1. Quyền con người và phẩm giá con người

Nhân phẩm (hay phẩm giá con người – human dignity) là những giá trị chỉ con người mới có, tạo nên vị thế, sự khác biệt của loài người với những loài khác trong thế giới động vật. Phẩm giá là như nhau và tồn tại bên trong đời sống của mỗi con người. Trong bản thân khái niệm phẩm giá có chứa đựng tư tưởng về giá trị của mỗi con người, về tính độc nhất vô nhị và bản sắc của mỗi cá nhân mà được mọi người, mọi thiết chế và toàn xã hội tôn trọng . Quyền con người bắt nguồn từ nhân phẩm và là phạm trù đặc biệt do nhân loại sáng tạo ra để bảo vệ nhân phẩm. Thông qua việc pháp điển hóa các quyền con người vào pháp luật quốc gia và quốc tế, nhân phẩm của mọi con người được luật pháp bảo vệ. Hiến pháp của đa số các quốc gia trên thế giới đều có những quy định trực tiếp hoặc gián tiếp khẳng định nhân phẩm của các cá nhân là bất khả xâm phạm và mọi chủ thể đều có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ nhân phẩm của người khác. Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945, ngay trong Lời nói đầu đã khẳng định “…niềm tin vào quyền con người, vào nhân phẩm và giá trị của con người, vào các quyền bình đẳng…”. Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 cũng đề cập phẩm giá vốn có của con người ngay trong Lời nói đầu và khẳng định mọi người đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và các quyền (Điều 1). Hai công ước quốc tế cơ bản về quyền con người (ICCPR và ICESCR) đều khẳng định quyền con người “…bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của con người…” (Lời nói đầu). Ở góc độ khác, những tôn giáo lớn trên thế giới đều kêu gọi tôn trọng phẩm giá của con người và chủ trương bình đẳng về nhân phẩm. Việc ghi nhận và bảo vệ các quyền con người là nhằm đáp ứng những đòi hỏi tất yếu về bảo vệ nhân phẩm, ngăn chặn những hành vi xâm phạm, chà đạp lên phẩm giá con người.

2. Quyền con người và nhu cầu, khả năng của con người

Nhu cầu của con người (human need) có thể hiểu một cách chung nhất là những điều cần thiết cho con người để có cuộc sống thoải mái, mạnh khỏe. Nhu cầu có thể là vật chất, mang tính khách quan (như nhu cầu về lương thực, nước uống, nơi ở…) hoặc tinh thần, mang tính chủ quan (như nhu cầu được tôn trọng, được quý mến…). Xét tổng thể, việc đáp ứng các nhu cầu cơ bản của con người trong thực tiễn cũng chính là bảo đảm quyền con người. Việc xác định các nhu cầu của con người, phản ánh những nhu cầu đó bằng ngôn ngữ quyền con người, tổ chức thực hiện các nhu cầu đó bằng việc vận dụng các lý thuyết và quy phạm của quyền con người chính là cách tiếp cận dựa trên quyền con người (human rights-based approach).

Bổ sung cho những cách tiếp cận kể trên là tiếp cận dựa trên năng lực (capacity-based approach). Cách tiếp cận này giúp làm rõ những khả năng của con người (các cá nhân, nhóm, cộng đồng…) trong việc nhận biết và thực hiện các quyền con người của mình. Sự cần thiết của cách tiếp cận dựa trên năng lực xuất phát từ thực tế là con người có các quyền pháp lý, nhưng nhiều trường hợp lại không có khả năng nhận biết, hiểu đúng và biến các quyền đó thành hiện thực. Khả năng thực hiện quyền phụ thuộc vào nhiều yếu tố như năng lực nhận thức của chủ thể quyền; điều kiện vật chất, tài chính, môi trường chính trị, xã hội, văn hóa mà cho phép chủ thể quyền có thể hưởng thụ các quyền đó trên thực tế. Ở đây, khả năng thực hiện quyền của con người gần với khái niệm “tự do chủ động”, và thể hiện rõ nét hơn trong một số lĩnh vực, chẳng hạn như trong việc tham gia quản lý xã hội… Đây là một vấn đề mới trong lý luận về quyền con người nên còn nhiều khía cạnh cần được tiếp tục nghiên cứu.

3. Quyền con người và quyền công dân

Quyền con người và quyền công dân là hai phạm trù rất gần gũi nhưng không hoàn toàn đồng nhất. Quyền công dân (citizen’s rights) là một khái niệm xuất hiện cùng cách mạng tư sản. Cách mạng tư sản đã đưa con người từ địa vị những thần dân trở thành những công dân (với tư cách là những thành viên bình đẳng trong một Nhà nước) và pháp điển hóa các quyền tự nhiên của con người dưới hình thức các quyền công dân trong pháp luật. Như vậy, về bản chất, các quyền công dân chính là những quyền con người được các nhà nước thừa nhận và áp dụng cho công dân của mình. Tuy nhiên, quyền công dân không phải là hình thức cuối cùng và toàn diện của quyền con người. Với ý nghĩa là một khái niệm gắn liền với Nhà nước, thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước, được xác định thông qua một chế định pháp luật đặc biệt là chế định quốc tịch, quyền công dân là tập hợp những quyền tự nhiên được pháp luật của một nước ghi nhận và bảo đảm, nhưng chỉ cho những người có quốc tịch của nước đó. Không phải ai cũng được hưởng các quyền công dân của một quốc gia nhất định, và không phải hệ thống quyền công dân của mọi quốc gia đều giống hệt nhau, cũng như đều hoàn toàn tương thích với hệ thống các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người. Trong khi đó, quyền con người là khái niệm rộng hơn. Về tính chất, quyền con người không bị bó hẹp trong mối quan hệ giữa cá nhân với Nhà nước mà thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng nhân loại. Về phạm vi áp dụng, do không bị giới hạn bởi chế định quốc tịch, chủ thể của quyền con người là tất cả các thành viên của loài người, bất kể vị thế, hoàn cảnh, quốc tịch…Nói cách khác, quyền con người được áp dụng một cách bình đẳng với tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc đang sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phụ thuộc vào biên giới quốc gia, tư cách cá nhân hay môi trường sống của chủ thể quyền. Một cá nhân con người, ngoại trừ những người không quốc tịch, về hình thức đồng thời là chủ thể của cả hai loại quyền con người và quyền công dân, tuy nhiên, sự phân biệt trong thụ hưởng hai loại quyền này chỉ được thể hiện trong một số hoàn cảnh đặc biệt. Ví dụ, một người nước ngoài hay người không quốc tịch sẽ không được hưởng m ột số quyền công dân (và cũng là những quyền con người đặc thù, chẳng hạn như quyền bầu cử, ứng cử…) như công dân của nước mà người đó đang sinh sống hay làm việc; tuy nhiên, người đó vẫn được hưởng các quyền con người phổ biến (mà đồng thời cũng là các quyền công dân) áp dụng cho mọi thành viên của nhân loại trong mọi hoàn cảnh, cụ thể như quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân…

4. Quyền con người và phát triển con người

Khái niệm “phát triển con người” (human development), theo UNDP, là một tiến trình mở rộng các quyền lựa chọn cho mọi người, trao cho họ những cơ hội tốt hơn trong các vấn đề giáo dục, chăm sóc y tế, thu nhập, việc làm… Khái niệm này gắn liền v ới khái niệm “Chỉ số phát triển con người” (Human Development Index – HDI) mà lần đầu tiên được đưa ra vào năm 1990 bởi nhà kinh tế học người Pakixtan Mahbub Ul Haq và một số đồng sự của ông và sau đó được UNDP sử dụng như là công cụ để đánh giá và xếp loại mức độ phát triển con người ở các quốc gia trên thế giới trong Báo cáo thường niên về phát triển con người (Human Development Report) c ủa tổ chức này. Báo cáo nhằm vào các khía cạnh như tuổi thọ trung bình, tỷ lệ biết đọc biết viết, trình độ học vấn và thu nhập quốc dân (GDP) của các quốc gia. Về quan hệ giữa hai phạm trù quyền con người và phát triển con người, Báo cáo Phát triển con người năm 2000 của UNDP khẳng định, phát triển con người và quyền con người có mối liên hệ chặt chẽ cả về động cơ và mục đích, có tác động bổ trợ lẫn nhau, tuy có những khác biệt nhất định về chiến lược hành động. Cụ thể, về những điểm tương đồng,  phát triển con người và quyền con người đều nhằm thúc đẩy cuộc sống và hạnh phúc của con người trên cơ sở khuyến khích sự tôn trọng nhân phẩm vốn có của các cá nhân và sự bình đẳng giữa các dân tộc. Phát triển con người và quyền con người đều nhằm hiện thực hóa sự tự do của con người thông qua tăng cường các cơ hội và năng lực cho mọi người. Cả phát triển con người và quyền con người đều lấy con người làm trung tâm, đều nhằm tăng cường các tiêu chuẩn sống của con người không chỉ qua việc nâng cao thu nhập, mà còn qua việc cải thiện các thiết chế xã hội theo hướng dân chủ hóa và tôn trọng các quyền con người. Điểm khác biệt cơ bản giữa phát triển con người và quyền con người, như đã nêu ở trên, là chiến lược hành động. Trong khi các hoạt động về phát triển con người, cụ thể như Các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc (the United Nations Millennium Declaration) được tổ chức thực hiện theo cách tiếp cận từ trên xuống dưới (top-down approach), tức chủ yếu tác động đến đến các nhà nước, thì các chương trình về quyền con người có cách tiếp cận cân bằng hơn, theo đó không chỉ các nhà nước mà cả các cộng đồng, các tổ chức xã hội cũng được huy động tham gia. Ngoài ra, trong khi các chương trình về phát triển con người được xây dựng chủ yếu dựa trên các nhu cầu của con người và nhằm để đáp ứng các nhu cầu đó (tiếp cận dựa trên nhu cầu), thì các hoạt động về quyền con người được xây dựng dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền và nhằm để hiện thực hóa các tiêu chuẩn đó (tiếp cận dựa trên quyền con người). Cho dù có những điểm khác biệt, song các chương trình và hoạt động về phát triển con người và quyền con người có mối liên hệ chặt chẽ, tác động và hỗ trợ lẫn nhau. Đơn cử, các hoạt động bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người về kinh tế, xã hội, văn hóa bổ tr ợ và góp phần thúc đẩy việc triển khai và đạt được 8 mục tiêu phát triển thiên niên kỷ135 (mà 6 trong số đó gắn liền với các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa). Ngược lại, những hoạt động nhằm thực hiện 8 mục tiêu phát triển thiên kỷ cũng góp phần quan trọng vào việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa chủ yếu. Liên quan đến mối quan hệ giữa phát triển con người và quyền con người, có một thuật ngữ được sử dụng phổ biến bởi các cơ quan Liên hợp quốc, đó là tiếp cận dựa trên quyền (right-based approach – RBA, hoặc human rights-based approach). Mặc dù không có định nghĩa và công thức chung cho RBA, tuy nhiên, về cơ bản khái niệm này được hiểu là sự kết hợp giữa các mục tiêu và phương pháp hoạt động về quyền con người và phát triển con người trong các chính sách, chương trình phát triển. Các đặc trưng cốt lõi của RBA là: (i) Coi việc hỗ trợ thực hiện, thụ hưởng các quyền con người là mục tiêu chính trong các chính sách và chương trình phát triển; (ii) Lấy các nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người làm định hướng trong việc thiết lập và thực hiện các chương trình phát triển, và (iii) Làm rõ những chủ thể của quyền, chủ thể có trách nhiệm và các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của họ, từ đó hỗ trợ họ tăng cường năng lực trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm.

5. Quyền con người và an ninh con người

An ninh con người (human security) là thuật ngữ mới được đề cập kể từ sau khi kết thúc Chiến tranh Lạnh và hiện đang được thảo luận sôi nổi trên thế giới. Báo cáo thường niên về phát triển con người của UNDP năm 1994 định nghĩa an ninh con người là sự cấu thành của hai điều kiện: (i) An toàn không bị đe dọa bởi đói nghèo, bệnh tật và sự đàn áp, và (ii) Được bảo vệ khi gặp những rủi ro bất thường trong cuộc sống, kể cả trong gia đình, trong công việc hay ngoài xã hội. Báo cáo này cũng xác định bảy lĩnh vực chính của an ninh con người, bao gồm: (i) An ninh kinh tế (economic security) – hàm ý sự bảo đảm về việc làm và thu nhập cơ bản; (ii) An ninh lương thực (food security) – thể hiện ở việc được bảo đảm nhu cầu tối thiểu về lương thực, thực phẩm; (iii) An ninh sức khỏe (health security) – thể hiện ở việc được bảo đảm ở mức tối thiểu trong phòng chống dịch bệnh và chăm sóc y tế; (iv) An ninh môi trường (environmental security) – thể hiện ở việc được bảo vệ trước thiên tai, tai họa do con người gây ra và sự ô nhiễm môi trường sống; (v) An ninh cá nhân (personal security) – thể hiện ở việc được bảo vệ trước những hành vi tội phạm, bạo lực hoặc lạm dụng thể chất do bất kể chủ thể nào gây ra; (vi) An ninh cộng đồng (community security) – thể hiện ở việc được duy trì các mối quan hệ và giá trị truyền thống của cộng đồng; (vii) An ninh chính trị (political security) – thể hiện ở việc được tôn trọng các quyền con người cơ bản, đặc biệt là các quyền dân sự, chính trị136. Từ định nghĩa kể trên của UNDP, có thể thấy an ninh con người và quyền con người có mối quan hệ mật thiết, tác động và hỗ trợ lẫn nhau. Về bản chất, việc bảo đảm bảy dạng an ninh con người cũng chính là bảo đảm các quyền con người tương ứng. Ngược lại, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người tương ứng cũng chính là nhằm thực hiện, bảo đảm bảy dạng an ninh con người. Thêm vào đó, cả an ninh con người và quyền con người đều hướng vào việc thúc đẩy các nguyên tắc dân chủ và sự phát triển về thể chế trong các xã hội như là những điều kiện để bảo đảm an ninh và các quyền của con người một cách bền vững. Tương tự như với vấn đề phát triển con người, sự khác biệt giữa các chương trình, hoạt động về an ninh con người và về quyền con người chủ yếu thể hiện ở cách tiếp cận. Trong khi về cơ bản, các chương trình an ninh con người sử dụng cách tiếp cận giống như phát triển con người (tuy có đa dạng và mềm dẻo hơn) là tiếp cận theo chiều dọc, từ trên xuống, chủ yếu thông qua các nhà nước, thì quyền con người tiếp cận theo chiều ngang, thông qua cả Nhà nước và xã hội. Thêm vào đó, nếu như các hoạt động an ninh con người hướng vào việc giúp con người đạt được sự tự do về nhiều mặt (tự do thoát khỏi đói nghèo (freedom from want); tự do không bị đàn áp (freedom from fear), và tự do quyết định các hành động của bản thân mình (freedom to take action on one’s own behalf) thì hoạt động về quyền con người chủ yếu hướng vào việc giúp con người đạt được tự do không bị đàn áp. Chính vì vậy, trong khi các hoạt động an ninh con người chú trọng cả hai biện pháp bảo vệ và trao quyền (hay nâng cao năng lực – empowerment) thì các hoạt động về quyền con người thường lấy việc bảo vệ làm trọng tâm.

Luật LVN Group (sưu tầm và biên tập)