Để thực hiện được điều này, nhiều doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư cho người lao động trong doanh nghiệp mình được học tập nâng cao tay nghề, tiếp thu khoa học kỹ thuật tiên tiến để phục vụ sản xuất, kinh doanh nhằm tạo ra nhiều của cải vật chất cho doanh nghiệp.

Tuy nhiên, trong thực tế có một số doanh nghiệp đã và đang gặp phải vấn đề đó là, sau khi được đào tạo, được tiếp thu kiến thức về kinh doanh, về khoa học kỹ thuật thì người lao động lại bỏ doanh nghiệp đã đài thọ cho mình đi học để tìm đến những doanh nghiệp khác với nhiều lý do khác nhau. Điều này làm cho doanh nghiệp “vừa mất người vừa mất của”.

Người đã muốn ra đi thì khó mà giữ lại được đã đành, vậy còn số tiền đã bỏ ra để cho người lao động ăn học có lấy lại được không? người lao động có buộc phải trả không? Có phải bồi thường không? Đó là những câu hỏi mà nhiều doanh nghiệp đang đặt ra.

>> Luật sư tư vấn pháp luật lao động qua điện thoại (24/7)gọi:  1900.0191

Để giúp doanh nghiệp trả lời câu hỏi này, chúng tôi xin nêu ra một tình huống như sau:

Ông Nguyễn Văn A tốt nghiệp Đại học Bách khoa chuyên ngành tự động hoá, là chuyên viên kỹ thuật của Công ty X – một công ty chuyên lắp ráp thiết bị điện tử. Ông A làm việc cho công ty X trên cơ sở Hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Quá trình làm việc tại doanh nghiệp, ông A thể hiện là một kỹ sư có năng lực, chính vì vậy, công ty có kế hoạch gửi ông A sang Nhật Bản để học tập nâng cao trình độ với mong muốn sau khi trở về sẽ bổ nhiệm làm giám đốc kỹ thuật phục vụ lâu dài cho công ty. Kế hoạch này công ty đã trao đổi với ông A và ông A hoàn toàn đồng ý. Để ràng buộc trách nhiệm giữa hai bên, trước khi đi học, công ty X và ông A cùng ký một văn bản thoả thuận với nội dung: Công ty sẽ đài thọ cho ông Nguyễn Văn A đi học tập nâng cao trình độ về thiết bị điện tử và tự động hoá tại Nhật Bản với toàn bộ kinh phí là 40.000 USD trong thời gian 1 năm. Sau khi học xong, ông Nguyễn Văn A cam kết sẽ làm việc cho công ty X trong thời gian ít nhất là 7 năm. Trong trường hợp ông Nguyễn Văn A không làm việc cho công ty khi chưa hết thời hạn 7 năm theo cam kết thì ông A sẽ phải bồi thường cho công ty toàn bộ số tiền mà công ty đã bỏ ra để đài thọ cho ông A đi học.

Sau thời gian 1 năm học tập ở Nhật Bản, ông A trở về và được công ty X bổ nhiệm làm giám đốc kỹ thuật như cam kết. Làm việc tại công ty X được gần 2 năm thì ông Nguyễn Văn A làm thông báo đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động gửi công ty X và sau 45 ngày ông A nghỉ việc.

Công ty X yêu cầu ông A phải thực hiện cam kết của mình với công ty đó là bồi thường lại toàn bộ chi phí đào tạo 40.000 USD theo như đã cam kết với công ty trước khi đi học. Ông A không đồng ý. Sau đó công ty X đã làm đơn khởi kiện ra Toà án nhân dân huyện K yêu cầu toà án xử buộc ông A phải bồi thường khoản chi phí đào tạo 40.000 USD cho công ty. TAND huyện K sau nhiều lần hoà giải giữa hai bên không thành đã đưa vụ án ra xét xử và quyết định: Ông Nguyễn Văn A đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành, đó là đã thông báo cho công ty X trước 45 ngày về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng theo quy định tại khoản 3 Điều 37 Bộ luật lao động, theo Điều 13 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP của Chính phủ về việc hướng dẫn thi hành Bộ luật lao động về Hợp đồng lao động. Do vậy ông Nguyễn Văn A không có trách nhiệm phải bồi thường chi phí đào tạo cho công ty X. Công ty X sau đó đã kháng cáo bản án lên TAND tỉnh và toà án cấp phúc thẩm đã xử giữ nguyên bản án của TAND huyện K.

Vấn đề cần bàn ở vụ việc này không phải là quyết định của Toà án đúng hay sai mà là các quy định của Luật lao động đã thực sự phù hợp hay chưa? Đã thực sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Người sử dụng lao động theo tinh thần của Bộ luật lao động hay chưa?

Bộ luật lao động hiện hành tại khoản 3 Điều 41 quy định : “Trong trường hợp người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thì phải bồi thường chi phí đào tạo (nếu có) theo quy định của Chính phủ”. Điều 13 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 9/5/2003 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Bộ luật lao động về Hợp đồng lao động quy định: “Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động phải bồi thường chi phí đào tạo… trừ trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động mà thực hiện đúng và đủ các quy định tại Điều 37 của Bộ luật lao động đã sửa đổi, bổ sung.”. Thông tư số 21/2003/TT-BLĐTBXH của Bộ lao động thương binh và xã hội hướng dẫn Điều 13 Nghị định số 44 tại khoản 4 mục III hướng dẫn rõ hơn cách thức thực hiện đó là, người lao động và người sử dụng lao động phải ký văn bản thoả thuận về việc người sử dụng lao động bỏ kinh phí để đào tạo người lao động thì người lao động phải có có trách nhiệm trở lại làm việc cho người sử dụng lao động trong một thời gian nhất định do hai bên thoả thuận. Trường hợp người lao động tự ý bỏ việc hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thì phải bồi thường chi phí đào tạo, trừ trường hợp quy định tại Điều 37 Bộ luật lao động. Điều 37 khoản 3 Bộ luật lao động quy định:“Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày…”.

Như vậy, theo các quy định hướng dẫn Bộ luật lao động nêu trên, có nghĩa rằng, người lao động có ký văn bản cam kết với người sử dụng lao động về việc phải làm việc cho người sử dụng lao động một thời gian sau khi được đào tạo và phải bồi thường chi phí đào tạo khi vi phạm cam kết này hay không cũng không có ý nghĩa gì khi người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn muốn chấm dứt hợp đồng lao động chỉ cần báo trước với người sử dụng lao động 45 ngày. Bốn mươi lăm ngày báo trước thực sự là một điều kiện rất dễ mà người lao động nào cũng có thể thực hiện được và như vậy là hết trách nhiệm và không phải bồi thường gì cả cho dù người sử dụng lao động có bỏ ra bạc tỷ để đào tạo người lao động. Điều này vô hình chung đã làm vô hiệu hoá hiệu lực những cam kết về đào tạo được các bên xác lập trong hợp đồng lao động hay một thoả thuận riêng bằng văn bản về đào tạo đi kèm giữa người lao động và người sử dụng lao động, gây thiệt hại cho doanh nghiệp.

Một số kiến nghị và giải pháp:

Từ những vấn đề thực tiễn và lý luận nêu trên, chúng tôi thấy rằng quy định về việc bồi thường chi phí đào tạo của người lao động đối với người sử dụng lao động theo Điều 13 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP của Chính phủ là không phù hợp với thực tế và ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp bởi: Thứ nhất, xét dưới khía cạnh lợi ích kinh tế, doanh nghiệp đã phải bỏ ra một khoản tiền nhất định để đào tạo người lao động với hy vọng người lao động sẽ phục vụ doanh nghiệp, mang lại lợi ích cho doanh nghiệp nhưng điều này không đạt được và như vậy doanh nghiệp vừa không đạt được mục tiêu phát triển nhân lực vừa mất tiền của. Thứ hai, xét dưới góc độ về mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động thì đây là mối quan hệ không hài hoà, không gắn kết công bằng giữa quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động với quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động. Thứ ba, xét dưới khía cạnh phát triển nguồn nhân lực thì quy định này làm hạn chế động lực phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao.

Theo chúng tôi, cần tạo ra một cơ chế thoả thuận bình đẳng giữa người lao động với người sử dụng lao động về việc đào tạo và cam kết lao động. Trước mắt cần phải có sự sửa đổi quy định của Điều 13 Nghị đnh số 44/2003/NĐ-CP ngày 9/5/2003 của Chính phủ theo hướng “Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động phải bồi thường chi phí đào tạo, trừ trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động theo khoản 1 Điều 37 Bộ luật lao động”. Như vậy, chỉ những trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động theo các điều kiện mà nguyên nhân từ phía người sử dụng lao động hoặc vì điều kiện khách quan thì người lao động không phải bồi thường chi phí đào tạo còn những trường hợp khác khi chấm dứt hợp đồng lao động đều phải bồi thường chi phí đào tạo (nếu được đào tạo và có cam kết)./.

SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ ĐOÀN LUẬT SƯ HÀ NỘI – LS. LÊ TRUNG SƠN – Giám đốc Công ty Luật Niềm Tin Việt

Trích dẫn từ: http://luatsuhanoi.vn

 (LVN GROUP FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm  hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)