1. “Quyền im lặng” là gì?

Thuật ngữ “Quyền im lặng” bắt nguồn từ Mỹ, với nguyên tắc “Không người nào bị bắt buộc phải làm chứng chống lại mình”. Theo đó, người bị bắt giữ, trước khi bị thẩm vấn, biết rõ họ có quyền giữ im lặng; bất cứ điều gì người ấy khai báo sẽ được dùng xem là chứng cứ để chống lại họ ở Tòa án. Người bị buộc tội chỉ có thể khai báo khi có mặt Luật sư của LVN Group. Quyền có được bào chữa và quyền im lặng là 2 trong số các quyền cơ bản được luật pháp nước Mỹ quy định.

Ở nước ta, “Quyền im lặng” không được quy định cụ thể trong luật; BLTTHS năm 2015 không nêu khái niệm về “Quyền im lặng”, nhưng đã cụ thể hóa một số nguyên tắc cơ bản về quyền con người, quyền công dân của Hiến pháp năm 2013 như: Nguyên tắc “Suy đoán vô tội” (Điều 13); “Xác định sự thật của vụ án” (Điều 15); “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự” (Điều 16); “Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (Điều 26). Điều 59 đến Điều 62 BLTTHS năm 2015 quy định quyền của người bị buộc tội (gồm: Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) được “Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”. Quyền này được thể hiện xuyên suốt từ khi bị bắt, bị khởi tố cho đến xét xử. Tuy nhiên, đây có phải chính là nội hàm, tinh thần cốt lõi của “Quyền im lặng” được thể hiện trong Hiến pháp năm 2013 và BLTTHS năm 2015 hay không? Trên thực tế, “Quyền im lặng” được hiểu và áp dụng khác nhau ở các chủ thể (người bị tạm giữ, người bị bắt, bị can, bị cáo, Luật sư, Điều tra viên, Kiểm sát viên…) mang tính đối lập nhau, thể hiện như sau:

Một là, người bị tạm giữ, người bị bắt, bị can, bị cáo luôn cho rằng “Quyền im lặng” được thể hiện xuyên suốt ở các giai đoạn tố tụng của vụ án, họ “không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”, vì nghĩa vụ chứng minh họ có tội hay không thuộc về Cơ quan điều tra, VKS. Riêng giới Luật sư của LVN Group luôn cổ súy, nhiệt tình ủng hộ các” “thân chủ” của mình thực hiện “Quyền im lặng” ở các giai đoạn tố tụng, nhất là khi vụ án được đưa ra xét xử.

Hai là, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán) luôn gặp lúng túng, bất ngờ khi bị can, bị cáo… thực hiện “Quyền im lặng”. Do trong BLTTHS năm 2015 và các văn bản dưới luật chưa có quy định cụ thể hoặc hướng dẫn; hơn thế nữa chưa có tài liệu nghiệp vụ nào quy định về cách thức, trình tự, thủ tục để các cơ quan và người tiến hành tố tụng thực hiện khi bị can, bị cáo thực hiện “Quyền im lặng”. Hơn nữa, lịch sử tố tụng hình sự luôn quy định, tiến trình tố tụng đối vụ án (điều tra, truy tố, xét xử) gắn liền với lời trình bày bằng lời nói, chữ viết của bị can, bị cáo về việc “thừa nhận, không thừa nhận” hành vi phạm tội của họ; việc “im lặng”, không khai báo, từ chối khai báo luôn được xem là bất hợp tác, không thành khẩn, gây bất lợi cho chính họ trong quá trình xử lý vụ án.

Ba là, qua 2 vụ án nói trên cho thấy, thời điểm được các bị cáo (Trương Hồ Phương Nga, Hoàng Công Lương) thực hiện đều trong giai đoạn xét xử; các bị cáo đều cho rằng do bị cáo buộc tội, nên dẫn đến họ sử dụng “Quyền im lặng” để bảo vệ mình. Từ đó cho thấy, đại diện VKS thực hành quyền công tố tại phiên tòa là đối tượng chính bị tác động khi các Luật sư, bị cáo sử dụng “Quyền im lặng”. Vụ án sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi xét xử, có thể sẽ diễn ra ở hướng bị Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, hoặc bị cáo được tuyên không phạm tội. Ở thời điểm này bản lĩnh, năng lực của Kiểm sát viên phải được chứng minh để bảo vệ công lý, để tội ác phải bị trừng phạt.

2. “Quyền im lặng” trong pháp luật quốc tế và một số quốc gia

Tuy hệ thống pháp luật quốc tế không có định nghĩa về “quyền im lặng” trong bất kỳ văn bản nào song một số công ước quốc tế, văn kiện quốc tế về quyền con người đã nhắc đến nội hàm của quyền này.

Tại Điều 12 của “Tuyên bố về bảo vệ mọi người khỏi bị tra tấn và các hình thức đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay hạ nhục khác năm 1975” có nêu: “Bất kỳ lời khai nào đã được xác lập mà có được bởi kết quả của tra tấn hoặc đối xử hay trừng phạt một cách tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ nhục khác không thể được viện dẫn làm bằng chứng chống lại người có liên quan hoặc chống lại bất kỳ người nào khác trong bất kỳ thủ tục tố tụng nào”. Như vậy, có thể hiểu, lời khai khi bị ép cung, mớm cung, dùng nhục hình không có giá trị về pháp lý.

“Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm năm 1984” một lần nữa khẳng định: “Lời khai của người bị tra tấn, bị dùng nhục hình, bị đối xử vô nhân đạo không có giá trị chứng minh trong quá trình điều tra vụ án”.

Điều 14 của “Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiếu của Liên hiệp quốc về hoạt động tư pháp đối với người vị thành niên năm 1985 (các quy tắc Bắc Kinh)” nêu: “Trong bất kỳ trường hợp nào, thủ tục xét xử người chưa thành niên phạm tội cũng đều phải tuân theo những tiêu chuẩn tối thiểu được áp dụng chung cho bất cứ bị can nào theo một thủ tục được biết tới là “thủ tục pháp lý cần thiết”. Theo thủ tục pháp lý này, một sự “xét xử công bằng và chính đáng” phải có những biện pháp bảo vệ cơ bản như quyền suy đoán vô tội, quyền đưa ra nhân chứng, vật chứng, quyền được biện hộ trước tòa, quyền được im lặng, quyền được nói lời cuối cùng trong một phiên xét xử, quyền kháng cáo…”.

“Quyền im lặng” được áp dụng phổ biến ở các nước có mô hình tố tụng tranh tụng của hệ thống thống luật, sau đó tiếp tục ảnh hưởng tới một số quốc gia theo mô hình tố tụng thẩm vấn của hệ thống luật lục địa. Ở mô hình tố tụng tranh tụng, vụ án hình sự được coi như tranh chấp, xung đột pháp lý giữa các bên nên có sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bị buộc tội, cho nên có sự nhấn mạnh vai trò và năng lực tố tụng của bên bị buộc tội, như quyền thu thập chứng cứ, quyền bào chữa, quyền im lặng… Song nội hàm và phạm vi áp dụng “quyền im lặng” ở các quốc gia này cũng không hoàn toàn giống nhau và đều không phải là quyền tuyệt đối mà nó có thể bị giới hạn trong những hoàn cảnh cụ thể. Chẳng hạn, ngay tại Mỹ và Đức, thì “quyền im lặng” được ghi nhận nhưng không có nghĩa là loại trừ nghĩa vụ khai báo, hay như ở Nhật thì “quyền im lặng” được hiểu là quyền không khai báo khi không có sự tư vấn, chứng kiến của Luật sư của LVN Group… Như vậy, “quyền im lặng” bắt nguồn từ nguyên tắc suy đoán vô tội, được coi là một thành tựu tiến bộ của nền tư pháp nhân loại, nhưng việc tiếp thu quyền này vào pháp luật của mỗi quốc gia cũng ở các mức độ khác nhau phụ thuộc vào mô hình tố tụng truyền thống cũng như điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của quốc gia đó.

3. Quy định về quyền im lặng và các đảm bảo pháp lý trong tố tụng hình sự Việt Nam

Quyền im lặng được thể hiện ở hai nội dung: Thứ nhất, quyền im lặng được thể hiện thông qua các nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng hình sự; Thứ hai, quyền im lặng thể hiện qua quy định về quyền của bị can, bị cáo.

3.1. Quyền im lặng thông qua các nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng hình sự

Hai nguyên tắc cơ bản thể hiện quyền im lặng là nguyên tắc suy tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc xác định sự thật vụ án.

Theo đó Điều 13 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 quy định về nguyên tắc suy đoán vô tội như sau: 

“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”. 

Điều 15 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về nguyên tắc xác định sự thật vụ án: 

“Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội”.

3.2. Quyền im lặng thông qua các quy định về quyền của người bị buộc tội

Quyền im lặng được thể hiện tại điểm d Khoản 1 Điều 60; điểm h Khoản 2 Điều 61 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015. Nội dung các điều luật đều thể hiện bị can, bị cáo có quyền: “Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, quyền im lặng được hiểu là quyền của người bị buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) trong việc khai báo các thông tin về người bị buộc tội và những tình tiết của vụ án. Việc trình bày lời khai là quyền của người bị buộc tội, đó không phải là nghĩa vụ buộc phải thực hiện. Bởi lẽ, nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng.

Đối với những vấn đề bất lợi, họ không buộc phải khai báo, không trả lời, không buộc phải đưa ra những lời khai chống lại chính mình và đứng trước cơ quan tiến hành tố tụng, họ không buộc phải nhận mình có tội. Đó là sự biểu hiện của quyền im lặng. Trường hợp người bị buộc tội không khai báo, cơ quan nhà nước không có quyền buộc họ phải khai báo bằng các biện pháp không hợp pháp.

Việc bị can, bị cáo không trả lời cơ quan, người tiến hành tố tụng những điều bất lợi cho bản thân sẽ không bị coi là tình tiết tăng nặng.

4. Vậy khi nào, giai đoạn tố tụng nào bị can, bị cáo sử dụng “Quyền im lặng”?

Thực tiễn lịch sử tố tụng hình sự Việt Nam nói chung, “Quyền im lặng” được người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo sử dụng rất ít. Qua nghiên cứu cho thấy, “quyền im lặng” được các bị cáo sử dụng ở các trường hợp sau:

– Vụ án được dư luận xã hội quan tâm, các cơ quan ngôn luận đưa tin, bình luận trái chiều.

– Có quan điểm khác nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình xử lý vụ án (có tội, không có tội, khác nhau về tội danh, về chứng cứ…).

– Các bị can, bị cáo không nhận tội, có nhiều Luật sư của LVN Group tham gia (bị cáo Phương Nga, Hoàng Công Lương đều cho rằng mình không phạm tội; bị cáo Nga có 3 Luật sư của LVN Group bào chữa, Lương có 4 Luật sư của LVN Group).

– Thời điểm các bị cáo sử dụng “Quyền im lặng” là lúc vụ án được đưa ra xét xử, khi biết mình bị VKS truy tố theo điều, khoản cụ thể của Bộ luật Hình sự. Ở đó bị cáo, Luật sư của LVN Group sử dụng “Quyền im lặng” nhằm chống lại cáo buộc của VKS.

5. Những lưu ý đối với Kiểm sát viên trong các vụ án có bị cáo sử dụng “Quyền im lặng”

Với những phân tích ở trên, theo chúng tôi, trước, trong khi thực hành quyền công tố đối với các vụ án này, Kiểm sát viên cần lưu ý những nội dung sau:

Một là, ngoài bản lĩnh nghiệp vụ, Kiểm sát viên phải có thần kinh thép, có niềm tin vững chắc về pháp luật về quyết định truy tố của VKS là chính xác, để bảo vệ lẽ phải, bảo vệ công lý.

Hai là, nắm chắc, sử dụng linh hoạt, hiệu quả các chứng cứ được sử dụng để buộc tội. Do bị cáo sử dụng “Quyền im lặng”, nên KSV chỉ công bố các chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố kết hợp với xét hỏi các bị cáo khác, bị hại, người làm chứng… tại phiên tòa.

Ba là, có đề cương, kế hoạch xét hỏi chính xác, khoa học, đúng trọng tâm; trong đó cần chuẩn bị những tài liệu, chứng cứ khoa học để kịp thời lập luận, bác bỏ các  tài liệu, lời khai nại của bị cáo (nếu có) và Luật sư đưa ra. Lưu ý ở trường hợp này, do bị cáo ủy quyền cho các Luật sư của LVN Group bào chữa cho mình, nên KSV còn tập trung “đấu” với các Luật sư. Vì vậy, cần tập trung vào nội dung chính, không được sa đà, hoặc bị dẫn dụ vào những nội dung không cần thiết, theo ý đồ sắp đặt sẵn của người bào chữa.

Bốn là, có kế hoạch dự phòng ở trường hợp xấu nhất sẽ diễn ra (ví dụ: Bị cáo khác, bị hại, nhân chứng… thay đổi lời khai trước đó được Kiểm sát viên dự định sử dụng làm chứng cứ buộc tội). Có kế hoạch về sự chỉ đạo kịp thời của Lãnh đạo Viện về những vấn đề phát sinh tại phiên tòa; sự hỗ trợ về nghiệp vụ đơn vị, cơ quan để cung cấp kịp thời các tài liệu cần thiết do bị cáo, Luật sư đưa ra.

Trên đây là những quan điểm của cá nhân về những vấn đề pháp lý xảy ra khi bị cáo sử dụng “Quyền im lặng”, và những khó khăn, vướng mắc Kiểm sát viên gặp phải ở các phiên tòa nêu trên; rất mong nhận được sự trao đổi, chia sẻ từ các đồng nghiệp.