1. Khái quát chung về quyền của loài vật

Hiện có khoảng 10 tới 15 triệu loài sinh vật sinh sống trên hành tinh của chúng ta. Tất cả các cá thể sống đều là một phần của mạng lưới phức tạp, cân bằng một cách tinh vi gọi là sinh quyển. Ngược lại, sinh quyển của trái đất của tạo nên bởi vô số các hệ sinh thái – bao gồm các loài động thực vật và môi trường sống tự nhiên của chúng. Không ai có thể biết một cách đầy đủ các loài có tác động như thế nào tới nhau trong cùng một hệ sinh thái nhưng sự biến mất của một loài sẽ gây nên phản ứng dây chuyền, ảnh hưởng tới rất nhiều loài khác. Đặc biệt đối với các loài có vai trò quan trọng trong hệ sinh thái thì sự tuyệt chủng của chúng có thể dẫn đến những hậu họa khó lường.
 

Cũng liên quan đến những tranh luận về chủ thể của quyền đã nêu ở trên, ngày càng có nhiều ý kiến cho rằng không chỉ con người, mà cả loài vật (animals) cũng có quyền. Quyền của động vật (animal rights) ngày càng được nhiều cá nhân, tổ chức trên thế giới ủng hộ và vận động để pháp điển hóa. Ngay từ thế kỷ XVIII, các tác giả như Humphrey Primatt (năm 1776), John Lawrence (năm 1796) … đã viết các tác phẩm về sự cần thiết phải tôn trọng các quyền của động vật. Những người tham gia phong trào bảo vệ quyền động vật tin tưởng rằng lợi ích căn bản của các con vật cũng cần được quan tâm như lợi ích của loài người. Các loài vật, đặc biệt là các loài linh trưởng, các loài vật nuôi trong nhà…không nên chỉ bị coi là tài sản, dùng làm thức ăn, trang phục, làm đối tượng nghiên cứu hoặc giải trí cho con người, mà chúng cũng cần được coi là một dạng chủ thể pháp lý, cần được đối xử nhân đạo phù hợp với hoàn cảnh và bối cảnh sống của chúng.
 Trên lĩnh vực này, nhiều nước trên thế giới đã có những quy định cấm hành hạ, ngược đãi và giết hại động vật một cách vô cớ, đặc biệt là những con vật nuôi trong nhà (chó, mèo…). Ngày 25/6/2008, Tây Ban Nha trở thành quốc gia đầu tiên công nhận quyền của loài linh trưởng giống người (ape) bằng việc xác lập một khuôn khổ pháp luật toàn diện để bảo vệ loài vật này, trong đó quy định mọi hành động giết hại (trừ trường hợp để tự vệ), tra tấn, giam giữ loài linh trưởng này đều là bị coi bất hợp pháp.
 
Trên phạm vi quốc tế, hệ thống các điều ước quốc tế bảo vệ động vật, đa dạng sinh học ngày càng phong phú. Năm 2003, tại Hội nghị Manila về An sinh Động vật (animal welfare), các đại biểu đã đi đến thống nhất rằng cần đảm bảo năm loại tự do cho động vật (tự do khỏi đói, khát; tự do khỏi sự sợ hãi, căng thẳng; tự do khỏi đau đớn, bệnh tật; tự do biểu đạt bằng cách hành vi thông thường).284 Cho dù vấn đề quyền của động vật hiện vẫn đang gây tranh cãi, song việc bảo vệ và đối xử nhân đạo với động vật ngày càng được xem là một tiêu chí để đánh giá mức độ văn minh của các xã hội.

2. Vai trò của loài vật

Trong hệ sinh thái tự nhiên cũng như trong đời sống xã hội, động vật đóng một vai trò quan trọng, có tác dụng cân bằng sinh thái và là nguồn lương thực, thực phẩm cho đời sống con người. Tùy đặc tính từng loài động vật mà mức độ ảnh hưởng trên có sự khác nhau nhưng xét về tổng thể, vai trò hay nói đúng hơn là quyền lợi của động vật cần được nhìn nhận, đánh giá đúng trong phát triển bền vững ở Việt Nam.

Đông vật 

– Cung cấp nguyên liệu cho con người: heo, gà, vịt, trâu, bò,…
– Dùng làm thí nghiệm: khỉ, chuột bạch, ếch, khỉ,…
– Dùng trong việc giải trí, du lịch, giữ nhà,…: chó, ngựa, voi, khỉ,…
– Truyền bệnh sang người: ruồi, muỗi, rận,… 
Động vật đối với đời sống con người là để nhắm phục vụ đời sống con người, nên chúng ta phải bit61 yêu thương nó, cho nó ăn uống đầy đủ để nó có thể phục vụ chúng ta, ngoài ra động vật còn làm thức ăn cho con người, trông nhà trông cửa. Và chú ý nhất là những động vật tryuền bệnh như ruồi, muỗi, vi khuẩn, rận,…
Bên cạnh đó động vật còn cung cấp
-Thực phẩm cho con người
-Cung cấp một số nguyên liệu(như da ,lông thú)
-dùng làm thí nghiệm thuốc,nghiên cứu khoa học.
-Hỗ trợ cho con người trong :lao động, giải trí,thể thao, bảo vệ an ninh.
-Một số còn lây bệnh cho con người

Động vật có vai trò đối với đời sống con người là: cung cấp nguyên liệu là thực phẩm, lông, da cho con người; dùng làm thí nghiệm cho học tập, nguyên cứu khoa học, thử nghiệm thuốc; động vật hỗ trợ cho người dùng trong lao động, giải trí, thể thao, bảo vệ an ninh.

Động vật không chỉ có vai trò quan trọng trong thiên nhiên mà còn cả với đời sống con người về mặt có lợi như cung cấp nguyên liệu: thực phẩm (rươi, ốc, mực, tôm, cá, ếch, rắn, gà, lợn, bò, …), lông (thỏ, cừu, dê, vịt, …), da (tuần lộc, hổ, trâu, …); làm thí nghiệm: khoa học (ếch, chuột bạch, …), thuốc (thỏ, chuột bạch, … ); hỗ trợ cho con người: lao động (trâu, bò, voi, …), giải trí (cá voi, hải cẩu, voi, hổ, vẹt, sáo, …), bảo vệ an ninh (chó); … Bên cạnh đó động vật còn gây hại không nhỏ cho con người như truyền, gây bệnh (trùng sốt rét, ruồi, muỗi, chuột, …) …

Ngoài những vai trò trên thì động vật còn 

– Điều tiết môi trường

Nhiều sinh vật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc đánh giá chất lượng môi trường. Ví dụ như sự sụt giảm nhanh chóng về số lượng đại bàng đầu bạc và chim ưng vào giữa thế kỷ 20 là lời cảnh báo mạnh mẽ về mức độ nguy hiểm của DDT – một loại thuốc trừ sâu mạnh từng được sử dụng rộng rãi nay tích tụ lại trong mô của cơ thể động vật (làm suy yếu khả năng sinh sản và cản trở quá trình ấp trứng thành công của các loài động vật này). Những loài sinh vật có khả năng chỉ thị môi trường sẽ cảnh báo con người về tác động của biến đổi khí hậu và các chất gây ô nhiễm tới môi trường.

– Giá trị kinh tế

Một số lợi ích từ các loài động thực vật là có thể đong đếm được bằng giá trị kinh tế. Theo Ban quản lý vườn quốc gia và động vật hoang dã bang Tesax, Hoa Kỳ,  xem chim là hoạt động giải trí ngoài trời phát triển nhanh nhất, ước tính mỗi năm đóng góp khoảng 400 triệu đô la vào ngân sách của bang. Nghiên cứu của Cục Bảo vệ Động vật hoang dã và Thủy sản Hoa Kỳ cũng cho biết hoạt động quan sát môi trường tự nhiên – không chỉ tính riêng hoạt động ngắm chim – đã thu về 85 tỉ đô la cho Hoa Kỳ trong năm 2001.

3. Quyền động vật

Quyền động vật, còn được gọi là sự giải phóng động vật, là ý tưởng cho rằng các quyền lợi cơ bản nhất của động vật nên nhận được quan tâm như các quyền lợi tương tự của con người[1]. Những người ủng hộ tiếp cận vấn đề từ các quan điểm triết học khác nhau, nhưng đều đồng ý rằng động vật nên được xem như là thể nhân không phải con người và là thành viên của cộng đồng đạo đức, và không nên được sử dụng như thực phẩm, quần áo, đối tượng nghiên cứu, hoặc giải trí[2]. Họ cho rằng con người nên thôi coi các sinh vật có tri giác là tài sản, ngay cả khi tài sản được đối xử tử tế[3].

 

Ý tưởng về các quyền trao cho động vật nhận được sự ủng hộ của các học giả pháp lý như Alan Dershowitz và Laurence Tribe của Trường Luật Harvard[4], trong khi Luật sư của LVN Group Clayton Ruby Toronto trong năm 2008 cho rằng phong trào quyền động vật đã đạt được quy mô như phong trào LGBT có được vào thời điểm 25 năm trước[5]. Pháp luật động vật được giảng dạy tại 119 trong số 180 trường luật ở Hoa Kỳ, trong tám trường đại học luật tại Canada, và thường xuyên được giảng dạy trong các trường đại học triết học hoặc các khoá học về luân lý thực hành[6].

4. Tranh luận về quyền của động vật

Động vật là những loài (species) khác con người, chúng không có nhận thức, không quan trọng bằng con người nên phải nhận được sự đối xử khác với con người. Sự đối xử khác bao gồm việc con người có thể hành xử tùy ý với động vật mà không bị coi là vi phạm những quy tắc đạo đức, vì đạo đức chỉ dành cho con người.Quyền chỉ xuất phát từ khả năng suy nghĩ (ability to think), hoặc ít nhất là từ khả năng cảm nhận sự đau đớn (ability to suffer). Loài vật không có khả năng suy nghĩ và cảm giác bị đau đớn như con người nên không thể là chủ thể của quyền.

 Nếu việc sư tử ăn thịt động vật khác là điều bình thường, thì con người ăn thịt động vật khác cũng nên được coi là điều bình thường.Nếu thừa nhận quyền của động vật, thì động vật nuôi sẽ bị tuyệt chủng, vì nuôi động vật về bản chất là việc tước bỏ quyền tự do của chúngNhững thí nghiệm trên động vật đem đến những lợi ích thiết thực, thậm chí không thể thiếu để bảo vệ sức khỏe của con người. Vì vậy không thể thừa nhận động vật có quyền mà qua đó sẽ phải chấm dứt dùng động vật làm đối tượng thí nghiệm.Nếu không ăn thịt động vật vì chúng có khả năng cảm nhận sự đau đớn thì thực vật cũng có cảm giác (feeling), cho nên việc ăn chúng cũng là không phù hợp về mặt đạo đứcĐộng vật không có quyền bởi vì chúng không có nghĩa vụNếu động vật có quyền, thì khi những quyền của chúng bị vi phạm, cơ chế nào sẽ bảo vệ chúng? Liệu sự vi phạm quyền của chúng có thể được mang ra khởi kiện tại tòa?

5. Cách ứng xử của con người với loài vật

– Tuyệt đối độc tôn lợi ích của con người. Theo đó, trong ứng xử với loài vật, lợi ích của con người phải được đặt lên trên hết. Loài vật không thể và không bao giờ được coi là ngang bằng với con người.

 

– Bắt nguồn từ lý thuyết “telos” của Aristotle, quan điểm thứ hai cho rằng trong ứng xử với loài vật, cái quan trọng là hiệu quả, là đích đến. Do vậy, việc giết chóc, chém giết loài vật có thể chấp nhận được nếu nó giúp cho sự sinh tồn của loài người. Tuy nhiên, ngoài lợi ích của con người, quan điểm này cũng xem xét đến việc giảm thiểu sự đau đớn cho loài vật. Theo đó, giết chết loài vật không phải là hành vi sai trái, nhưng sẽ là sai trái khi nó gây ra sự đau đớn cho loài vật.

 

– Từ góc độ quyền của động vật (animal rights view), các nhà triết học, đạo đức học, và khoa học cho rằng động vật có nhu cầu, sở thích, và cũng có quyền (chẳng hạn, quyền được trải nghiệm cuộc sống, quyền được tự do sống, hay thậm chí quyền tự vệ). Luận điểm này nhấn mạnh rằng động vật là những sinh vật có cảm giác (sentient), cũng biết trải nghiệm các cung bậc cảm xúc và cũng biết đau đớn. Do vậy, quyền, nhu cầu, sở thích của loài vật cần phải được tôn trọng.

 

– Quan điểm thứ tư cho rằng dù mỗi loài là mỗi cá thể nhưng vẫn có sợi dây liên hệ giữa cảm xúc của con người với cảm xúc của loài vật. Chẳng thế mà, chúng ta đã chứng kiến rất nhiều câu chuyện về mèo cứu chủ, chó cứu chủ, mèo sưởi ấm cho em bé bị bỏ rơi, mèo là bạn của người già cô đơn. Có nghĩa là ở đây, phúc lợi của con người (human welfare) đã không thể tách rời với phúc lợi của động vật (animal welfare). Do vậy, hành vi đạo đức đúng đắn trong ứng xử với loài vật nên là sự cảm thông và quan tâm, chăm sóc lẫn nhau.

 

– Quan điểm tôn trọng tự nhiên (respect for nature) cho rằng trong ứng xử với loài vật thì việc bảo vệ chúng khỏi họa tuyệt chủng mới là quan trọng nhất. Theo quan điểm này, chúng ta có thể giam giữ một con vật trong vườn thú để bảo tồn nòi giống cho chúng cho dù việc giam giữ này có thể mang đến sự bất tiện hay gây khó chịu cho con vật đó.

Luật LVN Group (sưu tầm & biên tập)