1 Quy định chung về người tham gia tố tụng

Trong giai đoạn giám đốc thẩm, nói chung quyền và nghĩa vụ của người bị kết án, người bào chữa và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (gọi tắt là những người tham gia tố tụng) không được xác định rõ như ỗ giai đoạn sơ thẩm và phúc thẩm.

Giai đoạn giám đốc thẩm, Toà án cấp giám đốc thẩm chỉ xem xét tính căn cứ của bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà không trực tiếp xét và quyết định những vấn đề có liên quan đến quyền và lợi ích của người bị kết án, người bào chữa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị trừ một sô’ trường hợp do pháp luật quy định. Tuy nhiên, theo luật tô’ tụng hiện hành, những người tham gia tô tụng cũng có những quyền và nghĩa vụ nhất định nhằm bảo đảm những quyết định của Toà án hoặc Viện kiểm sát đúng pháp luật

1.1 Đối với người bị kết án

Người bị kết án có quyền phát hiện những vi phạm pháp luật trong bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà Toà án đã kết án mình với những người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Việc thực hiện quyền này chủ yếu được thể hiện dưới hình thức đơn khiếu nại, ngoài ra người bị kết án còn thực hiện quyền này bằng cách nhờ người khác hoặc cơ quan, tổ chức để thông qua những người này phát hiện những vi phạm pháp luật trong bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà Toà án đã kết án họ với những người có quyền kháng nghị.

Nếu phát hiện của họ có căn cứ và người kháng nghị ra quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thì họ được nhận một bản kháng nghị, ngược lại không kháng nghị thì họ được nhận trả lời của người có quyền kháng nghị vì sao không kháng nghị. Nếu được Hội đồng giám đốc thẩm triệu tập đến phiên toà giám đốc thẩm, thì họ được trình bày ý kiến trước khi Viện kiểm sát phát biểu, họ được nhận quyết định giám đốc thẩm. Ngoài ra trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn giám đốc thẩm, người bị kết án còn có quyền cung cấp cho Toà án cấp giám đốc thẩm những tài liệu chứng cứ mới mà những tài liệu chứng cứ này có liên quan đến việc xem xét lại vụ án mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật đối với họ. Tuy nhiên, do tính chất của giám đô’c thẩm riên một số quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm và phúc thẩm sẽ không được quy định trong giai đoạn giám đốc thẩm đối với người bị kềt án như: quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch. Còn các quyền khác như: quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa, quyền có mặt tại phiên tòa bị hạn chế. Các quyền này của người bị kết án chỉ được thực hiện khi Hội đồng giám đốc thẩm thấy cần thiết.

1.2 Đối với người bào chữa

Ở giai đoạn giám đốc thẩm, theo luật hiện hành, quyền và nghĩa vụ của người bào chữa nói chung không được xác lập như ở giai đoạn sơ thẩm và phúc thẩm. Hoạt động của Luật sư của LVN Group ở giai đoạn giám đốc thẩm không được coi trọng; nhiều trường hợp sau khi bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật, người bị kết án mới nhờ Luật sư của LVN Group giúp đỡ họ trong việc phát hiện và đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, nhưng Luật sư của LVN Group lại không được đọc hồ sơ vụ án nên không có cơ sở để nhận lời người bị kết án. tại điều 383 BLTTHS năm 2015 quy định Những người tham gia phiên tòa giám đốc thẩm

-Phiên tòa giám đốc thẩm phải có sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp.

– Trường hợp xét thấy cần thiết hoặc có căn cứ sửa một phần bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, Tòa án phải triệu tập người bị kết án, người bào chữa và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị tham gia phiên tòa giám đốc thẩm; nếu họ vắng mặt thì phiên tòa giám đốc thẩm vẫn được tiến hành.

1.3 Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị bao gồm những người tham gia tố tụng và cả những người không phải là người tham gia tố tụng. Khái niệm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị rộng hơn khái niệm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quy định tại Điều 65 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị có thể là cá nhân tổ chức người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự… ngoài người bị kết án. Cũng như đối với người bị kết án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị ở giai đoạn giám đốc thẩm không được luật tố tụng xác lập một cách đầy đủ như ở giai đoạn sơ thẩm hoặc phúc thẩm. Thực tiễn xét xử chưa thấy trường hợp nào Hội đồng giám đốc thẩm triệu tập người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị tham gia phiên toà giám đốc thẩm. Ngoài quyền phát hiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị cũng được nhận bản kháng nghị, quyết định giám đốc thẩm nếu Hội đồng giám đốc thẩm quyết định những vấn đề có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ đối với họ; nếu Hội đồng giám đốc thẩm triệu tập họ đến phiên toà giám đốc thẩm thì họ cũng được phát biểu ý kiến trước khi Viện kiểm sát phát biểu, họ cũng có quyền cung cấp cho Hội đồng giám đốc thẩm những chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình.

Theo pháp luật về tố tụng dân sự, tại khoản 4 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Theo pháp luật về thi hành án dân sự, tại khoản 4 Điều 3 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định: “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án của đương sự.”

Theo quy định tại Điều 3 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì:
“1. Đương sự bao gồm người được thi hành án, người phải thi hành án.
2. Người được thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng quyền, lợi ích trong bản án, quyết định được thi hành.
3. Người phải thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành.”

Có thể hiểu rằng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong thi hành án dân sự có thể là cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án của người được thi hành án, người phải thi hành án.
Theo quy định nêu trên, để xác định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong thi hành án dân sự trước hết chúng ta cần phải xác định người được thi hành án, người phải thi hành án trong bản án, quyết định; thứ hai cần căn cứ vào Điều 7,7a Luật Thi hành án dân sự quy định các quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án để từ đó làm rõ việc họ (cá nhân, cơ quan, tổ chức) có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp (không phải gián tiếp) hay không đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án của người được thi hành án, người phải thi hành án

2 Thời gian nhận thông báo kháng nghị

Tôi có làm đơn đề nghị xem xét kháng nghị giám đốc thẩm bản án đã có hiệu lực, và đã có nhận được thông báo của VKSND tối cao. Vậy cho tôi hỏi thời gian bao lâu để biết được VKSND tối cao có kháng nghị hay không kháng nghị?

Sau khi người gửi đơn đề nghị xem xét kháng nghị giám đốc thẩm bản án đã có hiệu lực:

– Người gửi đơn nhận được “Thông báo trả lại đơn đề nghị giám đốc thẩm” là do đơn không đủ điều kiện thụ lý. Ví dụ: Đơn hết thời hiệu,…

– Người gửi đơn nhận được “Thông báo về việc trả lời đơn đề nghị” thì đơn đề nghị của độc giả đã được VKSND tối cao nghiên cứu hồ sơ vụ án và thông báo kết quả cho người gửi đơn là không có căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm.

– Người gửi đơn nhận được Thông báo về việc yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn đề nghị giám đốc thẩm” thì trong thời hạn 01 tháng người gửi đơn phải thực hiện theo yêu cầu của thông báo và gửi sửa đổi, bổ sung đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, gửi VKSND tối cao. Nếu trong thời hạn 01 tháng mà người gửi đơn không gửi sửa đổi, bổ sung đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm thì VKSND tối cao sẽ trả lại đơn cho người gửi đơn. Nếu người gửi đơn đã gửi và sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu nội dung thông báo thì:

+ Thời hạn kháng nghị tại Điều 379 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 là 01 năm;

+ Thời hạn kháng nghị tại Điều 334 Bộ luật Tố tụng dân sự là 03 năm hoặc có đủ điều kiện theo quy định thì kéo dài thêm 02 năm;

+ Thời hạn kháng nghị tại Điều 263 Luật Tố tụng hành chính là 03 năm.

Trong thời hạn đó VKSND tối cao sẽ yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ vụ án, nếu:

– Tòa án không chuyển hồ sơ cho VKSND tối cao thì VKSND tối cao sẽ “thông báo” cho người gửi đơn biết việc VKSND tối cao chưa có hồ sơ để xem xét, giải quyết.

– Tòa án chuyển hồ sơ vụ án cho VKSND tối cao còn thời hạn thì VKSND tối cao nghiên cứu có căn cứ sẽ ban hành quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, không có căn cứ sẽ ban hành “Thông báo về việc trả lời đơn đề nghị”.

Mọi vướng mắc về các vấn đề pháp lý liên quan đến bài viết , Hãy gọi ngay: 1900.0191 để đượcLuật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài.

Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty luật LVN Group

Công Ty Luật LVN Group xin cảm ơn!!