành tội phạm thì bị xử lý về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” hoặc “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” (Điều 174, 175 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017);

+ Mặt chủ quan của tội phạm thể hiện ở ý thức chiếm đoạt tiền vay trước (đối với hành vi lừa đảo) và sau (đối với hành vi lạm dụng tín nhiệm) khi ký hợp đồng vay;

+ Mặt khách quan của tội phạm, bên vay sử dụng vốn vay không đúng mục đích, gian dối hồ sơ vay, giả mạo tài liệu chứng từ để giải ngân, bỏ trốn sau khi nhận tiền vay,…

Trong thực tiễn áp dụng luật, ranh giới hành vi tội phạm trong lĩnh vực này thường khó xác định, còn nhiều tranh cãi. Vì việc sử dụng vốn vay không đúng mục đích phải gắn liền với ý thức chiếm đoạt tài sản và hệ quả của hành vi chiếm đoạt đó. Không ít trường hợp các cơ quan tố tụng nhầm lẫn, đánh giá sai hành vi phạm tội dẫn đến hình sự hóa (theo nghĩa tiêu cực đánh giá sai hành vi phạm tội) quan hệ cho vay (đơn cử, vụ ông Lương Ngọc p kiện đòi bồi thường thiệt hại do truy tố oan sai khi cho vay đã được dư luận nhiều lần phản ánh – Xem: Phi Long/Truyền hình Quốc hội: Giám đốc bị án oan Lương Ngọc Phi được bồi thưởng kỷ lục gần 23 tỷ).

Tóm lại, quy định sử dụng vốn vay đúng mục đích theo pháp luật Việt Nam như hiện nay phù hợp kinh nghiệm theo pháp luật các nước. Với các ý nghĩa tương đồng, nâng cao năng lực kiểm soát, bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn vay như phương án vay ban đầu được đề ra. Từ hiệu quả này, năng lực tài chính của bên vay được nâng cao, giúp cho các tổ chức tín dụng dễ dàng thu được tiền vay. Đó còn là sự bảo đảm cho công tác quản lý của Nhà nước, kiểm soát dòng tiền đầu tư vào nền kinh tế. Với những phân tích, minh chứng, pháp luật Việt Nam hiện hành đã kế thừa trong các quy định về sử dụng vốn vay đúng mục đích, phù hợp với chuẩn mực pháp luật, thông lệ cho vay như ở các nước trên thế giới, cần tiếp tục phát huy quy định này trong thời gian tới.

 

3. Nghĩa vụ kiểm tra, giám sát sử dụng vốn vay của các tổ chức tín dụng

Bên vay phải có nghĩa vụ tuân theo sự kiểm tra giám sát của bên cho vay. Đây là nghĩa vụ được luật định, cho dù hợp đồng cho vay có đề cập nghĩa vụ này hay không.

Nghĩa vụ kiểm tra giám sát sử dụng vốn vay có những khác biệt cơ bản với các hoạt động kiểm tra, giám sát về mặt quản lý nhà nước vì mục đích an toàn, lành mạnh trong hoạt động ngân hàng. Với ý nghĩa bảo đảm tính minh bạch, xác định mức độ hiệu quả, chất lượng của hồ sơ vay vốn trong suốt quá trình hợp đồng, công tác này giúp các tổ chức tín dụng kịp thời phát hiện những lỗ hổng của quy trình cho vay, những rủi ro, nguy cơ có thể xảy ra để phòng ngừa, khắc phục kịp thời những sai phạm. Đây là quy trình phức tạp, đòi hỏi những người thực hiện phải tuân thủ nghiêm túc, phải có chuyên môn, nghiệp vụ kết hợp với việc sử dụng hợp lý các công cụ thẩm định, kiểm toán, giám định,…

Trên thực tế, bên vay luôn có ý thức che giấu thông tin sai phạm, không tích cực hợp tác với cán bộ kiểm tra, giám sát tín dụng, sử dụng nhiều thủ đoạn để tránh né, đưa ra các kết quả kiểm tra, thông tin không đúng sự thật. Bên cạnh đó, vốn vay là tiền tệ thuộc đối tượng dễ sử dụng, dễ che giấu nên khó kiểm soát tốt như các tài sản phải đăng ký nhà nước. Đây là lý do các sai phạm luôn tiềm ẩn, khó định lượng cụ thể, công tác kiểm tra giám sát đòi hỏi tổ chức tín dụng phải có thời gian, nghiệp vụ, quy trình thực hiện mới đáp ứng tốt yêu cầu, trách nhiệm này.

Về phương diện lịch sử, tại Việt Nam, trong giai đoạn đầu của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, các quy định về nghĩa vụ kiểm tra, giám sát vốn vay vẫn được pháp luật đề cập. Chương 5, Quyết định số” 49-QĐ ngày 16/10/1969 của Ngân hàng Nhà nước về thể lệ cho vay ngắn hạn đối với các công ty vật tư nông nghiệp quy định khá cụ thể hoạt động kiểm tra vốn vay và kỷ luật tín dụng đối với bên vay. Cũng theo Điều 40 của Quyết định này, hàng tháng ngân hàng tiến hành kiểm tra số tiền cho vay, thu nợ trong tháng và dư nợ cuối tháng; việc luân chuyển vật tư, dự trữ hàng hóa, việc sử dụng vốn vay và trả nợ nhằm giúp công ty thực hiện tốt kế hoạch. Bên cạnh đó, Điều 44 còn cho phép ngân hàng đình chỉ mọi hoạt động cho vay nếu bên vay kinh doanh, sử dụng tiền vay không hiệu quả, vi phạm chế độ, nguyên tắc tín dụng, thanh toán, quản lý tiền mặt nhiều lần.

Như vậy, xuất phát từ bản chất của quan hệ cho vay luôn tồn tại những phức tạp, nhiều rủi ro, các nhà làm luật ngay khi ban hành các quy định về cho vay đã ý thức tầm quan trọng của hoạt động kiểm tra, giám sát ngay từ trước khi giao kết hợp đồng, để có những giải pháp xử lý phù hợp. Các quy định này được cụ thể hóa, ngày càng hoàn thiện, gắn với các phương thức giám sát và các biện pháp chế tài nếu phát hiện vi phạm, cho dù khoản vay đó được thực hiện theo kế hoạch, hay mệnh lệnh của Nhà nước, như các quy định trước đây đã viện dẫn.

Theo quy định hiện nay, tại khoản 3 Điều 94 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010; khoản 1, 2 Điều 24 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN, thì tổ chức tín dụng có quyền, nghĩa vụ kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng. Tại khoản 2 Điều 14 Nghị định số 88/2019/NĐ-CP còn quy định chế tài hành chính, có mức phạt đến 20.000.000 đồng đối với tổ chức tín dụng nếu vi phạm. Với các quy định chế tài bằng biện pháp xử phạt hành chính nêu trên, pháp luật ngân hàng đã khẳng định rằng, công tác kiểm tra, giám sát còn là nghĩa vụ bắt buộc bên cho vay phải thực hiện, xuất phát từ chính những lợi ích chung của hoạt động ngân hàng.

Trên lý thuyết, rủi ro kinh doanh ngân hàng, phát sinh từ sai phạm của bên vay cũng có thể bị chuyển hóa thành những rủi ro của hệ thống ngân hàng. Những biến động của nền kinh tế tác động đến đời sống kinh doanh, khi đó mọi doanh nghiệp, cá nhân đểu có thể mất khả năng hoàn trả nợ vay do làm ăn thua lỗ, bị phá sản. Đồng nghĩa rằng, bên vay phải ý thức nghĩa vụ của mình, tuân thủ nghiêm túc sự kiểm tra, giám sát, không thể viện dẫn bất cứ lý do gì để trì hoãn, tránh né thực hiện nghĩa vụ này. về phía bên cho vay, quy định này không còn đơn thuần là quyền năng hợp đồng, mặc dù trong vấn đề này vẫn còn quan điểm khác biệt cho rằng, đặt ra nghĩa vụ đối với tổ chức tín dụng là chưa phù hợp.

Theo quan điểm tác giả, pháp luật hiện hành đã nâng cao trách nhiệm của tổ chức tín dụng trong suốt quá trình cho vay bằng việc thực hiện công tác kiểm tra giám sát, dự phòng, xử lý rủi ro, đồng thời là cơ sở pháp lý để xem xét các trách nhiệm dân sự, hình sự nếu nhân viên, cán bộ tổ chức tín dụng được phân công có sai phạm. Với việc luật hóa nghĩa vụ của tổ chức tín dụng cả trong công tác giám sát trả nợ như hiện nay, các nhà làm luật ngành ngân hàng đã khẳng định về mặt ý nghĩa, tăng cường hơn trách nhiệm của các tổ chức tín dụng trong bối cảnh kinh tế hiện nay – nợ xấu, nợ quá hạn (phần lớn là các khoản nợ gốc, lãi phát sinh từ hợp đồng cho vay) đang là mục tiêu ngành ngân hàng, cả hệ thông chính trị tập trung, quyết liệt để xử lý (quy định trước đây tại Điều 21 Quy chế cho vay ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Ngân hàng Nhà nước không đề cập nghĩa vụ kiểm tra, giám sát trả nợ).

Thực tiễn cho thấy, hầu hết trong các hợp đồng cho vay được ký kết đều ghi nhận khá cụ thể quyền kiểm tra, giám sát cho vay của tổ chức tín dụng. Khoản 12.1 Điều 12 của Hợp đồng cấp tín dụng số 402-200/2013/ HĐTD-NHNA ký ngày 23/7/2013 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần NA (chi nhánh QN) với Công ty cổ phần chế biến ĐV có ghi nhận quyền yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến việc vay vốn, kiểm tra tình hình kinh doanh, sử dụng vốn, tình hình thực hiện hợp đồng,… Mặc dù vậy, đây là nội dung hạn chế nhất đối với tổ chức tín dụng như các kết luận thanh tra ngành ngân hàng thường đề cập. Nhiều sai phạm được vạch rõ của công tác này đã minh chứng cho thấy, các tổ chức tín dụng chưa đề cao sử dụng các công cụ thẩm định, kiểm định độc lập để nâng cao hiệu quả kiểm tra, giám sát; cũng như chưa thiết kế một quy trình kiểm tra, giám sát, nhân diện những nguy cơ, rủi ro có cơ sở khoa học và hiệu quả.

Như vậy, nghĩa vụ kiểm tra giám sát được luật hóa, áp dụng cả với bên cho vay và bên vay là bước tiến mới của luật ngân hàng, trao trọng trách này cho cả hai bên.

Vấn đề đặt ra chính là ý thức tuân thủ pháp luật vẫn còn kém. Không ít trường hợp các tổ chức tín dụng vẫn còn xem nhẹ, chưa thiết lập quy trình kiểm tra, giám sát chặt chẽ, kể cả khâu xử lý khi phát hiện bên vay có sai phạm. Điều này làm gia tăng mất kiểm soát quá trình thực hiện hợp đồng cho vay, không kiểm soát dòng tiền vay, nguy cơ mất vốn vay cao. Vì vậy, bên cạnh yếu tố con người, các tổ chức tín dụng cần cụ thể hóa nghĩa vụ này trong các quy định nội bộ, bằng việc thiết kế chi tiết một quy trình kiểm tra, giám sát tín dụng, hoàn trả nợ thiết thực và hiệu quả.

Mọi vướng mắc pháp lý trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, hoạt động vay vốn, giải ngân vốn… Quý khác hàng vui lòng gọi: 1900.0191 để được Luật sư tư vấn pháp luật ngân hàng, tài chính trực tuyến qua tổng đài điện thoại. Đội ngũ Luật sư của LVN Group của Công ty luật LVN Group luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp mọi vướng mắc pháp lý trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.