1.Việc giám sát đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi được thực hiện như thế nào?

Bộ luật tố tụng hình sự 2015 bắt đầu có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. Nội dung của bộ luật đã được sửa đổi, bổ sung nhiều quy định thể hiện điểm tiến bộ hơn so với quy định tại Bộ luật tố tụng cũ. Một trong những quy định được bổ sung tại bộ luật này đó là đề ra thủ tục tiến hành tố tụng đối với người dưới 18 tuổi nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi.

>> Xem thêm: Hình phạt chính là gì ? Các loại hình phạt chính hiện nay

Việc giám sát đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi được quy định tại Điều 418 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018). Cụ thể như sau:

1. Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể ra quyết định giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cho người đại diện của họ giám sát để bảo đảm sự có mặt của họ khi có giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

2. Người được giao nhiệm vụ giám sát có nghĩa vụ giám sát chặt chẽ người dưới 18 tuổi, theo dõi tư cách, đạo đức và giáo dục người đó.

Trường hợp người dưới 18 tuổi có dấu hiệu bỏ trốn hoặc có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này hoặc tiếp tục phạm tội thì người được giao nhiệm vụ giám sát phải kịp thời thông báo và phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để có biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời.

2. Quy định về giám sát đối với người bị buộc tội là người chưa thành niên

Nếu không sử dụng các biện pháp ngăn chặn tại điều 419, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì có thể áp dụng các biện pháp giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cho người đại diện của họ giám sát.

Tại Điều 418, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định rõ về vấn đề giám sát đối với người bị buộc tộingười dưới 18 tuổi quy định những nội dung như sau:
>> Xem thêm: Giám thị trại giam là gì ? Nhiệm vụ, quyền hạn của giám thị trại giam

Thứ nhất, sử dụng các biện pháp ngăn chặn tại điều 419, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 hoặc có thể áp dụng các biện pháp giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cho người đại diện của họ giám sát.

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định giao người chưa thành niên phạm tội cho cha, mẹ hoặc người đỡ đầu của họ giám sát để bảo đảm sự có mặt của người chưa thành niên phạm tội khi có giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng. Cha mẹ, người đỡ đầu của người dưới 18 tuổi cũng có thể đề nghị với các cơ quan tiến hành tố tụng để thực hiện các biện pháp này.
Đối với người chưa thành niên phạm tội không còn cha mẹ, không có nơi cư trú rõ ràng hoặc là người lang thang, cơ nhỡ, không nơi nương tựa thì cơ quan điều tra cần tìm mọi biện pháp để xác định lý lịch cũng như gia đình của họ.
Trong trường hợp không xác định được thì cơ quan điều tra đề nghị cơ quan Lao động – Thương binh và Xã hội hoặc Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ ở nơi bắt giữ, nơi xảy ra tội phạm hoặc nơi có thẩm quyền điều tra cử cán bộ giám sát người chưa thành niên phạm tội.

Thứ hai, trước khi giao người dưới 18 tuổi cho người đại diện của họ giám sát dần phải xem xét:

– Tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, lứa tuổi, tình hình sức khỏe, tiền án, tiền sự của người dưới 18 tuổi (nếu có),…
– Khả năng giám sát, giáo dục cùa người đại diện của họ.
– Nếu thấy rằng việc người chưa thành niên phạm tội không thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, không cần phải tạm giữ, tạm giam để điều tra và sự giám sát của người đại diện có thể bảo đảm bị can, bị cáo không tiếp tục phạm tội hoặc trốn, thì cơ quan tiến hành tố tụng có thể giao cho người đại diện của họ giám sát để chờ việc xét xử.

Thứ ba, cần nhanh chóng xác định người giám sát để kịp thời tiếp xúc với người chưa thành niên phạm tội.

Khi đã chấp nhận đề nghị của cơ quan tiến hành tố tụng về việc cử cán bộ giám sát người chưa thành niên phạm tội, cơ quan đã nhận trách nhiệm cử cán bộ giám sát cần cử ngay cán bộ và kịp thòi thông báo cho cơ quan tiến hành tố tụng biết để tạo điểu kiện cho họ tiếp xúc, gặp gỡ người chưa thành niên phạm tội.
Quyết định phải được lập bằng văn bản, trong đó ghi rõ tội mà người chưa thành niên bị truy cứu trách nhiệm hình sự và trách nhiệm của người đại điện khi giám sát họ phải đảm bảo bị can, bị cáo không tiếp tục phạm tội và phải có mặt khi được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập.
>> Xem thêm: Quản chế là gì ? Quy định pháp luật về hình phạt quản chế
Quyết định này phải được giao cho người đại diện thực hiện việc giám sát và Công an xã, phương, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú để theo dõi, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của người đại diện của người dưới 18 tuổi.

Cuối cùng, trường hợp người dưới 18 tuổi có dấu hiệu sai lệch:

Trường hợp người dưới 18 tuổi có dấu hiệu ỏ trốn hoặc có hành vi mua chuộc, cường ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này hoặc tiếp tục phạm tội thì người được giao nhiệm vụ giám sát phải kịp thời thông báo và phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để có biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời.
Nếu người đại diện không làm đúng nhiệm vụ thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ áp dụng biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc hơn đối với ngưởi dưới 18 tuổi phạm tội.

3. Điểm mới của biện pháp giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi

So với quy định tại Điều 304 BLTTHS cũ thì biện pháp giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi quy định tại Điều 418 BLTTHS năm 2015 có những điểm mới sau:

Thứ nhất, bổ sung thêm cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có quyền ra quyết định giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi

Ngoài việc quy định Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể ra quyết định giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cho người đại diện của họ giám sát để bảo đảm sự có mặt của họ khi có giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng như quy định tại Điều 304 BLTTHS cũ thì quy định tại khoản 1 Điều 418 BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng có quyền ra quyết định giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi.

Thứ hai, quy định rõ ràng hơn nhiệm vụ của người giám sát

>> Xem thêm: Chấp hành là gì ? Khái niệm về chấp hành pháp luật hành chính

Nếu như khoản 2 Điều 304 BLTTHS cũ chỉ quy định: Người được giao nhiệm vụ giám sát có nghĩa vụ giám sát chặt chẽ người chưa thành niên, theo dõi tư cách, đạo đức và giáo dục người đó thì khoản 2 Điều 418 BLTTHS năm 2015 quy định rõ ràng hơn như sau: Trường hợp người dưới 18 tuổi có dấu hiệu bỏ trốn hoặc có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này hoặc tiếp tục phạm tội thì người được giao nhiệm vụ giám sát phải kịp thời thông báo và phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để có biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời. Quy định này của BLTTHS năm 2015 nhằm đảm bảo việc áp dụng biện pháp giám sát chặt chẽ hơn người bị buộc tội dưới 18 được hiệu quả, đúng mục đích; đồng thời ngăn chặn kịp thời những hành vi tiêu cực, cản trở việc giải quyết vụ án do người bị buộc tội dưới 18 tuổi thực hiện.

Thứ ba, mở rộng đối tượng người giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi

Theo Điều 304 BLTTHS cũ thì người được giao nhiệm vụ giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội là cha, mẹ hoặc người đỡ đầu của họ. Nhưng Điều 418 BLTTHS năm 2015 thì mở rộng hơn đối tượng người giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi là người đại diện hợp pháp của họ. Theo đó, người đại diện của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi được xác định theo thứ tự sau đây: Cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, người giám hộ và người do Tòa án chỉ định.

4. Vướng mắc trong thực tiễn

Nghiên cứu quy định về biện pháp giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi và biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú thì thấy rằng mục đích của biện pháp giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi theo Điều 418 BLTTHS năm 2015 là để bảo đảm sự có mặt của người bị buộc tội dưới 18 tuổi khi có giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Còn mục đích của biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú theo Điều 123 BLTTHS năm 2015 là nhằm bảo đảm sự có mặt của ngbị cam, bị cáo khi có giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án. Như vậy, mục đích của hai biện pháp này là giống nhau. Tuy nhiên, vấn đề là biện pháp giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi có được áp dụng đồng thời với biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú không thì thực tiễn vẫn còn vướng mắc do nhận thức còn khác nhau.

Quan điểm thứ nhất cho rằng, khi cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng biện pháp giám sát người bị buộc tội thì không được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bởi vì khoản 1 Điều 419 BLTTHS năm 2015 quy định như sau: “Chỉ áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng biện pháp giám sát và các biện pháp ngăn chặn khác không hiệu quả” và khoản 1 Điều 12 Thông tư liên tịch số: 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao – Bộ Công an – Bộ Tư pháp – Bộ Lao động-Thương binh và xã hội về phối hợp thực hiện một số quy định của BLTTHS về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi (Thông tư liên tịch số 06/2018) quy định như sau: “Trước khi quyết định áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam người dưới 18 tuổi, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, cân nhắc áp dụng biện pháp giám sát, cấm đi khỏi nơi cư trú hoặc tạm hoãn xuất cảnh quy định tại Điều 123, Điều 124 Bộ luật Tố tụng hình sự.”.

Như vậy, qua các quy định này thì có thể thấy biện pháp giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi và biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú là hoàn toàn độc lập với nhau. Cho nên khi đã áp dụng biện giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi thì không cần thiết phải áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị buộc tội dưới 18 tuổi.

Quan điểm thứ hai cho rằng, mặc dù mục đích của biện pháp giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi và biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú có mục đích tương tự nhau nhưng cách thức thực hiện, quyền và nghĩa vụ của những người liên quan là khác nhau như: Bị can, bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú thì phải làm cam đoan thực hiện nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 123 BLTTHS năm 2015; Nếu bị can, bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú vi phạm nghĩa vụ thì bị tạm giam. Còn biện pháp giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi có quy định nghĩa vụ của người đại diện được giao nhiệm vụ giám sát. Trường hợp người đại diện được giao nhiệm vụ giám sát vi phạm nghĩa vụ giám sát mà để người bị buộc tội dưới 18 tuổi bỏ trốn hoặc thực hiện các hành vi khác quy định tại khoản 2 Điều 418 BLTTHS thì tùy tính chất, mức độ vi phạm có thể bị thay đổi hoặc bị xử lý theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, biện pháp giám sát người bị buộc tội không phải là một trong các biện pháp ngăn chặn theo quy định của BLTTHS năm 2015. Cho nên, khi áp dụng biện pháp giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng vẫn có quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn là cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị buộc tội dưới 18 tuổi.

Vướng mắc trên rất cần được cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn hoặc giải đáp để việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn được thống nhất.

5. Binh luận về giám sát đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi

Tại khoản 1 Điều 418 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể ra quyết định giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cho người đại diện của họ giám sát để bảo đảm sự có mặt của họ khi có giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Như vậy, so với quy định tại Điều 304 Bộ luật Tố tụng hình sự cũ thì Bộ luật mới đã bổ sung thêm cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có quyền ra quyết định giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi (Bộ luật Tố tụng hình sự cũ quy định là người chưa thành niên phạm tội).

>> Xem thêm: Đào ngũ là gì ? Khái niệm đào ngũ được hiểu như thế nào ?

Đáng chú ý, khoản 2 Điều 418 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định bổ sung nội dung quan trọng: Trường hợp người dưới 18 tuổi có dấu hiệu bỏ trốn hoặc có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này hoặc tiếp tục phạm tội thì người được giao nhiệm vụ giám sát phải kịp thời thông báo và phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để có biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời.

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung quy định trên nhằm đảm bảo việc áp dụng biện pháp giám sát người chưa thành niên bị buộc tội tại gia đình, nơi cư trú khi không áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với họ được hiệu quả, đúng mục đích; đồng thời ngăn chặn kịp thời những hành vi tiêu cực, cản trở việc giải quyết vụ án do người dưới 18 tuổi thực hiện

Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến lĩnh vực hình sự về trách nhiệm hình sự, quyết định hình phạt, tổng hợp hình phạt, Hãy gọi ngay: 1900.0191 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài. Đội ngũ Luật sư của LVN Group giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực hình sự luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp cụ thể.

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty luật LVN Group