1. Khái quát chung về quảng cáo và khuyến mại mỹ phẩm.

Có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về mỹ phẩm. Theo cách phổ thông nhất, mỹ phẩm được hiểu là sản phẩm làm đẹp, chủ yếu dùng cho phái nữ, giúp họ trở nên xinh đẹp hơn.

Dưới khía cạnh pháp lý, khái niệm mỹ phẩm được quy định tại Điều 2 Thông tư số 06/2011/TT-BYT Quy định về quản lý mỹ phẩm: “Sản phẩm mỹ phẩm là một chất hay chế phẩm được sử dụng để tiếp xúc với những bộ phận bên ngoài cơ thể con người (da, hệ thống lông tóc, móng tay, móng chân, môi và cơ quan sinh dục ngoài) hoặc răng và niêm mạc miệng với mục đích chính là để làm sạch, làm thơm, thay đổi diện mạo, hình thức, điều chỉnh mùi cơ thể, bảo vệ cơ thể hoặc giữ cơ thể trong điều kiện tốt”.

2. Đặc điểm của mỹ phẩm

Thứ nhất, mỹ phẩm là một chất hay chế phẩm chứa các chất hóa học có khả năng tác động đến cơ thể con người.

Thứ hai, mỹ phẩm có tác dụng làm sạch, làm thơm, thay đổi diện mạo, hình thức, điều chỉnh mùi cơ thể, bảo vệ cơ thế hoặc giữ cơ thể trong điều kiện tốt.

Trong pháp luật thương mại, mỹ phẩm là một loại hàng hóa, có thể trở thành đối tượng của bất cứ hoạt động thương mại nào. Tuy nhiên, mỹ phẩm được sử dụng trên cơ thể con người, do đó nó có thể tác động đến sức khỏe con người. Vì vậy việc quảng cáo và khuyến mại mỹ phẩm có những đặc điểm riêng so với hoạt động quảng cáo và khuyến mại hàng hóa, dịch vụ chung.

3. Khái niệm quảng cáo mỹ phẩm.

Theo Điều 2 Luật quảng cáo năm 2012: “Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ không có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự; chính sách xã hội; thông tin cá nhân”. Khái niệm này bao hàm cả quảng cáo thương mại lẫn quảng cáo phi thương mại. Về định nghĩa quảng cáo thương mại, Điều 102 Luật thương mại năm 2005 quy định: “Quảng cáo thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của mình”.

Khái niệm quảng cáo mỹ phẩm được quy định tại Điều 2 Thông tư 06/2011/TT-BYT: “Quảng cáo mỹ phẩm là các hoạt động giới thiệu, quảng bá mỹ phẩm nhằm thúc đẩy quá trình sản xuất, bán, sử dụng mỹ phẩm”. Từ quy định này có thể thấy quảng cáo mỹ phẩm cũng là quảng cáo thương mại.

4. Khái niệm khuyến mại mỹ phẩm.

Theo khoản 1 Điều 88 Luật thương mại năm 2005, khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định.

Từ quy định trên, có thể định nghĩa khuyến mãi mỹ phẩm là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân kinh doanh mỹ phẩm nhằm xúc tiến việc mua bán mỹ phẩm bằng cách dành cho khách hàng một số lợi ích nhất định.

4. Quy định của pháp luật về quảng cáo mỹ phẩm.

4.1. Chủ thể quảng cáo mỹ phẩm.

Nhìn chung, các quy định của pháp luật về chủ thể quảng cáo mỹ phẩm cũng giống chủ thể quảng cáo thương mại nói chung, bao gồm: người quảng cáo thương mại, thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo thương mại, người phát hành quảng cáo thương mại và người cho thuê phương tiện quảng cáo. Các chủ thể này tham gia hoạt động quảng cao ở những khâu khác nhau với mục đích khác nhau. Quyền và nghĩa vụ của từng chủ thể khi tham gia hoạt động quảng cáo được quy định tại Điều 103, các điều từ Điều 112 đến Điều 116 Luật thương mại năm 2005, các điều…. Luật quảng cáo năm 2012 và Điều 2 Thông tư 06/2011/TT-BYT.

– Người quảng cáo: Theo Điều 2 Thông tư 06/2011/TT-BYT, người quảng cáo là tổ chức, cá nhân có nhu cầu quảng cáo về mỹ phẩm do mình sản xuất, phân phối. Cũng theo Điều 21 Thông tư này thì người quảng cáo phải có Phiếu tiếp nhận hồ sơ đăng ký quảng cáo theo quy định của pháp luật.

– Người kinh doanh dịch vụ quảng cáo là tổ chức, cá nhân thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình quảng cáo theo hợp đồng cung ứng dịch vụ quảng cáo với người quảng cáo.

– Người phát hành quảng cáo là tổ chức, cá nhân đưa sản phẩm quảng cáo mỹ phẩm đến người tiêu dùng, bao gồm cơ quan báo chí, truyền thanh, truyền hình, nhà xuất bản, tổ chức quản lý mạng thông tin máy tính, ng¬ười tổ chức chương trình văn hoá, thể thao, hội chợ, triển lãm và tổ chức, cá nhân sử dụng phương tiện quảng cáo khác.

4.2. Đối tượng của quảng cáo mỹ phẩm.

Đối tượng của quảng cáo thương mại có thể hiểu là sản phẩm hàng hóa, dịch vụ mà người thực hiện quảng cáo muốn thông qua hoạt động quảng cáo để giới thiệu tới công chúng. Tuy nhiên, không phải hàng hóa, dịch vụ nào cũng được phép quảng cáo. Luật Thương mại năm 2005 đã quy định các trường hợp cấm quảng cáo tại Điều 109.

Với đối tượng quảng cáo là mỹ phẩm, trước hết đó phải là sản phẩm mỹ phẩm đã được phép lưu thông trên thị trường. Theo Điều Thông tư 06/2011/TT-BYT, Các tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm đưa sản phẩm mỹ phẩm ra thị trường chỉ được phép đưa mỹ phẩm ra lưu thông khi đã được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp số tiếp nhận Phiếu công bố sản phẩm mỹ phẩm và phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính an toàn, hiệu quả và chất lượng sản phẩm. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tiến hành kiểm tra hậu mại khi sản phẩm lưu thông trên thị trường.

4.3. Phương tiện quảng cáo mỹ phẩm.

Phương tiện quảng cáo thương mại là công cụ được sử dụng để giới thiệu các sản phẩm quảng cáo thương mại (Điều 106 Luật Thương mại năm 2005; Điều Luật Quảng cáo năm 2012). Theo Thông tư 06/2011/TT-BYT, quảng cáo mỹ phẩm được thực hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, truyền thanh, trang thông tin điện tử (Internet, Website), sách, báo, tạp chí, tờ rơi, pano, áp phích, vật thể trên không, vật thể dưới nước hoặc các phương tiện quảng cáo khác. Việc sử dụng từng phương tiện quảng cáo cụ thể trong hoạt động quảng cáo mỹ phẩm phải tuân theo các quy định tại Thông tư này và như Luật Quảng cáo năm 2012.

Điều 23. Quảng cáo mỹ phẩm trên phương tiện truyền hình, truyền thanh

Quảng cáo mỹ phẩm trên phương tiện truyền hình, truyền thanh thì các khoản 1, 3, 4 Điều 22 phải được đọc to, rõ ràng. Trường hợp hiển thị bằng chữ trên màn hình các nội dung trên thì tốc độ hiển thị phải phù hợp và cỡ chữ quảng cáo đủ lớn bảo đảm rõ ràng, dễ đọc.

Điều 24. Quảng cáo trên báo chí, tờ rời

Quảng cáo trên báo chí, tờ rơi thì cuối trang đầu tiên của tài liệu quảng cáo mỹ phẩm phải in: (a) Số Phiếu tiếp nhận hồ sơ đăng ký quảng cáo của Sở Y tế; b) ngày … tháng … năm … nhận hồ sơ hợp lệ ghi trên Phiếu tiếp nhận.

4.4. Sản phẩm quảng cáo mỹ phẩm.

Sản phẩm quảng cáo chứa đựng những thông tin được chuyển tải đến công chúng thông qua các phương tiện quảng cáo. Sản phẩm quảng cáo mỹ phẫm cũng như sản phẩm quảng cáo thương mại nói chung, bao gồm: “những thông tin bằng hình ảnh, hành động, âm thanh, tiếng nói, chữ viết, biểu tượng, màu sắc, ánh sáng chứa đựng nội dung quảng cáo thương mại” (Điều 105 Luật Thương mại năm 2005).

Có thể nói sản phẩm quảng cáo quyết định phần lớn sự thành công của một chiến dịch quảng cáo. Trong khi đó, mục tiêu thúc đẩy thương nhân tạo ra sản phẩm quảng cáo thương mại chính là lợi nhuận, là việc tiêu thụ hàng hóa, sử dụng dịch vụ được thúc đẩy thông qua quảng cáo. Do vậy, quảng cáo phải mang tính cạnh tranh, thể hiện được sự vượt trội của hàng hóa, dịch vụ được quảng cáo so với hàng hóa, dịch vụ cùng loại. Trên thực tế, không ít các nhà sản xuất, kinh doanh quá chú trọng điều này mà đưa ra những sản phẩm quảng cáo đề cao tính năng, lợi ích của hàng hóa dịch vụ bất chấp hậu quả mà nó có thể đem lại. Chính vì thế, việc tạo ra và sử dụng sản phẩm quảng cáo phải được đặt dưới sự điều chỉnh của pháp luật cũng như sự kiểm soát chặt chẽ của cơ quan chức năng. Với sản phẩm quảng cáo mỹ phẩm, yêu cầu đó càng trở nên cần thiết.

Sản phẩm quảng cáo mỹ phẩm chưa đựng nội dung quảng cáo mỹ phẩm và hình thức quảng cáo mỹ phẩm.

Nội dung quảng cáo mỹ phẩm:

Nội dung quảng cáo nói chung bao gồm thông tin về hoạt động kinh doanh, hàng hóa, dịch vụ mà chủ quảng cáo muốn giới thiệu tới công chúng. Những thông tin này phải đảm bảo trung thực , chính xác, rõ ràng… Theo thông tư Nội dung quảng cáo mỹ phẩm phải phù hợp với các tài liệu chứng minh tính an toàn và hiệu quả của mỹ phẩm và phải tuân thủ theo hướng dẫn về công bố tính năng sản phẩm mỹ phẩm của ASEAN. Cụ thể, nội dung quảng cáo mỹ phẩm bảo gồm 1. Tên mỹ phẩm; 2.Tính năng, công dụng (nêu các tính năng, công dụng chủ yếu của mỹ phẩm nếu chưa thể hiện trên tên của sản phẩm); 3.Tên và địa chỉ của tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm đưa sản phẩm mỹ phẩm ra thị trường; 4.Lưu ý khi sử dụng (nếu có).

4.5. Đăng ký quảng cáo mỹ phẩm và Phiếu tiếp nhận hồ sơ đăng ký quảng cáo mỹ phẩm.

Để quảng cáo mỹ phẩm một cách hợp pháp. Thương nhân cần lập hồ sơ đăng ký quảng cáo mỹ phẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 25 Thông tư /2011/TT-BYT. Hồ sơ đăng ký quảng cáo mỹ phẩm có thể được lập cho một hoặc nhiều sản phẩm, được quảng cáo trên một hoặc nhiều phương tiện thông tin đại chũng khác nhau. Trước khi quảng cáo mỹ phẩm, tổ chức cá nhân phải gửi 01 bộ hồ sơ đăng ký quảng cáo mỹ phẩm về Sở Y tế nơi đặt trụ sở chính của tổ chức, cá nhân công bố sản phẩm mỹ phẩm.

Trình tự thủ tục cấp Phiếu tiếp nhận hồ sơ đăng ký quảng cáo mỹ phẩm được quy định tại Điều 27 của Thông tư: “Sau khi nhận được hồ sơ đăng ký quảng cáo mỹ phẩm, tổ chức hội thảo, sự kiện giới thiệu mỹ phẩm hợp lệ theo đúng quy định của Thông tư này và lệ phí theo quy định hiện hành, Sở Y tế gửi cho đơn vị nộp hồ sơ đăng ký một Phiếu tiếp nhận hồ sơ đăng ký quảng cáo, tổ chức hội thảo, sự kiện giới thiệu mỹ phẩm (Phụ lục số 11-MP) kèm theo mẫu hoặc kịch bản quảng cáo đạt yêu cầu (áp dụng với hồ sơ đăng ký quảng cáo mỹ phẩm). Ngày ghi trên Phiếu tiếp nhận hồ sơ là ngày Sở Y tế nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Sau 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, nếu Sở Y tế không có văn bản yêu cầu sửa đổi, bổ sung thì đơn vị được quyền quảng cáo, tổ chức hội thảo, sự kiện giới thiệu mỹ phẩm theo đúng nội dung đã đăng ký”.

4.6. Những hành vi bị cấm trong quảng cáo mỹ phẩm.

Quảng cáo mỹ phẩm cũng phải tuân theo những quy định về quảng cáo nói chung. Các hành vi bị cấm trong quảng cáo được quy định tại Điều 95 Luật thương mại năm 2005 và Điều 8 Luật quảng cáo năm 2012.

5. Quy định của pháp luật về khuyến mại mỹ phẩm.

Pháp luật không có quy định riêng về khuyến mại mỹ phẩm, hoạt động khuyến mại mỹ phẩm được điều chỉnh bởi các quy định của Luật thương mại năm 2005 về khuyến mại nói chung và Nghị định 37/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại.

5.1. Chủ thể thực hiện khuyến mại.

Chủ thể thực hiện khuyến mại là thương nhân, có thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài. Theo khoản 2 Điều 88 Luật thương mại, thương nhân thực hiện khuyến mại gồm 2 trường hợp: thương nhân trực tiếp khuyến mại mỹ phẩm mà mình kinh doanh và thương nhân kinh doanh dịch vụ khuyến mại cho mỹ phẩm của thương nhân khác theo thỏa thuận với thương nhân đo. Điều này tăng có hội thương mại cho các thương nhân.

5.2. Các hình thức khuyến mại.

Có nhiều cách thức khác nhau để thương nhân dành cho khách hàng những lợi ích nhất định. Lợi ích mà khách hàng được hưởng có thể là lợi ích vật chất (tiền, hàng hóa) hay lợi ích phi vật chất (được cung ứng dịch vụ miễn phí). Hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại và hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại phải là những hàng hóa, dịch vụ được kinh doanh hợp pháp.

Theo quy định tại Điều 92 Luật thương mại, các hình thức khuyến mại mỹ phẩm gồm:

-Đưa hàng mẫu mẫu để khách hàng dùng thử chứ không phải trả tiền. Thông thường, hình thức khuyến mại này được sử dụng khi thương nhân cần giới thiệu một sản phẩm mới hoặc sản phẩm đã cải tiến, do vậy, hàng mẫu đưa cho khách hàng dùng thử là hàng đang bán hoặc sẽ được bán trên thị trường.

-Tặng hàng hóa cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền. Điều này được thực hiện đối với khách hàng có hành vi mua sắm sản phẩm của thương nhân. Hàng hóa, dịch vụ dùng làm quà tặng có thể là hàng hóa, dịch vụ mà thương nhân đang kinh doanh hoặc là hàng hóa, dịch vụ của thương nhân khác. Việc tặng quà trong trường hợp này không chỉ có ý nghĩa thúc đẩy hành vi mua sắm mà thương nhân còn có cơ hội quảng cáo, giới thiệu về hàng hóa, dịch vụ của nhau.

-Bán hàng, cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá bán hàng trước đó, được áp dụng trong thời gian khuyến mại đã đăng ký hoặc thông báo

-Bán hàng có kèm theo phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ, phiếu dự thi. Theo các chương trình này, khách hàng có thể được hưởng lợi ích nhất định theo những phương thức khác nhau. Phiếu mua hàng thường có ý nghĩa giảm giá hoặc có mệnh giá nhất định để thanh toán cho những lần mua sau trong hệ thống bán hàng của thương nhân. Phiếu sử dụng dịch vụ có thể cho phép sử dụng dịch vụ miễn phí, theo điều kiện do nhà cung ứng dịch vụ đưa ra. Khác với điều này, phiêu dự thi có thể mang lại giải thưởng hoặc không mang lại gì cho khách hàng, phụ thuộc vào kết quả dự thi của họ.

– Tổ chức các sự kiện để thu hút khách hàng. Các sự kiện này được tổ chức gắn liền hoặc tách rời với việc mua hàng, ví dụ các chương trình mang tính may rủi mà khách hàng trúng thưởng hoàn toàn do sự may mắn như: bốc thăm, cào số trúng thưởng, bóc, mở sản phẩm trúng, vé số dự thưởng.Tổ chức cho khách hàng tham gia các chương trình văn hóa, nghệ thuật, giải trí…có thể là lợi ích phi vật chất mà thương nhân dành khuyến mại cho khách hàng, cũng có thể nhằm hướng tới khách hàng mục tiêu của thương nhân. Ngoài các sự kiện trên, thương nhân có thể tổ chức chương trình khách hàng thường xuyên, các sự kiện khác vì mục đích khuyến mại.

Ngoài ra, pháp luật không cấm thương nhân sử dụng các hình thức khác để khuyến mại nhưng khi tiến hành phải được cơ quan quản lý nhà nước về thương mại chấp nhận.

5.3. Hạn mức khuyến mại.

Hạn mức theo đơn giá: Theo quy định của pháp luật hiện hành quy định mứcgiá tối đa  cho  hành  hoá,  dịch  vụ  khuyến  mại  không  lớn  hơn  50%  giá  trị hành hoá dịch vụ này trước thời điểm khuyến mại. 

Hạn  mức  tính  theo  tổng  giá  trị  hành  hoá,  dịch  vụ  dùnh  để  khuyến  mại. Tổng giá trị của hành hoá, dịch vụ mà thương nhân thực hiện trong một chương trình khuyến mại không lớn hơn 50% tổng giá trị hành hoá, dịch vụ khuyến mại trừ  trường  hợp  khuyến  mẫu  bằng  đưa  hành  mẫu,  cung  ứng  dịch  vụ  hành  mẫu dùng thử không phải trả tiền. 

Hạn  mức  thời  gian  khuyến  mại:  Tổng  thời  gian  thực  hiện  chương  trình  khuyến mại đối với một nhãn hiệu hàng hoá, dịch vụ không đước quá 90 ngày trong  năm,  một  chương  trình  khuyến  mại  không  được  quá  45  ngày.  Quy  định này áp dụng đối với các hình thức khuyến mại: bán hàng, cung ứng dịch vụ giá giảm hơn so với giá bán hang cung ứng dịch vụ trước đó. 

Tổng thời gian thực hiện khuyến mại đối với một nhãn hiệu hàng hoá dịch vụ   không được qua 180 ngày trong 1năm và 1 chương trình khuyến mại không quá 90 ngày.Hạn  mức này áp dụng đối với các hình thức bán hàng: cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự các chương trình mang tính chất may rủi. 

5.4. Trình tự, thủ tục khuyến mại.

Thông báo về việc khuyến mại: Thương nhân thực hiện các hình thức khuyến mại quy định tại phải gửi thông báo bằng văn bản về chương trình khuyến mại đến Sở Thương mại nơi tổ chức khuyến mại chậm nhất 7 (bảy) ngày làm việc trước khi thực hiện khuyến mại. Nội dung thông báo về chương trình khuyến mại được quy định tại Điều 15 Nghị định 37/2006.

Đăng kí khuyến mại: Thương nhân phải gửi hồ sơ đăng ký khuyến mại bao gồm những nội dung quy định tại khoản 2 Điều 16 Nghị định 37/2006/NĐ-CP đến Sở Công thương (đối với hình thức khuyến mại bằng hình hình bán hàng kèm theo chương trình dự thưởng mang tính may rủi) hoặc Bộ Công thương (đối với các hình thức khuyến mại khác). Trong thời hạn 7 ngày làm việc, các cơ quan này phải xem xét, xác nhận bằng văn bản việc đăng ký chương trình khuyến mại của thương nhân nếu hồ sơ đăng ký hợp lệ.

Thực hiện chương trình khuyến mại: thương nhân thực hiện chương trình khuyến mại có trách nhiệm gửi văn bản thông báo cho Sở Thương mại nơi thực hiện chương trình khuyến mại kèm theo bản sao văn bản xác nhận của Bộ Thương mại trước khi thực hiện chương trình khuyến mại.

Trao giải thưởng và báo cáo kết quả chương trình khuyến mại: thương nhân phải thông báo công khai kết quả trúng thưởng trên ít nhất một phương tiện thông tin đại chúng tại tỉnh, thành phố nơi thực hiện khuyến mãi và trao giải thưởng. Đồng thời, trong 45 ngày kể từ ngày hết hạn trao giải thưởng phải báo cáo bằng văn bản cho cơ quan có thẩm quyền.

5.5. Những hành vi bị cấm trong khuyến mại mỹ phẩm.

Tương tự như khuyến mại các hàng hóa, dịch vụ khác, thương nhân thực hiện khuyến mại mỹ phẩm cũng không được thực hiện những hành vi khuyến mại bị cấm quy định tại Điều 100 Luật thương mại năm 2005. Khi thực hiện hoạt động khuyến mại cần tuân thủ những nguyên tắc và quy định theo Luật Thương mại 2005, theo đó những hành vi sau sẽ bị cấm thực hiện trong hoạt động khuyến mại. Tại Điều 100 Luật Thương mại 2005 quy định những hành vi sẽ bị cấm trong hoạt động khuyến mại đó là:

Khuyến mại cho hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh; hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh; hàng hoá chưa được phép lưu thông, dịch vụ chưa được phép cung ứng.

Sử dụng hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại là hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh; hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh; hàng hóa chưa được phép lưu thông, dịch vụ chưa được phép cung ứng.

Khuyến mại hoặc sử dụng rượu, bia để khuyến mại cho người dưới 18 tuổi.

Khuyến mại hoặc sử dụng thuốc lá, rượu có độ cồn từ 30 độ trở lên để khuyến mại dưới mọi hình thức.

Khuyến mại thiếu trung thực hoặc gây hiểu lầm về hàng hoá, dịch vụ để lừa dối khách hàng.

Khuyến mại để tiêu thụ hàng hoá kém chất lượng, làm phương hại đến môi trường, sức khoẻ con người và lợi ích công cộng khác.

Khuyến mại tại trường học, bệnh viện, trụ sở của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân.

Hứa tặng, thưởng nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng.

Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.

Thực hiện khuyến mại mà giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại vượt quá hạn mức tối đa hoặc giảm giá hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại quá mức tối đa theo quy định tại khoản 4 Điều 94 của Luật này.

Để biết thêm thông tin chi tiết, bạn vui lòng liên hệ với chúng tôi để được tư vấn trực tiếp. Luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp qua điện thoại gọi 1900.0191.

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn luật thương mại – Công ty luật LVN Group.