1. Quyền hạn

Quyền hạn là quyền tự chủ trong hành động, trong quá trình quyết định và đòi hỏi sự tuân thủ quyết định gắn liền với một vị trí (hay chức vụ) quản lí nhất định trong tổ chức.

Quyền hạn của một vị trí quản lí sẽ được giao phó cho người nào nắm giữ vị trí đó, và như vậy, quyền hạn không liên quan với phẩm chất cá nhân của nhà quản lí.

Khi các nhà quản lí được trao quyền hạn, họ sẽ phải chịu trách nhiệm – đó là bổn phận phải hoàn thành những hoạt động được phân công và đạt được mục tiêu xác định.

Quyền hạn không gắn liền với trách nhiệm tương ứng sẽ tạo cơ hội cho sự lạm dụng, và ngược lại cũng không thể để một nhà quản lí phải chịu trách nhiệm về một việc nào đó nếu anh ta không có đủ quyền hạn để thực hiện nó.

Quyền hạn là chất kết dính trong cơ cấu tổ chức, là sợi dây liên kết các bộ phận với nhau, là phương tiện mà nhờ đó các nhóm hoạt động được đặt dưới sự chỉ huy của một nhà quản lí, và sự phối hợp giữa các đơn vị có thể được nâng cấp dần.

Nó chính là công cụ để nhà quản lí có thể thực hiện quyền tự chủ và tạo ra một môi trường thuận lợi cho việc thực hiện nhiệm vụ của từng người.

Ví dụ: Quyền và nghĩa vụ của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty được Điều 64 Luật Doanh nghiệp được quy định như sau:

“a) Tổ chức thực hiện các nghị quyết của Hội đồng thành viên;

b) Quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty;

c) Tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh và phương án đầu tư của công ty;

d) Ban hành quy chế quản lý nội bộ của công ty, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác;

đ) Bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh quản lý trong công ty, trừ các chức danh thuộc thẩm quyền của Hội đồng thành viên;

e) Ký kết hợp đồng nhân danh công ty, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Hội đồng thành viên;

g) Kiến nghị phương án cơ cấu tổ chức công ty;

h) Trình báo cáo quyết toán tài chính hằng năm lên Hội đồng thành viên;

i) Kiến nghị phương án sử dụng lợi nhuận hoặc xử lý lỗ trong kinh doanh;

k) Tuyển dụng lao động;

l) Quyền và nghĩa vụ khác được quy định tại Điều lệ công ty, hợp đồng lao động mà Giám đốc hoặc Tổng giám đốc ký với công ty theo nghị quyết của Hội đồng thành viên.”

2. Chức trách

Chức trách có thể hiểu đó là một chức vụ, qua chức vụ đó người ta sẽ có một số quyền hạn và nghĩa vụ nhất định dựa trên quyền hạn đó.

Theo đó, nhà chức trách được hiểu là người đại diện quyền lực nhà nước có nhiệm vụ giải quyết các vấn đề đặt ra trong quản lí nhà nước đối với các mặt hoạt động của đời sống xã hội.

Nhà chức trách có quyền đơn phương ra mệnh lệnh đối với các đối tượng có liên quan trong những vấn đề thuộc thẩm quyền của mình theo quy định của pháp luật.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tuân thủ mệnh lệnh của nhà chức trách. Tuy nhiên, theo nguyên tắc chung, nhà chức trách chỉ được phép thực hiện các hành vi trong phạm vi do luật định.

Khái niệm nhà chức trách được sử dụng chủ yếu trong đời sống xã hội.

Ví dụ: Quy định của pháp luật về chức năng nhiệm vụ, chức trách của giám đốc theo loại hình doanh nghiệp sau:

Thứ nhất, nhiệm vụ của giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn quy định tại Điều 64 Luật doanh nghiệp 2014 như ban hành quy chế quản lý nội bộ công ty, quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty, trình báo quyết toán tài chính hằng năm lên Hội đồng thành viên, ký kết các hợp đồng, xây dựng phương án cơ cấu tổ chức công ty, miễn nhiệm, bãi nhiệm, bổ nhiệm các chức doanh trong công ty,…

Thứ hai, chức năng nhiệm vụ của giám đốc công ty cổ phần được quy định tại Điều 157 Luật doanh nghiệp 2014 như thực hiện các nghị quyết của Hội đồng quản trị, quyết định các vấn đề liên quan đến công việc kinh doanh hằng ngày của công ty, tuyển dụng lao đồng, quyết định các vấn đề tiền lương và quyền lợi khác cho người lao động trong công ty, quản lý quy chế nội bộ công ty, kiến nghị các phương án trả cổ tức hoặc xử lý lỗ trong kinh doanh,….

Thứ ba, nhiệm vụ của giám đốc công ty hợp danh được quy định tại khoản 4 Điều 179 Luật doanh nghiệp 2014 như quản lý và điều hành các công việc kinh doanh hằng ngày của công ty, phân công, phối hợp công việc kinh doanh giữa các thành viên hợp danh, đại diện công ty tham gia các quan hệ pháp luật như là nguyên đơn, bị đơn trong các tranh chấp, triệu tập và tổ chức các cuộc họp hội đồng thành viên, tổ chức sắp xếp, lưu trữ đầy đủ và trung thực sổ kế toán, hóa đơn, các chứng từ tài liệu của công ty,…

3. Quyết sách

Quyết sách được hiểu là hoạch định kế hoạch, là lựa chọn một trong hai phương án hành động đã được chuẩn bị, là thiết lập cơ cấu tổ chức, phân định quyền hạn và nghĩa vụ; so sánh tình hình thực tế với kế hoạch, lựa chọn phương pháp kiểm tra. Điều đó có nghĩa là quyết sách phải quán xuyến các mặt kế hoạch, tổ chức, điều khiển. Hơn nữa, cán bộ quản lý các cấp của tổ chức đều phải tiến hành quyết sách. Cán bộ quản lý ở bậc cao nhất là người quyết định mục đích và phương châm chung của tổ chức.

Cán bộ quản lý cấp cơ sở là người bố trí, sắp xếp công việc hàng ngày để thực hiện mục tiêu và kế hoạch của bộ phận; thậm chí mỗi công nhân trong quá trình làm việc cũng cần lựa chọn đối tượng lao động, công cụ lao động, phương pháp lao động.

Tóm lại, quyết sách quán triệt mọi mặt, mọi cấp của tổ chức và toàn bộ quá trình hoạt động của tổ chức. Do đó, Herbert Alexander Simon nói: “Đế hiểu được hàm ý của quyết sách, cần phải hiểu từ “quyết sách” theo nghĩa rộng. Như vậy, quyết sách gần như đồng nghĩa với “quản lý”.

Trước tiên, xét theo quá trình thông thường của quyết sách, Theo ông Herbert Alexander Simon cho rằng quyết sách là một quá trình hoàn chỉnh do một loạt các giai đoạn có liên hệ với nhau cấu thành.

Theo ông Herbert Alexander Simon, người ta thường miêu tá một cách quá hạn hẹp tác dụng của người vạch ra quyết sách. Họ cho rằng, người vạch quyết sách là người có khả năng lựa chọn và quyết định con đường đúng nhất ở ngã tư đường, vào thời khắc quan trọng nhất. Do họ chỉ chú ý đến giây phút chọn lựa cuối cùng mà xem nhẹ toàn bộ quá trình hoàn chỉnh của quyết sách nên đã miêu tả sai lệch quyết sách.

Theo cách nói của Herbert Alexander Simon thì quyết sách do 4 giai đoạn có liên hệ với nhau cấu thành, dưới đây chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu về các giai đoạn của quyết sách.

4. Nhà quản lý và người lao động

a. Nhà quản lý

Quản lý là việc quản trị của một tổ chức, cho dù đó là một doanh nghiệp, một tổ chức phi lợi nhuận hoặc cơ quan chính phủ. Quản lý bao gồm các hoạt động thiết lập chiến lược của một tổ chức và điều phối các nỗ lực của nhân viên (hoặc tình nguyện viên) để hoàn thành các mục tiêu của mình thông qua việc áp dụng các nguồn lực sẵn có, như tài chính, tự nhiên, công nghệ và nhân lực. Thuật ngữ “quản lý” cũng có thể chỉ những người quản lý một tổ chức.

Hay có khái niệm “Quản lý” là việc quản trị của một tổ chức, cho dù đó là một doanh nghiệp, một tổ chức phi lợi nhuận hoặc cơ quan chính phủ. Quản lý bao gồm các hoạt động thiết lập chiến lược của một tổ chức và điều phối các nỗ lực của nhân viên (hoặc tình nguyện viên) để hoàn thành các mục tiêu của mình thông qua việc áp dụng các nguồn lực sẵn có, như tài chính, tự nhiên, công nghệ và nhân lực.

Nhà quản lý là danh từ chung để chỉ tất cả những người thực hiện chức năng quản lý trong một tổ chức nhất định (tổ chức đó có thể là một tổ chức kinh doanh hay phi kinh doanh).

Bao gồm có ba cấp bậc quản lý, cụ thể:

  1. Nhà cai quản cấp cao: là nhóm nhỏ các nhà cai quản ở cấp bậc tối cao trong đơn vị, chịu trách nhiệm về kết quả cuối cùng trong tổ chức.
  2. Nhà cai quản cấp giữa: là một khái niệm rộng, sử dụng để chỉ những cấp chỉ huy trung gian (trên họ và dưới họ còn có những nhà thống trị khác).
  3. Nhà thống trị cấp cơ sở: là những nhà cai quản ở cấp bậc cuối cùng trong hệ thống cấp bậc của các nhà quản lý trong cùng một đơn vị.

b. Người lao động

Theo từ điển bách khoa, một người lao động (người làm công, người làm thuê, người thợ hay nhân công) là người làm công ăn lương, đóng góp lao động và chuyên môn để nỗ lực tạo ra sản phẩm cho người chủ (người sử dụng lao động) và thường được thuê với hợp đồng làm việc (giao kèo) để thực hiện các nhiệm vụ cụ thể được đóng gói vào một công việc hay chức năng.

Trong hầu hết các nền kinh tế hiện đại, thuật ngữ “nhân viên”, “công nhân” đề cập đến một mối quan hệ được xác định cụ thể giữa một cá nhân và một công ty, mà khác với những khách hàng tiêu dùng.

Người lao động cũng thường kết hợp thành các Công đoàn hoặc nghiệp đoàn độc lập để bảo vệ quyền lợi của mình.

Tại nhiều quốc gia như Đức, kể từ khi cải cách pháp luật thông qua Đạo luật Hiến pháp trình trong năm 2001, theo pháp lý không còn phân biệt giữa nhân viên và công nhân, tại § 5, khoản 1 WCA cả hai được gọi chung là “người lao động”. Luật này tác động đến một số thỏa thuận thương lượng tập thể của Đức.

Như vậy, trong những năm gần đây, sự tách biệt và phân biệt đối xử giữa công nhân, viên chức, nhân viên hoặc cán bộ – thực hiện các hoạt động trong nhiều ngành công nghiệp tương tự hoặc hoạt động tương tự – được bãi bỏ, như trong các thoả ước tập thể cho dịch vụ công cộng và trong các thoả ước tập thể về khuôn khổ của hợp đồng làm việc.

Theo Điều 3 Bộ luật lao động năm 2019 giải thích từ ngữ về người lao động: “Người lao động là người làm việc cho người sử dụng lao động theo thỏa thuận, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành, giám sát của người sử dụng lao động.”

Theo đó, độ tuổi lao động tối thiểu của người lao động là đủ 15 tuổi, trừ trường hợp quy định tại Mục 1 Chương XI của Bộ luật lao động năm 2019 này.

5. Quyền hạn và chức trách

Trong hệ thống tự động hóa, việc can dự của nhân công trong quyết sách hàng ngày càng ngày càng ít. Chức trách chủ yếu của nhà quản lý là bảo vệ và cải tiến hệ thống quyết sách cũng như khích lệ và đào tạo nhân viên cấp dưới. Công tác quản lý ở cấp cơ sở sẽ chỉ là một phần nhỏ của công tác quản lý. Cán bộ quản lý cũng giống như thành viên của các nhóm công tác, sẽ dùng phần lớn thời gian và sức lực vào việc phân tích và thiết kế chính sách, cũng như chấp hành hệ thống chính sách ấy.

Còn cán bộ quản lý cấp trung gian sẽ không giảm nhiều như có người đã dự đoán. Điều này là do, cùng với việc thực hiện công nghệ tự động hóa, tuy yêu cầu đối với công tác quản lý cấp cơ sở tương đối ít, nhưng lại cần nhàn viên quản lý cấp trung gian đối với những công việc mang tính tham mưu như thiết kế, bảo vệ quyết sách tự động hóa và hệ thống quy hoạch. Tuy nhiên, việc tăng thêm đơn vị tham mưu sẽ phải trả giá bằng việc giảm bớt đơn vị trực tiếp sản xuất.

Trên đây là nội dung Luật LVN Group sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Luật LVN Group (Sưu tầm và Biên soạn).